Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.99 KB, 1 trang )
Thuyết minh về nón lá của người phụ nữ Việt
Nam
” Có tìm hiểu dĩ vãng của chính mình thì mới quý nó được và có quý trọng dĩ vãng thì mới tìm được
hướng đi cho tương lai.” Đó là lời của cố học giả Nguyễn Hiền Lê mà tôi muốn gửi đến bạn đọc và những
ai quan tâm đến việc bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc của người Việt nam ta. Từ xưa, chiếc nón và áo
dài duyên dáng đã làm nổi bật bản sắc văn hóa dân tộc. Nón lá tự bao giờ đã trở thành nét đặc thù riêng
của người phụ nữ Việt Nam, không ai phủ nhận được. Nón lá có lịch sử rất lâu đời, là một trong những
họa tiết được khắc trên trống đồng Ngọc Lữ, trên thạp đồng Đào Thịnh. Nón lá gắn liền với đời sống tạo
nên nét bình dị, duyên dáng.Một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre, lúc nghỉ ngơi, người nông dân
dùng nón quạt cho mát, ráo mồ hôi. Nón lá có nhiều loại, thay đổi theo từng thời kì lịch sử.Binh lính thời
xưa dùng nón dấu, nón ngựa hay nón gõ, trong tang lễ hay dùng nón cạp. Trong các lễ hội của người miền
Bắc, người phụ nữ mang nón quai thao, hát những câu quan học tha thiết. Nón bài thơ thì là một loại nón
đặc trưng của xứ Huế. Người việt dùng nón lá, nhưng ít người để ý hay tìm hiểu xem nón được làm thế
nào, có bao nhiêu vành, đường kính bao nhiêu?….nón lá tuy giản dị, rẻ tiền nhưng một chiếc nón đẹp
được làm ra là nhờ những đoi bàn tay khéo léo cần cù. Nghề làm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ,
người đàn ông trong gia đình cũng có thể vót tre làm khung nón. Từ cây tre, họ vốt thành từng nan vành
một cách công phu, sau đó uốn thành từng vòng tròn trịa. Để cho nón có hình chóp, người ta làm từng
vanh nhỏ dần cho lên tới chóp. Lá để làm nón là một loại lá khó tìm, có hai loại là Du Quy Diệp – thời
xưa làm tơi dùng để chống mư gió, một loại khác là Bồ Quy Diệp, lá mỏng và mềm hơn. Ngoài ra ngày
nay người ta cũng làm từ nhiều loại lá khác như lá cọ, lá hồi…Khi lấy lá, người ta thường lấy những lá
non có màu xanh, sau đó phơi khô, dùng những đồ có mặt phẳng đặt trê nồi than lửa nóng đỏ, dùng cục
vải nhỏ đè lên lá, làm công việc này giống như động tác khi là ủi, đổng thời tay kéo thẳng cho lá thẳng ra,
nổi lên những đường gân, chọn những lá đẹp để là phần ngoài của nón. Tiếp đó lấy khung nón được làm
từ 16 vanh chính, khoảng cách bằng nhau. Khâu làm khung phải do thợ chuyên môn làm thì nón mới đều
và đẹp. Các vanh nón được nối lại với nhau bằng các que tre vót nhỏ. Nếu nón được lót bằng lớp lá đót
thì sẽ có đọi bền cao hơn. Vành nón thường có đường kính khoảng 41 cm. khi xếp lá lên trên cần phải đều
tay, không làm lộ ra các lớp lá xếp đè lên nhau. Người ta phết phía ngoài nón lớp sơn dầu mỏng, trong
suốt, vừa tạo độ độ óng cho nón vừa để nước không thấm vào nón qua các lỗ kim vào bên trong. Tóm lại,
để làm một chiếc nón cần phải trải qua 15 khâu, từ trên rừng lấy lá, rồi phơi khô, sấy lá, mở lá, là, làm
vanh, vành nón, khâu nón, cắt chỉ, thêu non, làm quai… Thời trước khi chưa có chỉ, người ta dùng bẹ lá
cây thuộc họ thơm tước lấy phần tơ ngâm nước vài ba ngày cho nát phần thịt, dùng bàn chải, chải lấy