Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong bảo lãnh tại Ngân hàng TMCT Ngoài quốc doanh (VP Bank)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.41 KB, 92 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của kinh tế khu vực, nền kinh tế nước ta trong
những năm qua đạt được nhiều bước tiến đáng kể (GDP đạt khoảng 7-8%).
Một trong những lĩnh vực thành công là Ngân hàng-Tài chính. Các hoạt động
Ngân hàng phát triển mạnh mẽ, nổi bật là hoạt động bảo lãnh có số dư liên tục
tăng qua các năm, hứa hẹn là một dịch vụ có lợi nhuận tiềm năng. Tuy nhiên,
để bảo lãnh thực sự phát huy ưu điểm thì trước khi thực hiện bảo lãnh không
thể xem nhẹ công tác phân tích tài chính của doanh nghiệp. Công tác này
không chỉ quan trọng trong hoạt động bảo lãnh mà còn quan trọng trong nhiều
hoạt dộng ngân hàng khác.
Dù được soạn thảo về quy trình khá chặt chẽ song phân tích tài chính
doanh nghiệp trước khi thực hiện bảo lãnh ở VPBank không tránh khỏi những
hạn chế nhất định. Chính vì vậy em lựa chọn đề tài : “Hoàn thiện công tác
thẩm định tài chính doanh nghiệp trong bảo lãnh tại Ngân hàng TMCT
Ngoài quốc doanh (VP Bank)”.
Bố cục luận văn gồm 3 phần :
Chương I : Thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh
của Ngâm hàng thương mại.
Chương II : Thực trạng công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong
hoạt động bảo lãnh tại VPBank.
Chương III : Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính doanh
nghiệp trong hoạt động bảo lãnh tại VP Bank.

CHƯƠNG I
THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG
BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Kinh doanh ngân hàng thương mại là một trong những ngành công
nghiệp lâu đời nhất trên thế giới. Ngân hàng thương mại đầu tiên được thành
lập vào năm 1782 tại Mỹ, trước khi Hiến pháp Liên bang được thông qua, và
nhiều ngân hàng được thành lập từ năm 1800 đến nay vẫn đang hoạt động
hiệu quả. Kể từ khi ra đời, các nhà kinh doanh ngân hàng thương mại đã mang


đến cho khách hàng của mình nhiều dịch vụ tài chính phong phú, đáp ứng hầu
hết các nhu cầu tài chính tiêu dùng cá nhân cũng như tài chính doanh nghiệp.
Trong số đó phải kể tới bảo lãnh ngân hàng, một loại hình dịch vụ ngân hàng
hiện đại. Lần đầu tiên bảo lãnh ngân hàng xuất hiện vào những năm 60 tại một
thị trường nội địa nước Mỹ, sau đó, vào đầu những năm 70, bảo lãnh bắt đầu
được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế và đến ngày nay dịch vụ
bảo lãnh đã phát triển mạnh mẽ ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Không
đứng ngoài xu thế đó, doanh só mà dịch vụ này mang lại cho các ngân hàng
thương mại Việt Nam trong những năm gần đây gia tăng một cách đáng kể.
Vậy bảo lãnh ngân hàng là gì và tính ưu việt nào của dịch vụ bảo lãnh khiến vị
trí của nó ngày càng được củng cố một cách chắc chắn trong các loại giao
dịch? Vì sao trước khi cung ứng một gói dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng, các
cán bộ tín dụng ngân hàng phải thẩm định tài chính doanh nghiệp? Những
thắc mắc trên đây sẽ được lý giải trong chương này.
1.1 Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên
bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực

hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả
thay.
Về cơ bản, quan hệ bảo lãnh ngân hàng gồm các bên như sau:
Bên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng, bao gồm: ngân hàng thương mại
nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát
triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam, ngân hàng hợp tác, và các tổ chức tín dụng khác thành lập
và hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng (gọi chung là các tổ chức tín
dụng).

Bên được bảo lãnh là các tổ chức bao gồm:
Các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam
như doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty hợp danh, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt
Nam, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể.
Các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức
tín dụng.
Hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94
của Bộ luật Dân sự.
Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên
doanh và tham gia đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để
thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam.
Bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có
quyền thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của các tổ chức tín dụng phát hành bảo
lãnh.
Trong đó, cam kết bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ
chức tín dụng hoặc văn bản thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng, khách hàng

được bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng
nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Quan hệ giữa các bên trong hợp đồng bảo lãnh được tóm tắt theo sơ đồ
sau:
Sơ đồ 1 Quan hệ giữa các bên trong hợp đồng bảo lãnh
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động bảo lãnh
Nhìn chung, bảo lãnh ngân hàng có các đặc điểm sau đây:
Ngân hàng dựa trên chính uy tín của mình để cung ứng dịch vụ bảo
lãnh cho khách hàng. Thật vậy, trong gói dịch vụ này, ngân hàng đứng ra bảo
đảm với bên nhận bảo lãnh rằng khách hàng của mình sẽ thực hiện đúng, đủ

nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ
tài chính thay thế. Bằng cách này, ngân hàng đã tạo được sự tin tưởng cho bên
nhận bảo lãnh và góp phần xúc tiến các hoạt động thương mại giữa các bên
được tiến hành nhanh chóng hơn, thuận tiện hơn.
Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ ngoại bảng. Vì ngân hàng dùng
uy tín của mình để cung cấp dịch vụ và ngay tại thời điểm phát hành bảo lãnh,
ngân hàng chưa phải chịu trách nhiệm tài chính thay cho khách hàng nên bảo
lãnh được theo dõi ngoại bảng. Điều này có nghĩa là trong thời gian bảo lãnh,
tạm thời nghiệp vụ tín dụng này chưa tác động làm thay đổi nguồn vốn hay tài
sản của ngân hàng phát hành. Nó sẽ được theo dõi nội bảng khi hết thời hạn

Bên nhận bảo lãnh
HĐ mua bán, dự thầu
Bên bảo lãnh (NH)
Thư bảo lãnh
(3)
Bên được bảo lãnh
Đơn xin bảo lãnh
(1)
(1)
bảo lãnh, khách hàng không thực hiện được cam kết của mình với bên đối tác
buộc ngân hàng phải chịu trách nhiệm thay thế. Điều này tương đương với
việc ngân hàng cấp cho khách hàng một món vay mà khách hàng phải có
nghĩa vụ nhận nợ và hoàn trả nợ cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Bảo lãnh là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau. Trong một gói
dịch vụ bảo lãnh ngân hàng thường có sự kết hợp giữa 3 hợp đồng độc lập.
Thứ nhất là hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh (hợp đồng
gốc – hợp đồng giao dịch các loại), thứ hai là hợp đồng giữa bên được bảo
lãnh và bên bảo lãnh, cuối cùng là hợp đồng giữa bên nhận bảo lãnh và bên

bảo lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng có tính độc lập so với hợp đồng. Mặc dù mục đích
của bảo lãnh ngân hàng là bồi hoàn cho người thụ hưởng những thiệt hại từ
việc không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh trong quan hệ hợp
đồng, nhưng việc thanh toán một bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều
khoản và điều kiện được quy định trong bảo lãnh.
Tính phù hợp của bảo lãnh. Khi người thụ hưởng bảo lãnh đến yêu cầu
tổ chức tín dụng thanh toán thì tổ chức tín dụng có trách nhiệm kiểm tra các
chứng từ do người thụ hưởng xuất trình. Tổ chức tín dụng bảo lãnh có quyền
từ chối thanh toán nếu như chứng từ có dấu hiệu không hợp lệ hay những điều
kiện của bảo lãnh không được đáp ứng.
1.1.3 Các loại bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng được phân loại dựa theo nhiều tiêu thức khác nhau
như: căn cứ vào bản chất của bảo lãnh, căn cứ vào phương thức phát hành,
vào điều kiện và quy trình…Song đa phần các ngân hàng thương mại căn cứ
vào mục đích bảo lãnh để phân loại.
Theo mục đích của bảo lãnh, bảo lãnh có thể được chia ra các loại sau:
Bảo lãnh vay vốn: là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành
cho bên nhận bảo lãnh, về việc cam kết trả nợ thay cho khách hàng trong

trường hợp khách hàng không trả nợ hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn. Bảo
lãnh vay vốn gồm: bảo lãnh vay vốn trong nước và bảo lãnh vay vốn nước
ngoài (chủ yếu dưới hình thức bảo lãnh mở L/C trả chậm)
Bảo lãnh thanh toán: là một bảo lãnh do ngân hàng phát hành cho bên
nhận bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp
khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình
khi đến hạn.
Bảo lãnh dự thầu: là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành
cho bên mời thầu để bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng.
Trong trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không

nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì ngân hàng thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là bảo lãnh do ngân hàng phát hành cho
bên nhận bảo lãnh bảo đảm việc thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của
khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trường hợp
khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng,
ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm: là một bảo lãnh ngân hàng do
tổ chức tín dụng phát hành cho bên thụ hưởng bảo đảm khách hàng thực hiện
đúng các thỏa thuận về chất lượng sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên
nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng
các thỏa thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh
mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín
dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Bảo lãnh hoàn thanh toán: là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín
dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền
ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh.
Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải

hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ số tiền
ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì tổ chức tín dụng sẽ hoàn trả số tiền ứng
trước cho bên thụ hưởng bảo lãnh.
Bảo lãnh đối ứng: là một bảo lãnh do một tổ chức tín dụng (bên phát
hành bảo lãnh đối ứng) phát hành cho một tổ chức tín dụng khác (bên bảo
lãnh) về việc đề nghị bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của
khách hàng của bên phát hành bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh.
Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh, bên bảo
lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên phát hành bảo lãnh đối ứng phải
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng cho bên bảo lãnh.
Xác nhận bảo lãnh: là bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng (bên xác nhận

bảo lãnh) phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm khả năng thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng được xác nhận bảo lãnh (bên được xác
nhận bảo lãnh) đối với khách hàng. Trường hợp bên được xác nhận bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình đã cam kết
với bên nhận bảo lãnh thì bên xác nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên được xác nhận bảo lãnh.
Đồng bảo lãnh: là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một
nghĩa vụ của khách hàng thông qua một tổ chức làm đầu mối. Trong một số
trường hợp, để giảm thiểu rủi ro các ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo
lãnh. Trường hợp này, một ngân hàng đứng ra đóng vai trò là ngân hàng đầu
mối phát hành bảo lãnh và có sự tham gia của các ngân hàng thành viên khác.
Nếu phải chi trả cho người thụ hưởng theo bảo lãnh đã lập, ngân hàng đầu mối
có thể đòi bồi hoàn theo tỷ lệ tham gia của họ, dựa trên các bảo lãnh đối ứng
do các ngân hàng này phát hành. Đến lượt mình, các ngân hàng này lại tiến
hành truy đòi từ bên được bảo lãnh.

1.1.4 Tầm quan trọng của hoạt động bảo lãnh
Một nền kinh tế phát triển tồn tại trong nó nhiều loại hình giao dịch đa
dạng, bao gồm giao dịch tài chính lẫn phi tài chính, giao dịch thương mại lẫn
phi thương mại. Nếu các giao dịch được tiến hành một cách thuận lợi, nền
kinh tế có đà phát triển nhanh hơn, vững chắc hơn. Bảo lãnh ra đời như một
chất xúc tác, giúp các bên đối tác an tâm tiến hành giao dịch.
Về bản chất, bảo lãnh là một nghiệp vụ hỗ trợ khách hàng ngoại bảng.
Đối với ngân hàng, cung ứng dịch vụ bảo lãnh, ngân hàng sẽ thu được phí bảo
lãnh, mở rộng hoạt động kinh doanh. Đối với khách hàng, bảo lãnh là một
công cụ hỗ trợ quan trọng trong giao dịch.
Thật vậy, bảo lãnh là một công cụ bảo đảm. Ngân hàng khi phát hành
bảo lãnh đã đồng thời cam kết chi trả bồi thường khi xảy ra sự cố vi phạm hợp
đồng của người được bảo lãnh, tạo một sự đảm bảo chắc chắn cho người nhận
bảo lãnh. Sự đảm bảo chắc chắn này khiến cho các hợp đồng được ký kết một

cách dễ dàng và thuận lợi. Đặc biệt, ngày nay khi giao thương phát triển vượt
ra phạm vi một quốc gia, các đối tác có thể hoàn toàn không biết nhau, hoặc
mối quan hệ làm ăn mới được hình thành lần đầu, hoặc họ xa xôi về địa lý…
thì bảo lãnh dường như đã khắc phục được những bất lợi này.
Không chỉ là công cụ bảo đảm, bảo lãnh còn là công cụ tài trợ cho
người được bảo lãnh. Thông qua bảo lãnh, người được bảo lãnh không phải
xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh, được vay nợ hoặc được kéo dài thời gian
thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ… Do vậy, mặc dù không trực tiếp cấp vốn
như trong cho vay nhưng bảo lãnh ngân hàng giúp cho khách hàng được
hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như trong cho vay.
Nhìn chung, sự xuất hiện của nghiệp vụ bảo lãnh vừa mang lại lợi ích
cho khách hàng, vừa mang lại một khoản thu phí cho ngân hàng vì vậy nghiệp
vụ này ngày càng phát triển trong các ngân hàng thương mại.

1.1.5 Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh
Bảo lãnh là một trong bốn nghiệp vụ tín dụng cơ bản của ngân hàng
thương mại. Tương tự như nghiệp vụ cho vay, trình tự và thủ tục của bảo lãnh
bao gồm: tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, quyết định bảo lãnh, ký hợp
đồng, xử lý nợ quá hạn phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Bước 1: Khách hàng lập và gửi hồ sơ đề nghị bảo lãnh.
Trong hồ sơ gồm có: Hồ sơ pháp lý, Giấy đề nghị bảo lãnh, Báo cáo tài
chính, Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh và các thông tin khác, Hồ sơ
tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định.
Bước 2: Ngân hàng thẩm định hồ sơ và ra quyết định bảo lãnh.
Nhận được hồ sơ xin bảo lãnh của khách hàng, cán bộ tín dụng ngân
hàng tiến hành thẩm định hồ sơ đó, chủ yếu là thẩm định các điều kiện bảo
lãnh của khách hàng (đã hội tụ đầy đủ và thỏa mãn quy chế về nghiệp vụ bảo
lãnh chưa), tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh đã đủ tiêu chuẩn chưa. Sau khi
thẩm định hồ sơ, ngân hàng đưa ra quyết định bảo lãnh hay từ chối. Nếu
không chấp nhận bảo lãnh, ngân hàng phải trả lời bằng văn bản cho khách

hàng và nói rõ lý do. Nếu chấp thuận bảo lãnh, ngân hàng phải cân nhắc lựa
chọn hình thức và nội dung bảo lãnh thích hợp nhất với yêu cầu của khách
hàng cũng như khả năng, kinh nghiệm nghiệp vụ của ngân hàng.
Bước 3: Ngân hàng ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng và phát hành
thư bảo lãnh.
Khách hàng nhận một bản cam kết bảo lãnh do ngân hàng phát hành.
Ngân hàng kiểm tra theo dõi chặt chẽ tiến trình bảo lãnh nhằm phòng vệ rủi
ro, đôn đốc khách hàng thực hiện các nghĩa vụ được bảo lãnh.
Bước 4: Khách hàng thanh toán phí bảo lãnh và các khoản phí khác
(nếu có) theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo lãnh.
Phí bảo lãnh được tính cho mỗi khoản bảo lãnh theo công thức sau:
Phí bảo lãnh = Số dư bảo lãnh × Mức phí bảo lãnh × Thời gian bảo lãnh

Trong đó:
- Số dư bảo lãnh là số tiền đang còn được bảo lãnh.
- Thời gian bảo lãnh là thời gian ngân hàng chịu trách nhiệm bảo lãnh
về số dư bảo lãnh và có nghĩa vụ thanh toán theo bảo lãnh đã cấp.
- Mức phí bảo lãnh do các bên thỏa thuận, không vượt quá 2%/năm tính
trên số tiền còn đang được bảo lãnh, nếu phí bảo lãnh nhỏ hơn 300.000 đồng
thì các ngân hàng thu phí bảo lãnh là 300.000 đồng. Ngoài ra khách hàng còn
phải thanh toán cho ngân hàng bảo lãnh các chi phí hợp lý khác phát sinh liên
quan đến giao dịch bảo lãnh khi các bên có thỏa thuận bằng văn bản.
Bước 5: Tất toán bảo lãnh.
Sau khi thư bảo lãnh hết thời hạn hiệu lực hoặc khi có thông báo hoặc
xác nhận của bên nhận bảo lãnh về việc hoàn thành nghĩa vụ liên quan đến
bảo lãnh, ngân hàng tiến hành tất toán bảo lãnh. Trường hợp bên được bảo
lãnh vi phạm nghĩa vụ đã được bảo lãnh, bên bảo lãnh phải trả thay và tự động
hạch toán nợ vay bắt buộc đối với số tiền trả nợ thay theo lãi suất nợ quá hạn
của bên được bảo lãnh đối với bên bảo lãnh và áp dụng các biện pháp cần thiết
để thu nợ như phát mại tài sản bảo đảm, trích tài khoản của bên được bảo lãnh

(nếu có thỏa thuận), khởi kiện ra cơ quan pháp luật và các biện pháp xử lý tài
sản bảo đảm khác theo quy định của pháp luật.
Bên được bảo lãnh có trách nhiệm phối hợp thực hiện và chấp hành các
biện pháp xử lý của tổ chức tín dụng bảo lãnh, thực hiện bồi hoàn cho tổ chức
tín dụng trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ được bảo lãnh.

1.2 Thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh
của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm và sự cần thiết của công tác thẩm định tài chính
doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân,
hoạt động kinh doanh trên thị trường với mục tiêu rõ ràng là tăng giá trị tài
sản cho các chủ sở hữu. Về mặt kỹ thuật, bất kỳ một loại hình doanh nghiệp
nào cũng đòi hỏi yếu tố đầu vào, trải qua quy trình công nghệ chúng sẽ trở
thành sản phẩm phục vụ thị trường (sản phẩm này có thể là hữu hình, có thể là
vô hình nếu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ). Về mặt tài chính, hoạt động của
doanh nghiệp không thể diễn giải đơn thuần như vậy. Bởi để làm tăng giá trị
tài sản của chủ sở hũu, các nhà quản trị luôn phải đau đầu với những quyết
định tài chính như: Lấy nguồn vốn nào để đầu tư? Đầu tư vào đâu? Đầu tư
trong thời gian bao lâu? Và quản lý hoạt động tài chính hằng ngày, lâu dài như
thế nào? Trong một doanh nghiệp, vì thế, mảng tài chính bao giờ cũng đóng
vai trò quan trọng nhất, là xương sống, là cốt lõi cho doanh nghiệp tồn tại và
phát triển.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp vể nguyên tắc được phản ánh
trong các báo cáo tài chính như: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh
doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Trong đó,
bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh một cách
tổng quát tài sản của doanh nghiệp theo hai cách đánh giá: quy mô và kết cấu
tài sản và nguồn hình thành nên tài sản (cơ cấu tài trợ) của doanh nghiệp tại

thời điểm lập báo cáo. Như vậy, bảng cân đối kế toán nhằm mô tả sức mạnh
tài chính của doanh nghiệp bằng cách trình những thứ mà nó có và những thứ
mà nó nợ tại một thời điểm. Bảng cân đối kế toán được coi như một bức ảnh
chụp nhanh, bởi vì nó được lập vào thời điểm cuối niên độ kế toán.

Báo cáo kết quả kinh doanh là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản
ánh một cách tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh (doanh thu – chi phí)
của doanh nghiệp trong một niên độ kế toán. Số liệu trong báo cáo này cung
cấp những thông tin tổng hợp nhất về phương thức kinh doanh của doanh
nghiệp trong kỳ và chỉ ra rằng các hoạt động kinh doanh đó đem lại lợi nhuận
hay gây ra tình trạng lỗ vốn. Đồng thời, nó còn phản ánh tình hình sử dụng
các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật, và kinh nghiệm quản lý kinh doanh
của doanh nghiệp. Đây là một bản báo cáo tài chính được các nhà phân tích tài
chính rất quan tâm vì nó cung cấp các số liệu về hoạt động kinh doanh mà
doanh nghiệp thực hiện trong kỳ. Nó còn được sử dụng để dự tính xem doanh
nghiệp sẽ hoạt động ra sao trong tương lai.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh
khái quát tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp, khả năng chi trả được hay
không của doanh nghiệp, thường được xác định trong thời hạn ngắn (từng
tháng). Tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp được phản ánh gồm dòng tiền
thực nhập quỹ (thu) và dòng tiền thực xuất quỹ (chi), để từ đó nhà phân tích
có thể thực hiện cân đối ngân quỹ, xác định được dự phòng ngân quỹ tối thiểu
đảm bảo khả năng thanh toán cho doanh nghiệp
Măc dù các báo cáo tài chính này phản ánh khái quát tình hình tài chính
của doanh nghiệp nhưng chúng chỉ đơn thuần bao hàm những con số vô chi
nếu như không được các nhà quản trị bằng những phương pháp của mình phân
tích, nhận xét, đánh giá. Vì vậy, thẩm định tài chính (hay phân tích tài chính)
là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép
xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá
tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất

lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.
Thẩm định tài chính doanh nghiệp được nhiều đối tượng lưu tâm bởi
doanh nghiệp hoạt động trong tổng hòa các mối quan hệ: quan hệ với các cơ

quan Nhà nước, quan hệ với các đối tác làm ăn, quan hệ với nhà đầu tư, quan
hệ với khách hàng, quan hệ với các đối thủ cạnh tranh…Do đó, thẩm định tài
chính phục vụ cho nhu cầu thông tin của cơ quan Nhà nước để quản lý, cho
chủ sở hưu để quyết định đầu tư, cho chủ nợ để phán quyết tài trợ…
1.2.2 Phương pháp thẩm dịnh tài chính doanh nghiệp
Nhiều phương pháp được áp dụng để tiến hành thẩm định tài chính
doanh nghiệp, nhưng phương pháp chủ yếu được dùng là phương pháp so
sánh.
So sánh giữa số thực hiện trong kỳ với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ
xu hướng thay đổi về tài chính của doanh nghiệp, thấy được tình hình tài
chính được cải thiện hay xấu đi như thế nào.
So sánh giữa số kế hoạch với số thực hiện để thấy rõ mức độ phấn đấu
của doanh nghiệp.
So sánh số thực hiện kỳ này với mức trung bình ngành để thấy vị trí
của doanh nghiệp, thấy tình hình tài chính doanh nghiệp đang ở tình trạng xấu
hay tốt, được hay chưa so với các doanh nghiệp trong ngành.
So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng loại trong tổng
số, các tỷ số quan trọng, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới doanh thu…
So sánh theo chiều ngang để thấy được sự thay đổi cả về số tương đối và số
tuyệt đối của một khoản mục nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
1.2.3 Nội dung thẩm định tài chính doanh nghiệp
1.2.3.1 Thẩm định các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp
Để đánh giá tình hình hoạt động một doanh nghiệp tính tới thời điểm
hiện tại và dự đoán xu hướng phát triển trong tương lai thì phương pháp phân
tích chỉ số các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp rất được ưa sử dụng mặc dù nó
có những hạn chế nhất định. Phân tích chỉ số đòi hỏi người phân tích phải

đánh giá được sự rằng buộc giữa các khoản mục trên bảng cân đối kế toán
cũng như trên báo cáo kết quả kinh doanh. Không chỉ có vậy, người phân tích

phải chỉ ra được sự thay đổi theo thời gian của các chỉ số đã tính (xu hướng
phát triển của doanh nghiệp). Nhưng nếu chỉ đơn thuần đưa ra các chỉ số và sự
thay đổi theo thời gian của chúng thì chưa thể hoàn thành việc thẩm định tài
chính. Người phân tích phải căn cứ vào chuẩn mực là những chỉ tiêu trung
bình ngành để có thể đưa ra nhận xét cũng như đánh giá một cách chính xác
(vị trí của doanh nghiệp trong ngành, tình hình hoạt động là tốt hay xấu). Khi
chưa có chỉ tiêu trung bình ngành thì có thể đưa ra những chỉ tiêu tài chính
được đánh giá là chuẩn mực để so sánh, hoặc chọn một doanh nghiệp cùng
loại hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có tình hình tài chính lành mạnh để so
sánh. Một doanh nghiệp có các chỉ tiêu tài chính phù hợp với mức trung bình
của ngành thì tình hình tài chính được đánh giá là ổn định và vững chắc.
Nhóm chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá tình hình tài chính lành
mạnh của doanh nghiệp, tức là doanh nghiệp đáp ứng được khả năng chi trả
hoặc không đứng trước bờ vực phá sản, phải kế tới đó là các chỉ số phản ánh
khả năng thanh khoản, bao gồm khả năng thanh toán tạm thời và khả năng
thanh toán nhanh.
Khả năng thanh toán tạm thời là khả năng chi trả của doanh nghiệp đối
với những khoản nợ tới hạn trong kỳ. Nợ tới hạn bao gồm các khoản vay ngắn
hạn, nợ dài hạn tới hạn trả, phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp… Phần
tài sản trang trải cho các khoản nợ này chỉ có thể là tài sản lưu động vì nó có
tính thanh khoản cao, thời gian để chuyển đổi thành tiền thường dưới một
năm. Khả năng thanh toán tạm thời được xác định như sau:

Khả năng thanh toán = Tài sản lưu động
tạm thời Nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán nhanh là khả năng thanh toán ngay được các
khoản nợ tới hạn theo yêu cầu của các nhà đầu tư hoặc của chủ nợ mà doanh


nghiệp có thể đáp ứng. Tài sản của doanh nghiệp dùng để tranh trải ngay các
món nợ tới hạn chính là tiền và các khoản tiền tương đương. Những tài sản
quay vòng nhanh được coi là tiền tương đương, những tài sản này nhanh
chóng đổi thành tiền mặt, đó là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn (tín phiếu,
kỳ phiếu, trái phiếu, cổ phiếu…)
Khả năng thanh toán nhanh = Tài sản lưu động – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Các chỉ tiêu phản ánh hoạt dộng của doanh nghiệp đo lường mức độ
hiệu quả của việc quản lý tài sản và việc quản lý này ảnh hưởng như thế nào
tới các hoạt động được đo lường bởi doanh số bán.
Chỉ số vòng quay hàng tồn kho: hàng tồn kho là một loại tài sản dự trữ
với mục đích đảm bảo cho sản xuất được tiến hành một cách bình thường, liên
tục và đáp ứng nhu cầu thị trường. Mức độ tồn kho cao hay thấp phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố như loại hình kinh doanh, mức độ tiêu thụ của thị trường,
mùa vụ trong năm… Để đảm bảo cho sản xuất tiến hành liên tục đồng thời
đáp ứng đủ cho nhu cầu khách hàng trong cả năm, mỗi doanh nghiệp cần có
một mức dự trữ tồn kho hợp lý. Vì vậy, phương pháp tốt nhất để xác định mức
tồn kho hợp lý là so sánh mức tồn kho với giá vốn hàng bán trong năm.

Vòng quay = Giá vốn hàng bán
hàng tồn kho Hàng tồn kho
Kỳ thu tiền bình quân là chỉ tiêu dùng để đánh giá các khoản phải thu.
Trong quá trình hoạt động, việc phát sinh các khoản phải thu, phải trả là điều
tất yếu. Khi các khoản phải thu càng lớn, chứng tỏ vốn của doanh nghiệp bị
chiếm dụng càng nhiều, ứ đọng trong khâu thanh toán. Nhanh chóng giải

phóng vốn bị ứ đọng trong khâu thanh toán là một bộ phận quan trọng của
công tác tài chính. Vì vậy, các nhà phân tích tài chính rất quan tâm tới thời
gian thu hồi các khoản phải thu. Chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân được xác định

như sau:
Kỳ thu tiền = Các khoản phải thu
bình quân Doanh thu bình quân ngày
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng
tổng tài sản trong kỳ, nó phản ánh một đồng tài sản được đầu tư mang lại mấy
đồng doanh thu. Chỉ tiêu này được xác định như sau:

Hiệu suất sử dụng = Doanh thu
tổng tài sản Tổng tài sản
Các chỉ tiêu phải ánh cơ cấu tài chính ( hay đòn cân nợ) thể hiện
chính sách sử dụng vốn nợ và vốn chủ hợp lý như thế nào trong doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy, hiếm có doanh nghiệp nào có thể tự chủ tài chính hoàn toàn
trong mọi diễn biến của thị trường cũng như trong mọi chu kỳ kinh doanh. Vì
thế để nắm lấy cơ hội kinh doanh hoặc chỉ đơn giản duy trì sản xuất kinh
doanh được liên tục, các nhà tài chính luôn luôn phải tính toán huy động và sử
dụng nợ một cách hợp lý sao cho không tự đẩy doanh nghiệp vào thế mất tự
chủ tài chính hay phụ thuộc quá nhiều vào các khoản nợ. Các chủ nợ cũng dựa
vào chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính này của doanh nghiệp để xem xét mức
độ an toàn của đồng vốn khi cho doanh nghiệp vay. Các chỉ tiêu bao gồm:
Tỷ số nợ đo lường sự góp vốn của chủ doanh nghiệp so với số nợ vay.
Chủ nợ thường ưa thích một tỷ số nợ vừa phải, tỷ số nợ càng thấp, hệ số an
toàn càng cao, món nợ của họ càng được bảo đảm và họ có cơ sở để tin tưởng
vào sự đáo nợ đúng hạn của con nợ. Khi tỷ số nợ cao, tức là chủ doanh nghiệp

chỉ góp một phần nhỏ trên tổng số vốn, thì sự rủi ro trong kinh doanh được
chuyển sang chủ nợ gánh chịu một phần. Tỷ số nợ được xác định như sau:
Tỷ số nợ = Tổng số nợ
Tổng số vốn
Hệ số đảm bảo khả năng thanh toán lãi vay cho biết doanh nghiệp sẵn
sàng trả tiền lãi vay tới mức nào, vì tiền lãi vay là một khoản chi cố định hằng

năm của doanh nghiệp được trích ra từ lợi nhuận. Hệ số này được xác định
như sau:
Hệ số đảm bảo = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
khả năng thanh toán lãi vay Lãi vay phải trả
Các chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời là chỉ tiêu được nhà đầu tư,
chủ nợ, cũng như chủ doanh nghiệp rất quan tâm vì nó phản ánh hiệu quả của
một đồng vốn bỏ ra mang lại bao nhiêu đồng lãi. Các chỉ tiêu này không đơn
thuần phản ánh lợi nhuận của một doanh nghiệp mà nó còn đặt lợi nhuận ấy
trong mối quan hệ với doanh thu đạt được trong kỳ, với tổng số vốn mà doanh
nghiệp đã huy động vào sản xuất – kinh doanh. Chỉ tiêu này bao gồm: doanh
lợi doanh thu, hệ số đo lường khả năng tạo thu nhập cơ bản, ROA (tỷ suất sinh
lời trên tổng tài sản) và ROE (tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu).
Doanh lợi doanh thu dùng để đánh giá hoạt động sản xuất – kinh doanh
thịnh vượng hay suy thoái, được tính bằng lấy thu nhập sau thuế chia cho
doanh thu.
Doanh lợi = Lợi nhuận sau thuế
doanh thu Doanh thu

Hệ số đo lường khả năng tạo thu nhập cơ bản đo lường sức mạnh tạo
thu nhập cơ bản của tổng tài sản của doanh nghiệp trước ảnh hưởng của thuế
và lãi vay. Chỉ tiêu này được xác định

Hệ số đo lường = Thu nhập trước thuế và lãi vay
khả năng tạo thu nhập cơ bản Tổng tài sản
ROA phản ánh sức mạnh tạo thu nhập của tài sản sau thuế và đòn bẩy,
được xác định bằng cách lấy thu nhập sau thuế và lãi vay chia cho tổng tài
sản:
ROA = Lợi nhuận ròng
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản mang lại lợi

nhuận cho doanh nghiệp càng cao.
Bên cạnh ROA, các nhà phân tích tài chính thường sử dụng kèm chỉ
tiêu ROE (tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu). Chủ sở hữu rất quan tâm đến
chỉ tiêu này bởi nó phản ánh một đồng vốn chủ bỏ ra thu được mấy đồng lợi
nhuận ròng. Phương pháp xác định ROE như sau:

ROE = Lợi nhuận ròng
Vốn chủ sở hữu
1.2.3.2 Thẩm định các chỉ tiêu phi tài chính
Nếu các chỉ tiêu tài chính phản ánh tình trạng hoạt động sản xuất kinh
doanh và năng lực trả nợ của doanh nghiệp qua các năm thì những chỉ tiêu phi
tài chính giúp cán bộ tín dụng đánh giá được liệu doanh nghiệp này có đáng
tin cậy không và nó có hoạt động tốt trong tương lai không. Nói một cách

khác, các chỉ tiêu phi tài chính dưới đây sẽ góp phần hoàn thiện hơn công tác
thẩm định tài chính doanh nghiệp.
* Tư cách pháp lý của doanh nghiệp
Đây là một tiêu chí quan trọng mà các cán bộ tín dụng phải đặc biệt lưu
tâm khi tiến hành thẩm định khách hàng của mình. Lý do thật đơn giản vì
Ngân hàng không thể có quan hệ tín dụng với một doanh nghiệp “ma” mà sự
tồn tại và mọi hoạt động của nó không được Pháp luật công nhận. Nếu đặt
quan hệ tín dụng nói chung hay cấp bảo lãnh nói riêng cho những doanh
nghiệp không có tư cách pháp lý thì rủi ro tín dụng rất dễ xảy ra, nguy cơ mất
vốn của ngân hàng là khó tránh khỏi, thậm chí còn ảnh hưởng tới uy tín của
Ngân hàng. Với mỗi Ngân hàng sẽ có những danh mục thẩm định khác nhau
về tư cách pháp lý của doanh nghiệp nhưng nhìn chung bao gồm các mục cơ
bản như: Quyết định thành lập hay Giấy phép thành lập, Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, Điều lệ công ty, Quyết định bổ nhiệm Giám đốc…, đối
với những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần Giấy phép đầu tư, Hợp
đồng liên doanh, các văn bản xác nhận tư cách pháp lý…

* Trình độ, kinh nghiệm và năng lực quản trị của Ban lãnh đạo doanh
nghiệp
Ban lãnh đạo là đại diện cho doanh nghiệp, họ có ảnh hưởng không nhỏ
tới thành công hay thất bại của doanh nghiệp bởi họ là những người đề ra
phương hướng phát triển, chiến lược phát triển, chỉ đạo và điều hành nguồn
lực con người, công nghệ, vốn…trong doanh nghiệp. Do đó, trình độ và kinh
nghiệm của Ban lãnh đạo doanh nghiệp rất đáng được cán bộ tín dụng lưu
tâm. Trình độ của Ban lãnh đạo doanh nghiệp được đánh giá không chỉ là
trình độ học vấn mà còn ở trình độ am hiểu về lĩnh vực kinh doanh doanh
nghiệp đang tiến hành, trình độ quản lý sắp xếp công việc, trình độ quản trị
nhân viên trong doanh nghiệp, điều hòa các mối quan hệ. Trình độ, kinh
nghiệm thường được phản ánh qua bằng cấp, số năm công tác trong nghề,

trong vị trí được giao, số lần Ban lãnh đạo đã giúp công ty vượt qua những lúc
khó khăn tài chính…Các chỉ tiêu này tốt chứng tỏ Ban lãnh đạo rất có năng
lực, họ có thể đưa ra các giải pháp thông suốt trong những tình huống khó
khăn hoặc duy trì phát triển doanh nghiệp trong điều kiện thuận lợi. Điều này
sẽ khiến Ngân hàng an tâm hơn khi quyết định tài trợ cho doanh nghiệp.
* Ngành nghề kinh doanh, thị trường tiêu thụ, mức độ cạnh tranh
- Về ngành nghề kinh doanh: Trong nền kinh tế, doanh nghiệp khác
nhau kinh doanh ở các lĩnh vực ngành nghề khác nhau, cho ra các sản phẩm
khác nhau để phục vụ những đối tượng khách hàng khác nhau. Nếu doanh
nghiệp thuộc ngành nghề kinh doanh được Chính phủ ưu tiên phát triển thì ắt
hẳn trong tương lai họ sẽ có nhiều hỗ trợ ưu đãi, nhiều cơ hội kinh doanh hứa
hẹn. Tiềm năng phát triển của những doanh nghiệp này là rất lớn, khiến Ngân
hàng tin tưởng hơn vào khả năng tài chính tốt đẹp của doanh nghiệp, do đó có
thể Ngân hàng mạnh dạn hơn khi cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho họ.
- Về thị trường tiêu thụ: Trước mỗi quyết định đầu tư của doanh nghiệp,
định hướng được tốt thị trường tiêu thụ là chìa khóa thành công cho doanh
nghiệp. Bởi chính thị trường tiêu thụ này, hay thị trường mục tiêu mà công ty

quyết định phục vụ, quyết định hướng vào là cái nôi duy trì hoạt động cho
công ty, mang lại lợi nhuận cho công ty quyết định sự phát triển của công ty,
là nơi hứa hẹn nghĩa vụ của công ty sẽ được thực hiện với Ngân hàng. Khi
thẩm định về thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp, các cán bộ tín dụng nên
nghiên cứu về quy mô và xu thế phát triển của thị trường tiêu thụ trong thời
gian tới (mở rộng hay thu hẹp).
- Về mức độ cạnh tranh: Ngân hàng có thể đánh giá doanh nghiệp toàn
diện hơn khi nhìn vào mức độ cạnh tranh của đoạn thị trường mà doanh
nghiệp đang duy trì hoạt động. Mức độ cạnh tranh mà doanh nghiệp đang đối
mặt là khốc liệt hay dễ dàng? Các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp là ai,
so với toàn thị trường thì doanh nghiệp đứng ở vị trí nào? Nguy cơ doanh

nghiệp bị thôn tính ra sao? Phương pháp cạnh tranh của doanh nghiệp là gì
(cạnh tranh theo chất lượng sản phẩm, mẫu mã hay giá cả của sản
phẩm)? v.v…Tất cả các tiêu chí này giúp cán bộ tín dụng Ngân hàng nhận xét
được liệu trong tương lai doanh nghiệp có thể phát triển lành mạnh được
không hay sẽ đi vào ngõ cụt nếu vị thế của doanh nghiệp quá thấp trên thị
trường hay mức độ cạnh tranh trên thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt
động quá cao.
* Uy tín doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài trên thị trường cần
phải xây dựng cho mình một chữ tín thật tốt. Chữ tín ở đây không bó hẹp
trong quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp với Ngân hàng mà còn được quan
tâm tới trong quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp, với người tiêu thụ,
với khách hàng, với các cơ quan quản lý… Đặc biệt, khi xét đến việc cấp bảo
lãnh nói riêng, Ngân hàng rất lưu tâm đến uy tín của doanh nghiệp trong quan
hệ tín dụng, thể hiện ở các chỉ tiêu: nợ quá hạn trong quá khứ, số lần gia hạn
nợ, số lần chậm trả lãi vay, số lần mất khả năng thanh toán với các chủ nợ
khác…Thật vậy, nếu tình hình trả nợ của doanh nghiệp trong quá khứ không
khả quan thì có hai trường hợp xảy ra hoặc tình hình tài chính của doanh

nghiệp có khó khăn, hoặc doanh nghiệp không có ý thức tốt trong việc thanh
toán nợ. Để đánh giá chính xác doanh nghiệp thuộc trường hợp nào, Ngân
hàng cần phải xem xét thêm về các chỉ tiêu tài chính khác của doanh nghiệp.
Nhìn chung các doanh nghiệp có tình hình trả nợ trong quá khứ không tốt sẽ
không được Ngân hàng đánh giá cao dẫn tới không được cấp thêm tín dụng
hoặc cấp thêm rất hạn chế.
* Tài sản bảo đảm
Tài sản bảo đảm là tài sản dùng để tăng sự rằng buộc về thực hiện nghĩa
vụ trả nợ của doanh nghiệp đối với Ngân hàng. Điều này có nghĩa là trước khi
cấp tín dụng cho khách hàng, Ngân hàng sẽ nắm giữ tài sản bảo đảm của họ.

Nếu doanh nghiệp không thực hiện hoặc không thể thực hiện nghĩa vụ tài
chính đối với Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ phát mại tài sản bảo đảm để bù đắp
vào nghĩa vụ tài chính đó. Vì vậy, đối với hầu hết các Ngân hàng, tài sản bảo
đảm là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để quyết định có nên
cấp bảo lãnh hay không.
Thông thường, tài sản bảo đảm được các Ngân hàng định giá thấp hơn
nhiều so với giá thị trường và chỉ cấp bảo lãnh với một tỷ lệ thấp hơn giá trị
tài sản đã định giá đó. Sở dĩ có điều này là vì Ngân hàng muốn giảm rủi ro tài
sản bảo đảm bị xuống giá trong quá trình cấp tín dụng nói chung, bảo lãnh nói
riêng. Hơn thế nữa, Ngân hàng tránh rủi ro phi đạo đức, tăng trách nhiệm của
khách hàng với khoản tín dụng.
Nói tóm lại, sau khi đánh giá các chỉ tiêu tài chính và các chỉ tiêu phi tài
chính, cán bộ Ngân hàng cần kết hợp cả hai chỉ tiêu trên để có được một đánh
giá toàn diện nhất. Vì thực tế, chỉ tiêu tài chính phản ánh tiềm lực, khả năng
tài chính của doanh nghiệp hay khả năng thanh toán nợ của họ, nhưng không
phải doanh nghiệp có tiềm lực tài chính vững mạnh nào cũng sẵn lòng trả nợ.
Ý thức trả nợ của doanh nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào các chỉ tiêu phi tài
chính. Nếu cả hai loại chỉ tiêu trên được đánh giá kỹ lưỡng dựa trên cơ sở
nguồn thông tin đáng tin cậy thì Ngân hàng tránh được phần lớn rủi ro trước

khi ra quyết định tài trợ.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định tài chính doanh
nghiệp trong hoạt động cấp bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.3.1 Các nhân tố thuộc về ngân hàng
* Quan điểm chỉ đạo của Ban lãnh đạo ngân hàng và các chính sách
liên quan đến thẩm định tài chính doanh nghiệp
Có thể nói quan điểm chỉ đạo của Ban lãnh đạo ngân hàng trong thẩm
định tài chính là hết sức quan trọng và ảnh hưởng đến toàn bộ quy trình thẩm
định cũng như chất lượng thẩm định. Thật vậy, nếu Ban lãnh đạo ngân hàng

không coi trọng thẩm định tài chính thì chất lượng cấp tín dụng cho các doanh
nghiệp sẽ thấp. Có thể ngân hàng coi trọng tiêu chí khác hơn là thẩm định tài
chính nhưng những tiêu chí này chưa hẳn đã phản ánh tình hình tài chính của
doanh nghiệp một cách hiệu quả và chính xác. Ngược lại, Ban lãnh đạo ngân
hàng chú trọng thẩm định tài chính thì sẽ xây dựng được quy trình thẩm định
chặt chẽ và kèm theo ban hành các chính sách thích hợp, công bằng, hợp lý để
nâng cao chất lượng thẩm định.
* Quy trình thẩm định
Quy trình thẩm định là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của Ngân
hàng trong việc đánh giá, phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Như
đã đề cập tới ở trên, nếu Ban lãnh đạo ngân hàng quan tâm chú trọng đến khâu
thẩm định tài chính doanh nghiệp thì họ có nhiều khả năng sẽ xây dựng một
quy trình nghiêm ngặt, chặt chẽ, cụ thể từng giai đoạn và đảm bảo tính liên
hoàn, tính khoa học theo một trình tự nhất định giữa các giai đoạn đó. Ngoài
ra, quy trình thẩm định nên được xây dựng sao cho phù hợp với từng nhóm
khách hàng, tiết kiệm thời gian cho các bên nhưng vẫn đảm bảo được chất
lượng thẩm định.
* Chất lượng thông tin thu thập
Trong thế kỷ 21 này, thông tin được coi là chìa khóa của thành công,
người nào nắm được nhiều thông tin quan trọng và đáng tin cậy, người đó sẽ

chiến thắng. Ngân hàng là trung gian tài chính quan trọng, đối tượng kinh
doanh của nó là tiền tệ, nó hoạt động trong thị trường tài chính đầy sôi động
và đầy biến động. Vì thế, thông tin thu thập về khách hàng được xem là yếu tố
hàng đầu không thể thiếu. Thông tin là yếu tố đầu vào quan trọng trong hoạt
động thẩm định tài chính khách hàng để xét cấp tín dụng Ngân hàng nói
chung và cấp bảo lãnh nói riêng. Chất lượng thẩm định phụ thuộc vào sự đa
dạng, phong phú, độ chính xác của thông tin. Hiện nay, để thu thập thông tin
về khách hàng, cán bộ Ngân hàng có thể tham khảo các hồ sơ tín dụng trước

đó (nếu là khách hàng hiện tại của Ngân hàng), tham khảo từ phía đối tác hoặc
đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, thu thập từ các nhà cung cấp thông tin,
hoặc từ các phương tiện thông tin đại chúng (báo, tạp chí, internet…).
* Cán bộ thẩm định
Thẩm định tài chính doanh nghiệp về bản chất là đánh giá mặt tài chính
của doanh nghiệp. Vì thế, kết quả thẩm định chịu ảnh hưởng của yếu tố chủ
quan từ cán bộ thẩm định, thể hiện ở:
- Số lượng cán bộ thẩm định: Số lượng cán bộ thẩm định ảnh hưởng
trực tiếp đến áp lực về mặt công việc, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng thẩm
định. Nếu số lượng cán bộ thẩm định ít mà phải phụ trách thẩm định nhiều
doanh nghiệp thì công tác thẩm định không thể kỹ lưỡng để đảm bảo yêu cầu
hoặc nếu thẩm định cẩn thận thì tiến độ công việc sẽ rất chậm chạp, thời gian
xét duyệt kéo dài. Do đó, duy trì số lượng cán bộ thẩm định hợp lý sẽ giúp
công tác thẩm định đảm bảo hơn.
- Trình độ và kinh nghiệm của cán bộ thẩm định: Thẩm định tài chính
doanh nghiệp đòi hỏi xem xét doanh nghiệp trên nhiều khía cạnh. Nếu cán bộ
thẩm định trình độ và nhận thức hạn chế cũng như kinh nghiệm thiếu về các
ngành kinh tế đặc thù thì kết luận đưa ra sẽ phiến diện. Điều này dễ dẫn đến
những phán quyết sai lầm trong tương lai của Ngân hàng.
- Đạo đức của cán bộ thẩm định: Như đã nói ở trên, kết quả thẩm định
tài chính doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan của người thẩm

định. Cán bộ thẩm định dù có trình độ chuyên môn cao đến đâu nhưng bóp
méo thông tin hay cố tình hướng những kết quả đánh giá theo ý chí chủ quan,
phục vụ cho lợi ích riêng thì không thể có một kết quả thẩm định tốt, công
bằng, minh bạch được. Do đó, Ngân hàng luôn đặt vấn đề đạo đức là mối
quan tâm hàng đầu.

* Cơ sở vật chất phục vụ thẩm định
Cơ sở vật chất phục vụ thẩm định bao gồm: máy tính điện tử, phần
mềm quản trị và phân tích dữ liệu, dụng cụ lưu giữ hồ sơ…tất cả những
phương tiện, vật dụng hỗ trợ và thực hiện thẩm định, phân tích tài chính. Cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, đồng thời rủi ro trong hoạt
động kinh doanh ngày càng đa dạng, khó dự đoán, cơ sở vật chất phục vụ
thẩm định đòi hỏi được thường xuyên đổi mới, cải tiến và cập nhật để tiết
kiệm thời gian, giảm công việc thủ công, tạo thuận lợi thoải mái khi phục vụ
khách hàng
1.3.2 Các nhân tố thuộc về khách hàng doanh nghiệp
* Tiểu sử tín dụng của khách hàng
Tiểu sử tín dụng của khách hàng đóng vai trò quan trọng trong việc
đánh giá tính chính trực của khách hàng đó. Điều này có ảnh hưởng tới việc
liệu Ngân hàng có nên đặt lòng tin vào doanh nghiệp hay không, khả năng
doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ tài chính của mình có lớn không, và
liệu Ngân hàng có nên tài trợ doanh nghiệp đó không. Sự chính trực của
doanh nghiệp được đánh giá căn cứ vào các tiêu thức như:
- Trong quá khứ, doanh nghiệp đã từng xin cấp tín dụng chưa? Xin của
ai (ngân hàng hay đối tác)? Có trả nợ đúng hạn không?
- Doanh nghiệp đã từng bị phá sản chưa?
- Quan hệ của doanh nghiệp với đối tác có tốt không? Có tạo được uy
tín trong môi trường hoạt động của mình không.
* Chất lượng thông tin mà khách hàng cung cấp
Chất lượng thông tin tài chính mà khách hàng cung cấp phụ thuộc vào

nhiều yếu tố như nguồn thông tin (thông tin được lấy từ nguồn chính thống
hay không), thời gian cung cấp (mới cập nhật hay đã lâu) và đối tượng cung
cấp thông tin. Nếu thông tin là do khách hàng cung cấp cho Ngân hàng thì
chất lượng thông tin phụ thuộc trình độ quản trị tài chính trong doanh nghiệp

×