BÀI THU HOẠCH KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỆ ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Mơn học:
Tên chủ
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
đề/vấn đề bài
thu hoạch:
Ngày chấm:
SỐ PHÁCH
ĐIỂM
Giảng viên chấm 1
Giảng viên chấm 2
(Ký, ghi rõ họ, tên)
(Ký, ghi rõ họ, tên)
Bằng số:
Bằng chữ:
Mơn học:
Tên chủ
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
đề/vấn đề bài
thu hoạch:
SỐ PHÁCH
Họ và tên học
viên
Mã số học viên
Lớp
Ngày nộp
MỤC LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
Báo cáo Chính tại Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện mơ hình CNH, HĐH trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển
kinh tế tri thức (KTTT), lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực
chất lượng cao làm động lực chủ yếu”. Đây là chủ trương đúng đắn, thể hiện
sự nhất quán, tư duy mới và quyết tâm chính trị của Đảng về phát triển KTTT
ở nước ta hiện nay.
Đặc điểm chi phối lớn nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội là nền kinh tế còn nghèo nàn, cơ sở vật chất, kỹ thuật lạc hậu, lại
phải gánh chịu hậu quả nặng nề do chiến tranh và thiên tai. Do đó, tiến hành
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là tất yếu, nhằm tạo ra những tiền đề vật chất,
kỹ thuật, con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp hiện đại, nghĩa là
tạo dựng lực lượng sản xuất hiện đại cho chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nếu
tuần tự thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước rồi mới đi vào KTTT thì
chúng ta sẽ bỏ lỡ thời cơ để phát triển; khoảng cách phát triển giữa nước ta
với các nước trong khu vực và trên thế giới khơng thể rút ngắn. Vì vậy, cần
phải lồng ghép, đan xen cả hai quá trình CNH, HĐH và phát triển KTTT.
Thực hiện tốt vấn đề này, chúng ta sẽ “giải được bài toán” tối ưu đối với sự
phát triển đất nước.
Từ những vấn đề trên, sau khi nghiên cứu học phần Kinh tế chính trị, tơi
xin viết bài thu hoạch "Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng", trong quá trình
thực hiện bài thu hoạch sẽ khơng tránh khỏi thiếu sót, kính mong thầy (cơ)
góp ý để bài thu hoạch đạt kết quả tốt hơn.
2
NỘI DUNG
1. Quan niệm về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức
Lịch sử cơng nghiệp hóa trên thế giới đã trải qua hàng trăm năm. Vào
giữa thế kỷ XVIII, một số nước phương Tây, mở đầu là nước Anh đã tiến
hành cuộc cách mạng công nghiệp, với nội dung chủ yếu là chuyển từ lao
động thủ công sang lao động cơ khí. Đây là mốc đánh dấu sự khởi đầu cho
tiến trình cơng nghiệp hóa của thế giới. Tuy vậy, phải đến thế kỷ XIX, khái
niệm công nghiệp hóa mới được dùng để thay thế cho khái niệm cách mạng
công nghiệp, mặc dù sau cách mạng công nghiệp ở Anh, một thế hệ cơng
nghiệp hóa đã diễn ra ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản.
Có thể khái qt, cơng nghiệp hóa là q trình tạo sự chuyển biến từ nền
kinh tế nông nghiệp với nền kinh tế lạc hậu, dựa trên lao động thủ công, năng
suất thấp sang nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế hiện đại, dựa trên
lao động sử dụng bằng máy móc, tạo ra năng suất lao động cao. Như vậy,
cơng nghiệp hóa là q trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành nước
cơng nghiệp hiện đại với trình độ cơng nghệ, kỹ thuật tiên tiến, có năng suất
lao động cao trong các ngành kinh tế quốc dân. Hiện đại hóa là q trình tận
dụng mọi khả năng để đạt trình độ cơng nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại.
Khái niệm kinh tế tri thức manh nha xuất hiện từ đầu những
năm 1960 của thế kỷ trước, tiên phong bởi Fritz Machlup và Peter Drucker.
Trong hơn bốn thập kỷ qua, đã có nhiều nghiên cứu nhằm xác định và giải
thích cơ chế của nền kinh tế này. Trong những năm qua kinh tế tri thức được
chọn làm chiến lược phát triển của nhiều quốc gia, cả những nước phát triển
và đang phát triển. Tuy nhiên, kinh tế tri thức là khái niệm không dễ hiểu vì
dựa trên hai khái niệm trừu tượng là kinh tế và tri thức, và do vậy đã được
hiểu nhiều ít khác nhau.. Nền kinh tế tri thức, còn gọi là kinh tế dựa vào tri
thức (Knowledge - BasedEconomy) là nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức,
3
trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cao. "Nền kinh tế tri thức là nền
kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào việc sản xuất phân phối và sử dụng
tri thức và thông tin" (OECD 1996): "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà
trong đó q trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực
chính cho tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các
ngành kinh tế" (APEC, 2000). Ngân hàng Thế giới (WB, 2000) đánh giá "Đối
với các nền kinh tế tiên phong trong nền kinh tế Thế giới, cán cân giữa hai
yếu tố tri thức và các nguồn lực đang nghiêng về tri thức.Tri thức thực sự đã
trở thành yếu tố quan trọng nhất quyết định mức sống - hơn cả yếu tố đất đai,
hơn cả yếu tố tư liệu sản xuất, hơn cả yếu tố lao động. Các nền kinh tế phát
triển nhất về công nghệ ngày nay thực sự đã dựa vào tri thức". Còn theo Bộ
Thương mại và Công nghiệp Anh: Kinh tế tri thức là nền kinh tế mà việc sản
sinh ra và khai thác tri thức có vai trị nổi trội trong q trình tạo ra của cải:
Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri
thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải,
nâng cao chất lượng cuộc sống.
Trong điều kiện của Việt Nam, Đảng ta xác định: “Cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao”.
2. Những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Hiện nay còn có những tên gọi và những định nghĩa khác nhau về kinh tế
tri thức. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), “kinh tế tri thức
4
là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò
quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất
lượng cuộc sống”.
Các nước phát triển hiện nay đều chứa đựng trong nó nhiều yếu tố của
nền kinh tế tri thức, như nền công nghiệp cơng nghệ cao chiếm tỷ trọng lớn,
lao động trí tuệ có chun mơn kỹ thuật cao. Vì vậy, bước chuyển sang kinh
tế tri thức là bước chuyển có tính tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật
chung. Việt Nam là nước có nền kinh tế nơng nghiệp đang tiến hành cơng
nghiệp hóa để phát triển kinh tế tránh tụt hậu. Đội ngũ cán bộ khoa học của
Việt Nam có khả năng tiếp cận và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật
tiên tiến trên thế giới. Trong quá trình cơng nghiệp hóa đất nước, Việt Nam đã
mạnh dạn đầu tư, khai thác ứng dụng những thành tựu mới của thời đại nhất
là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, cơng nghệ phần mềm... Như vậy,
chúng ta có cơ sở khoa học để đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: chuyển từ
kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và phát triển kinh tế tri
thức. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: “Con
đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy
những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ cơng nghệ
tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng
dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn những thành
tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”.
Như vậy, muốn rút ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng
ta cần phải nắm bắt, khai thác, sử dụng các thành tựu khoa học - công nghệ
hiện đại và những yếu tố của nền kinh tế tri thức với phương châm tăng tốc,
đi tắt, bỏ qua lối mòn mà các nước đã vượt qua. Chủ trương của Đảng và
Nhà nước là đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và đồng thời phát triển
5
kinh tế tri thức là có căn cứ khoa học, phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Nhưng chủ trương này chỉ thành công khi hai nhiệm vụ được thực hiện đồng
thời, lồng ghép vào nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau bằng cách tăng cường đào
tạo, sử dụng khuyến khích tăng nhanh tiềm năng tri thức quốc gia, đầu tư
vào các ngành kinh tế tri thức. Từ chủ trương “từng bước phát triển kinh tế
tri thức” trong Đại hội IX đến Đại hội X, Đảng ta khẳng định: “Coi kinh tế
tri thức là yếu tố quyết định của nền kinh tế và cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa”. Báo cáo chính trị tại Đại hội chỉ rõ: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để rút ngắn q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng
của nền kinh tế và tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển mạnh
các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức;
kết hợp sử dụng nguồn vốn của con người Việt Nam với tri thức mới nhất
của nhân loại”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra trong bối cảnh quốc tế và
trong nước có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính, suy thối kinh tế toàn cầu, trong điều kiện của thế giới
và khu vực có nhiều biến động, với sự xuất hiện nhiều nhân tố mới, trong đó
nổi bật là xu thế tồn cầu hóa và sự phát triển kinh tế tri thức. Những nhân tố
đó đã có tác động nhiều mặt (cả tích cực và tiêu cực) đến q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng tồn quốc lần
thứ XI dự báo, tồn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển
mạnh mẽ, thúc đẩy q trình hình thành xã hội thơng tin và kinh tế tri thức.
Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ chủ yếu được nêu ra trong Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ XI là “Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân
tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức. Phát triển giáo dục là quốc
6
sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”.
Như vậy, Đảng ta đã đưa ra đường lối có căn cứ lý luận và thực tế vững
chắc để tranh thủ thời cơ phát triển nước ta thành một nước công nghiệp hiện
đại với nền tảng là kinh tế tri thức.
3. Những điểm mới trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn đưa ra những đường
lối, chủ trương nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đặc biệt trong bối cảnh phát triển kinh tế tri thức, Đảng ta coi đó là một
trong những tiêu chí thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Tuy nhiên trong từng thời kỳ, nhận thức của Đảng về vấn đề
này cũng có những khác biệt và được điều chỉnh cho phù hợp với từng giai
đoạn. Trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm và bài học thực tiễn của các kỳ
đại hội trước, Đại hội Đảng lần thứ XII (năm 2016) đã cụ thể hóa, bổ sung
phát triển và làm sáng tỏ thêm một số nội dung. Thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, thực hiện đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế.
Nếu mơ hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta trước đây chủ yếu theo chiều rộng
thì đến nay đã bước đầu có sự chuyển biến theo chiều sâu. Văn kiện Đại hội
XII đã đưa ra định hướng đổi mới mơ mình tăng trưởng kinh tế “trong thời
gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng
phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên
cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ,
đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so
sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững”.
Để thực hiện phương châm đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế, Văn kiện Đại hội XII đã kế thừa những nhiệm vụ và giải pháp của Đại
7
hội XI, có bổ sung một số nhiệm vụ, giải pháp mới, nổi bật là: “Đổi mới mơ
hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư
sang phát triển đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong
nước”. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII đã đưa ra phương hướng: “Đẩy
mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng
suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển khai”. Như vậy, Văn kiện của Đại
hội XII đặc biệt chú trọng vai trò của khoa học - công nghệ, coi khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức: “Phát triển
mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là
quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế”. Tuy nhiên, năng lực khoa học - công nghệ của
Việt Nam còn yếu nên đã hạn chế khả năng nắm bắt cơ hội và tranh thủ các
nguồn lực từ bên ngoài của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Khoa học - công
nghệ chưa thực sự gắn kết và chưa trở thành động lực phát triển kinh tế - xã
hội... Văn kiện Đại hội XII xây dựng lộ trình phấn đấu: “Đến năm 2020, khoa
học và cơng nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn
đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến trên thế
giới”. Văn kiện còn nêu định hướng cơ cấu lại nền kinh tế, phát huy sức mạnh
tổng hợp của các giai tầng xã hội trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa và chủ động hội nhập quốc tế.
Thứ hai, tiếp tục khẳng định cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức là con đường tất yếu. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII
khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế;
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức;
hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
8
Báo cáo còn nêu rõ: “Đây là chủ trương lớn, quan trọng được nêu ra từ Đại
hội XI của Đảng. Trong thời gian tới cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình này theo
hướng kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, nâng cao chất
lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động,
ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc
tế”. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là phải
hướng mạnh vào phát triển các ngành công nghệ cao, công nghệ sạch, tranh
thủ những cơ hội “đi tắt, đón đầu” để hình thành nên những mũi nhọn phát
triển theo trình độ tiên tiến của khoa học - công nghệ thế giới. Cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức sẽ phát huy được lợi thế để
kết hợp sức mạnh sáng tạo của dân tộc với sức mạnh thời đại khai thác những
ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường của khu vực và thế giới để phát huy tiềm
năng về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào của nước ta để thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xét về lâu dài, lợi thế về lao động chưa
qua đào tạo và tài nguyên thiên nhiên sẽ ngày càng cạn kiệt, bởi vậy, cần phát
huy lợi thế nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân tài để cạnh tranh và chiếm
lĩnh những ngành có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy
nhiên, khi đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết đại hội XI ( 2011 2015), Báo cáo chính trị đã nêu:
“Nền kinh tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế
còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp,
chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và cơng nghệ, lao động có kỹ năng”.
Đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đến nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh
tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Báo cáo chính trị cũng khẳng định nguyên nhân của những hạn chế, yếu
kém trên là do quá trình “Thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cịn chậm,
9
chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức”. Để bảo đảm thành cơng cho sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sớm
đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại khơng cịn con
đường nào khác là phát triển mạnh kinh tế tri thức.
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế tri thức ở nước
ta khơng chỉ nhằm mục tiêu tăng trường kinh tế mà còn nhằm đạt tới cả mục
tiêu xã hội, vừa phải đạt được mục tiêu tăng năng suất lao động nhưng vẫn
phải tạo thêm ngày càng nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động. Bảo
đảm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, hướng tới dân
chủ, công bằng, văn minh. Điều này phản ánh bản chất định hướng xã hội chủ
nghĩa mà q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức
mà Việt Nam đang hướng đến.
Kế thừa và phát huy những thành tựu, bài học học kinh nghiệm của 30
năm đổi mới, nhất là 5 năm gần đây, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII của Đảng đã nêu ra phương hướng phát triển đất nước trong 5 năm
(2016 - 2020). “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu sớm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” với chủ
trương “công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục thực hiện
mơ hình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển
kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất
lượng cao làm động lực chủ yếu; huy động và phân bổ có hiệu quả mọi nguồn
lực phát triển”.
Thứ ba, điều chỉnh các chỉ tiêu cụ thể cho phù hợp với quá trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Mục tiêu đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại đã được xác định từ Đại hội VIII của Đảng và trên thực tế, 20 năm
10
qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu thực hiện mục
tiêu này. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên
nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu này khơng đạt được. Trong 5 năm tới
phải phấn đấu quyết liệt hơn, phát triển kinh tế nhanh, bền vững để sớm đạt
được mục tiêu này. Với quyết tâm phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đưa ra những chỉ tiêu quan
trọng về mặt xã hội nhằm giải quyết tốt các vấn đề xã hội và hướng tới nền
kinh tế tri thức: “Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 3.500 USD,... tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng
40%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65% - 70%, trong đó có bằng
cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%”. Quá
trình thực hiện các chỉ tiêu của Đại hội XII đồng nghĩa với quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện chiến lược cán bộ. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cơng tác cán bộ được Đảng cụ thể hóa,
thể chế hóa thành các nguyên tắc về “quan hệ giữa đường lối chính trị và
đường lối cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức và tài; giữa kế
thừa và phát triển; giữa sự quản lý thống nhất của Đảng với phát huy đầy đủ
trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị; giữa thẩm quyền, trách
nhiệm cá nhân và tập thể; giữa phân cấp, phân quyền và kiểm tra, giám sát,
kiểm soát để thực hiện thống nhất, đồng bộ trong Đảng và hệ thống chính trị.
Quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công
tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách
11
nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị
về cơng tác cán bộ”. Cùng với chiến lược cán bộ là chiến lược xây dựng và
phát triển con người. Văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh: “Xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát
triển”. Đúc kết và xây hệ giá trị văn hóa chuẩn mực của con người Việt Nam
thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và
điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể
chất, tâm hồn, ý thức tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận
thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự
hào, tơn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.
Như vậy, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng
nhằm phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Muốn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách bền
vững và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng khơng cịn con đường nào khác
hơn con đường phát triển mạnh kinh tế tri thức, chăm lo phát triển văn hóa và
con người, đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế tạo ra thế và
lực để chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Những điểm mới trong tư duy của
Đảng về chiến lược cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa được nêu ra trong Đại hội
Đảng lần thứ XII, một mặt là sự tiếp nối những quan điểm, tư tưởng nhất
qn của Đảng về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các kỳ đại hội trước,
mặt khác là sự bổ sung, phát triển cụ thể hóa hơn để triển khai có hiệu quả
những nhiệm vụ cụ thể trong tình hình mới. Đại hội lần thứ XII khẳng định
quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua khó khăn, thách
thức... thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
12
KẾT LUẬN
Bước vào thế kỷ XXI, các nước trong khu vực và trên thế giới đang nỗ
lực theo đuổi những chiến lược phát triển của mình để vươn tới nền kinh tế tri
thức. “Trung Quốc tiếp tục thúc đẩy chính sách chiêu đãi hiền tài; Ấn Độ tăng
tốc với kế hoạch nghiên cứu và phát triển, Singapore đang đứng đầu châu Á
về cơng nghệ sinh học. Tồn cảnh một khơng khí hừng hực đầu tư cho nền
kinh tế tri thức đang bùng nổ khắp châu Á”.
Trong giai đoạn hiện nay, việc đi tắt, đón đầu, ứng dụng nền kinh tế tri
thức của thế giới vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước của Đảng, Nhà
nước ta ngày càng được quan tâm, chú trọng và là điều kiện tiên quyết để
nước ta quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam cũng đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới tồn diện đất
nước, chủ động và tích cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời, mở
rộng quan hệ với các nước trên tinh thần hợp tác và phát triển (biểu hiện rõ rệt
nhất là đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới). Đó là
những cơ sở để chúng ta, một mặt, khẳng định tính đúng đắn và khoa học
trong quan điểm của Đảng về đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn
với phát triển kinh tế tri thức; mặt khác, hiện thực hố đường lối phát triển đó
trong thực tiễn.
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb.Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
(2) GS, VS. Đặng Hữu, “Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của
Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra
đối với Việt Nam”, Hà Nội, 2000.
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX,X, XI, XII Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội,
.