Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

TIỂU LUẬN: Nhà nước và vấn đề xây dựng nhà nước ở nước ta hiện nay pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.15 KB, 14 trang )

TiÓu luËn TriÕt häc

1















TIỂU LUẬN



Nhà nước và vấn đề xây dựng nhà nước ở
nước ta hiện nay






















TiÓu luËn TriÕt häc

2










Mục lục

Trang

Lời nói đầu 2
Chương I: Lý luận về Nhà nước 3
I. Nguồn gốc và bản chất của nhà nước 3
II. Đặc trưng cơ bản của nhà nước 4
III. Chức năng cơ bản của nhà nước 4
IV. Các kiểu và hình thức nhà nước 5
V. Nhà nước vô sản – tính tất yếu và bản chất 6
VI. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ
cột của hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực
của nhân dân, là tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam 6

Chương II: Vấn đề xây dựng nhà nước ở nước ta hiện nay 8
I. Tại sao phải nâng cao vai trò của nhà nước? 8
II. Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước 9
Kết luận 12
Danh mục tài liệu tham khảo 13









TiÓu luËn TriÕt häc

3












Lời nói đầu

Vai trò của nhà nước ở bất kỳ một quốc gia nào cũng đều rất to lớn. Phương thức
và hiệu quả quản lý của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đối với sự phát
triển về mọi mặt của quốc gia đó.
Việt Nam đã lựa chọn cho mình con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã có quan điểm rõ
ràng và đúng đắn về nhà nước xã hội chủ nghĩa đó là: “Nhà nước của dân, do dân, vì
dân”. Từ khi đổi mới đất nước, Đảng ta lại càng chú trọng vận dụng, phát triển, cụ thể
hoá vấn đề nhà nước của dân, do dân, vì dân. Do vậy, sự quản lý của nhà nước đối với
mọi mặt của đời sống xã hội lại càng ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự phát triển và bộ mặt
của đất nước. Vấn đề nâng cao vai trò của nhà nước là một vấn đề hết sức hệ trọng; luôn
được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, chú ý và đưa ra trong các kỳ Đại hội Đảng.
Mặc dù nhà nước ta đã phát huy vai trò của mình một cách có hiệu quả trong
nhiều lĩnh vực của đất nước, nhưng không phải không có những hạn chế.
“Nhà nước và vấn đề xây dựng nhà nước ở nước ta hiện nay”

Cấu trúc đề tài bao gồm:
Chương I: Lý luận về nhà nước
Chương II: Vấn đề nâng cao vai trò của nhà nước trong điều kiện hiện nay

ở nước ta















TiÓu luËn TriÕt häc

4














Chương I:Lý luận về nhà nước

I.Nguồn gốc và bản chất của nhà nước
Nguồn gốc và bản chất của nhà nước là một vấn đề phức tạp,lý luận khoa học về nhà
nước, về nguồn gốc và bản chất của nhà nước chỉ có thể có được trên cơ sở những quan
niệm biện chứng duy vật về sự phát triển xã hội.

1.Nguồn gốc của nhà nước
Xã hội không phải khi nào cũng có nhà nước. Nhà nước ra đời và tồn tại, khi
trong xã hội mâu thuẫn giai cấp tiến triển đến mức không thể điều hoà được.
Xã hội cộng đồng nguyên thuỷ không có giai cấp, nhà nước chưa xuất hiện. Tổ
chức đầu tiên của xã hội loài người phù hợp với tình trạng kinh tế còn thấp kém, lúc bấy
giờ là chế độ thị tộc, bộ lạc mà đứng đầu là các tộc trưởng, hội đồng các tộc trưởng. Họ là
những người do nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân, coi sóc công việc
chung và có thể bị bãi miễn nếu nhân dân không còn tín nhiệm. Trong tay họ không có và
không cần có một công cụ cưỡng bức đặc biệt nào. Quyền hành và chức năng của các cơ
quan đứng đầu thị tộc, bộ lạc không mang tính chất chính trị, đó mới chỉ là tiền đề của
quyền lực nhà nước.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ cuối của xã hội nguyên thuỷ đã
làm xuất hiện chế độ tư hữu và xã hội bị phân hoá thành những giai cấp có lợi ích đối lập
nhau. Cơ quan quản lý xã hội trong chế độ thị tộc, bộ lạc trở nên bất lực và được thay thế
bởi sự ra đời của bộ máy mới là nhà nước.V.I.Lênin nhấn mạnh: “Nhà nước là sản phẩm
và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc
nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà
được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những
mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được”

.Nhà nước là một phạm trù lịch sử, chỉ ra

đời, tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi những
cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.

2.Bản chất của nhà nước
Người lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước là giai cấp mạnh nhất, giai cấp giữ địa
vị thống trị về mặt kinh tế. Nhờ có nhà nước, giai cấp này trở thành giai cấp thống trị về
mặt chính trị. Bản chất nhà nước, do đó là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị về
mặt kinh tế hay nói cách khác : “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp
TiÓu luËn TriÕt häc

5

này dùng để trấn áp một giai cấp khác”, là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai
cấp này đối với giai cấp khác, là cơ quan quyền lực của một giai cấp đối với toàn xã hội,
là công cụ chuyên chính của một giai cấp. Không có và không thể có nhà nước đứng trên
các giai cấp hoặc nhà nước chung cho mọi giai cấp.
Theo bản chất trên, nhà nước không thể là lực lượng điều hoà sự xung đột giai
cấp, mà trái lại, nó càng làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt.
Nhà nước, cũng theo bản chất đó, là bộ máy quan trọng nhất của kiến trúc thượng
tầng trong xã hội có giai cấp. Tất cả các hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội do nhà nước
tiến hành xét cho cùng, đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.
Tuy nhiên cũng có trường hợp, nhà nước giữ được một mức độ độc lập nào đó đối
với cả hai giai cấp đối địch, khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới thế cân bằng nhất định;
hoặc nhà nước có thể thực hiện sự thoả hiệp về quyền lợi tạm thời giữa các giai cấp để
chống lại một giai cấp khác. Những trường hợp trên có tính chất ngoại lệ và tạm thời.
Đến một lúc nào đó, khi thế cân bằng giữa các giai cấp thù địch bị phá vỡ, sự thoả hiệp
tạm thời giữa các giai cấp thù địch với nhau cũng không còn nữa tất yếu sẽ tập trung
quyền lực vào tay một giai cấp nhất định.

II.Đặc trưng cơ bản của nhà nước.

Bản chất của nhà nước được thể hiện ở đặc trưng của nó. Bất kỳ nhà nước nào
cũng có 3 đặc trưng cơ bản như sau:
1. Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định
Nhà nước được hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ mà họ cư trú
(khác với tổ chức thị tộc, bộ lạc thời nguyên thuỷ được hình thành trên cơ sở quan hệ
huyết thống). Quyền lực nhà nước có hiệu lực với mọi thành viên trong lãnh thổ. Đặc
trưng này làm xuất hiện mối quan hệ giữa từng người trong cộng đồng với nhà nước. Mỗi
nhà nước được xác định bằng một biên giới quốc gia nhất định.

2. Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối
với mọi thành viên trong xã hội
Nhà nước của giai cấp thống trị nào cũng có một bộ máy quyền lực chuyên
nghiệp. Bộ máy quyền lực đó bao gồm các đội vũ trang đặc biệt (quân đội, cảnh sát, nhà
tù, viện kiểm sát) và bộ máy quản lý hành chính. Nhà nước thực hiện quyền lực của mình
trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật
của mình được thực thi trong thực tế.

3. Nhà nước hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy
cai trị
Nhà nước tồn tại dựa vào thuế khoá, quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Đó là
những chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để nuôi sống bộ máy cai trị. Hệ thống
thuế khoá, cống nạp như vậy hoàn toàn không có trong hình thức tổ chức xã hội thị tộc,
bộ lạc. Nó chỉ tồn tại gắn liền với hình thái tổ chức nhà nước. Bằng nhiều hình thức khác
nhau như vậy, nhà nước của giai cấp bóc lột không những là công cụ trấn áp giai cấp mà
còn là công cụ thực hiện sự bóc lột các giai cấp bị áp bức.

III. Chức năng cơ bản của nhà nước
Bản chất giai cấp của nhà nước còn được thể hiện ở các chức năng của nó.
TiÓu luËn TriÕt häc


6


1. Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp là chức năng nhà nước làm công cụ
chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó đối với toàn thể
xã hội. Chức năng giai cấp của nhà nước bắt nguồn từ lý do ra đời của nhà nước và tạo
thành bản chất chủ yếu của nó.
Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý
những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thoả mãn một số nhu cầu chung của cộng
đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
Trong hai chức năng trên thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chức
năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị chính trị. Giai cấp thống
trị bao giờ cũng biết giới hạn chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích của mình. Song
chức năng giai cấp chỉ có thể được thực hiện thông qua chức năng xã hội. Ph.Ăngghen
viết: “ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị
chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó”.

2. Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
Sự thống trị chính trị và sự thực hiện chức năng xã hội của nhà nước thể hiện
trong lĩnh vực đối nội cũng như trong đối ngoại.
a) Chức năng đối nội
Chức năng đối nội của nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và
những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị. Thông thường
điều đó phải được pháp luật hoá và được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của bộ máy nhà
nước. Ngoài ra, nhà nước còn sử dụng nhiều phương tiện khác như bộ máy thông tin,
tuyên truyền, các cơ quan văn hoá, giáo dục để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai
cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong xã hội.
b) Chức năng đối ngoại
Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và

thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác vì lợi ích của
giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi
ích của giai cấp thống trị. Trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế ngày nay, việc mở
rộng chức năng đối ngoại của nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt.
Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đầu xuất phát từ lợi ích của
giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính chất của chức năng đối
nội quyết định tính chất chức năng đối ngoại của nhà nước; ngược lại tính chất và những
nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội.

IV. Các kiểu và hình thức nhà nước
1. Khái niệm kiểu và hình thức nhà nước
Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc giai cấp nào,
tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào.
Mỗi kiểu nhà nước lại có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Hình thức nhà
nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực nhà
nước. Nói cách khác đó là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị.
TiÓu luËn TriÕt häc

7

Hình thức nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, bởi tương
quan lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu giai cấp-xã hội, bởi đặc điểm truyền thống
chính trị của đất nước
2. Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử
Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử là hình thái
kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, hình thái kinh tế-xã
hội tư bản chủ nghĩa là ba kiểu nhà nước: nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong
kiến và nhà nước tư sản. Tuỳ theo tình hình kinh tế-xã hội cụ thể của mỗi quốc gia là mỗi
kiểu nhà nước được tổ chức theo những hình thức nhất định.
Nhà nước chiếm hữu nô lệ: là nhà nước của giai cấp chủ nô thời cổ đại mà tiêu

biểu là các hình thức lịch sử nhà nước chủ nô ở Hy Lạp và La Mã cổ đại như chính thể
quân chủ và chính thể cộng hoà, chính thể quý tộc và chính thể dân chủ. Các hình thức
này chỉ khác nhau về cách thức và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước, còn về
bản chất chúng đều là nhà nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện sự chuyên chính đối
với nô lệ.
Nhà nước phong kiến: là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước
phong kiến cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau. ở phương Tây phổ biến
hình thức quân chủ phân quyền. Quyền lực nhà nước được chia thành quyền lực độc lập,
địa phương phân tán. ở phương Đông, hình thức quân chủ tập quyền là hình thức nhà
nước phổ biến dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất.Trong nhà nước này, quyền
lực của vua được tăng cường rất mạnh, hoàng đế có uy quyền tuyệt đối. Tuy nhiên, tính
tập quyền đó trong thực tế lịch sử là dựa vào sức mạnh quân sự là chủ yếu. Do vậy, nguy
cơ cát cứ phân quyền vẫn luôn thường trực. Mỗi khi chính quyền nhà nước trung ương
suy yếu thì nguy cơ cát cứ lập tức xuất hiện biến thành các cuộc nội chiến tranh giành
quyền lực giữa các thế lực địa chủ các địa phương.
Nhà nước tư sản: là nhà nước của giai cấp tư sản thích ứng với hình thái kinh tế-
xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác
nhau. Trong đó, hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng hoà và hình thức quân chủ
lập hiến. Hình thức cộng hoà lại được tổ chức dưới những hình thức khác nhau như cộng
hoà Đại nghị, cộng hoà Tổng thống trong đó, phổ biến nhất là hình thức cộng hoà Đại
nghị.
Hình thức của nhà nước tư sản là rất phong phú nhưng không làm thay đổi bản
chất của nó-là công cụ của giai cấp tư sản dùng để bóc lột, áp bức, thống trị giai cấp vô
sản và quần chúng lao động.

V. Nhà nước vô sản-tính tất yếu và bản chất
Tổng kết kinh nghiệm lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và
xét địa vị kinh tế của giai cấp đó trong nền sản xuất hiện đại, C.Mác kết luận: để đi tới
một xã hội không còn giai cấp, giai cấp vô sản phải trở thành giai cấp thống trị và nắm
lấy quyền lực chính trị để thực hiện sự thống trị chính trị của mình. Giai cấp vô sản phải

đập tan “bộ máy quân phiệt quan liêu” của nhà nước cũ, thay thế nhà nước của giai cấp
bóc lột bằng một nhà nước kiểu mới, nhà nước của giai cấp vô sản. C.Mác khẳng định:
“Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến từ xã
hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà
nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai
cấp vô sản”

TiÓu luËn TriÕt häc

8

Nhà nước vô sản là một nhà nước kiểu mới, bản chất nhà nước đó là chính quyền
của nhân dân, là quyền lực của nhân dân. Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa nhà nước
vô sản với nhà nước của các giai cấp bóc lột. Xét về phương diện giai cấp, cũng như nền
tảng kinh tế, nhà nước vô sản là nhà nước duy nhất có cơ sở khách quan và đòi hỏi sự
thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân dân. Không đảm bảo sự thống trị chính trị của
giai cấp vô sản thì nhân dân không có quyền lực thực sự, ngược lại, có bảo đảm quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân thì giai cấp vô sản mới thực hiện được mục đích thống trị
chính trị của mình.
Để thể hiện và thực hiện đầy đủ bản chất quyền lực của mình, nhà nước vô sản
phải tồn tại dưới hình thức chế độ dân chủ, hơn nữa phải là chế độ dân chủ vô sản, chế độ
dân chủ cao nhất. Do đó, quá trình tăng cường, củng cố quyền lực nhà nước và sự phát
triển, mở rộng dân chủ đối với nhân dân trong chủ nghĩa xã hội là thống nhất với nhau.

VI. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột của hệ thống
chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, là tổ chức thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, quản lý kinh tế bằng
kế hoạch, các chính sách và những đòn bẩy kinh tế và các công cụ điều tiết khác.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc nhà nước

pháp quyền của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà nước ấy do nhân dân lập ra và thông
qua tổng tuyển cử toàn dân, được đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân. Mọi
quyền lực mà Nhà nước có được đều do nhân dân uỷ quyền. Mọi chủ trương, chính sách
của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Nó kiên quyết đập tan mọi mưu đồ đi ngược
lại ý chí của nhân dân ta.
Trong tổ chức và hoạt động của mình, quyền lực nhà nước được tổ chức theo
nguyên tắc thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữ các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tổ chức và hoạt động
của nhà nước thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tất cả quyền lực của nhà nước
thuộc về nhân dân, bảo đảm sự thống nhất tổ chức và hành động, phát huy đồng bộ và kết
hợp chặt chẽ sức mạnh của cả cộng đồng và từng cá nhân, của cả nước và từng địa
phương, của cả hệ thống bộ máy và từng yếu tố cấu thành nó. Tập trung dân chủ đối lập
với tập trung quan liêu cũng như phân tán, cục bộ.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có sự thống nhất hữu cơ chức
năng giai cấp và chức năng xã hội trong tổ chức và trong hoạt động của mình. Càng đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân, càng có khả năng phát hiện, nhận thức và giải
quyết có hiệu quả những vấn đề có liên quan tới chức năng xã hội. Ngược lại, việc thực
hiện tốt chức năng xã hội sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng giai cấp.






TiÓu luËn TriÕt häc

9



















Chương II
Vấn đề nâng cao vai trò của Nhà nước trong điều kiện hiện nay ở nước
ta
I. Tại sao phải nâng cao vai trò của nhà nước?

1 Nâng cao vai trò của nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại
Đại hội Đảng lần thứ IX đã dự báo: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến
đổi”.Cụ thể như sau:
Một là, khoa học và công nghệ sẽ có bước phát triển nhảy vọt. Với tốc độ phát
triển như vũ bão hiện nay, khoa học và công nghệ trong thế kỷ XXI chắc chắn sẽ có
nhiều kỳ tích, đặc biệt trong các lĩnh vực điện tử, tin học, sinh học, vật liệu mới, năng
lượng, nghiên cứu vũ trụ
Hai là, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực

lượng sản xuất. Trong các thế kỷ trước, những yếu tố tạo ra sự phát triển lực lượng sản
xuất là lao động, vốn và công nghệ thì hiện nay thêm một yếu tố nữa là tri thức và khi
nào yếu tố tri thức chiếm đa số trong những yếu tố tạo nên tăng trưởng, đó là kinh tế tri
thức. Sang thế kỷ XXI, lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển trong đó kinh tế tri thức có
vai trò ngày càng nổi bật.
Ba là, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều
nước tham gia. Xu thế này đang bị một số nước phát triển và tập đoàn kinh tế tư bản
xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt
tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh.
- Hiện nay, tổ chức thương mại thế giới (WTO) có 136 nước tham gia, 25 nước
nộp đơn xin tham gia, trong đó có Việt Nam. Trong khuôn khổ WTO hiện nay chiếm tới
90% thương mại xuất nhập khẩu của thế giới. Nếu nước nào không tham gia sẽ bị phân
biệt đối xử, sẽ bị thiệt hại không nhỏ về lợi ích kinh tế. Thí dụ: Trung Quốc nếu được
TiÓu luËn TriÕt häc

10
tham gia vào WTO thì hàng hoá vào thị trường Mỹ sẽ có thuế suất bằng không, còn hàng
hoá của ta khi chưa tham gia tổ chức này xuất sang thị trường Mỹ sẽ bị đánh thuế tới
40%. Vì thế hàng hoá của ta khó có thể cạnh tranh nổi với hàng hoá các nước vể mặt giá
cả.
- Toàn cầu hoá vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực. Tham gia vào các tổ chức
quốc tế để có điều kiện phát triển và cũng để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình. Quá
trình toàn cầu hoá là một quá trình phức tạp, vừa là cơ hội, vừa là thách thức rất lớn.
Bốn là, các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và
mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Từ trước tới nay, Đảng ta
vẫn xác định có 4 mâu thuẫn cơ bản là: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã
hội, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với đế quốc, mâu thuẫn giữa đế quốc với các dân
tộc, mâu thuẫn giữa tư bản với công nhân. Trong đó đặc biệt chú ý đến mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Đối với Trung Quốc và Việt Nam các thế lực thù
địch luôn tìm cách chống phá, ngăn cản sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và công cuộc

xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội sẽ
hết sức quyết liệt trong tình hình mới.
Năm là, chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại
cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra
bước phát triển mới.
Trước những thời cơ và thách thức mới của thời đại, vai trò lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước đòi hỏi phải được nâng cao hơn nữa nhằm đưa đất nước ta phát triển nhanh
chóng, vững chắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực: văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội.

2 Nâng cao vai trò của nhà nước để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một tất yếu lịch sử. Nước ta xây dựng
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên
các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá
độ. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trước mắt chúng ta còn rất nhiều công việc
khó khăn, bề bộn đòi hỏi sự dẫn dắt soi đường đúng đắn của Đảng và vai trò tích cực của
Nhà nước.

3 Để khắc phục hạn chế vai trò của Nhà nước hiện nay
Trong thực tế 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Đạt được những thành tựu đó, bên cạnh bản lĩnh chính trị vững vàng, đường lối chỉ đạo
đúng đắn của Đảng và đóng góp to lớn của toàn dân còn phải kể đến những cố gắng lớn
trong việc điều hành, quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu còn
tồn tại không ít những hạn chế trong vai trò của Nhà nước cần phải được khắc phục ngay.
Đó là sự cồng kềnh không cần thiết của bộ máy Nhà nước; các thủ tục hành chính rườm
rà, bất hợp lý gây khó khăn cho nhân dân; tình trạng chủ quan, tuỳ tiện trong tổ chức và
hoạt động, cũng như tình trạng vừa chồng chéo, vừa bỏ sót chức năng nhiệm vụ trong nội
bộ cơ quan quyền lực nhà nước.

II . Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước


TiÓu luËn TriÕt häc

11
Bước sang thế kỷ XXI, công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, càng đòi hỏi
phải xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả, bảo đảm cho Nhà nước ta mãi mãi giữ bản chất cách mạng, bản chất giai cấp,
thực sự là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Vì lẽ đó, Đại hội
IX của Đảng khẳng định cần phải “Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà
nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”

1. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Quốc hội
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất ở nước ta, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Để phát huy
vai trò, vị trí của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội phải được kiện toàn tổ
chức, đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của mình theo
hướng:
- Tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp nhằm nâng cao chất
lượng các đạo luật, tăng cường ban hành luật, hạn chế ban hành các pháp lệnh và
nghị định, tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở quán triệt quan điểm,
đường lối của Đảng phù hợp với thực tiễn Việt Nam và luật pháp, thông lệ quốc
tế, có tính khả thi cao. Muốn vậy, cần phải xây dựng chương trình làm luật, đổi
mới quy trình ban hành và hướng dẫn thực thi pháp luật.
- Làm tốt chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, quyết định
và phân bố ngân sách nhà nước.
- Làm tốt chức năng giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước, trước mắt tập trung vào những vấn đề bức xúc như: sử dụng vốn và tải
sản của Nhà nước; chống tham nhũng, quan liêu; vấn đề bắt giam, điều tra, truy
tố, xét xử .Việc giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của Chính phủ, của các

cơ quan tư pháp được thực hiện dưới nhiều hình thức, trong đó có hình thức báo
cáo công tác và trả lời chất vấn của các thành viên Chính phủ, của Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại các kỳ
họp Quốc hội. Hình thức này đang được cử tri cả nước đồng tình, hoan nghênh và
coi đây cũng là một hình thức giám sát của mình đối với hoạt động của Nhà nước.
Việc trả lời chất vấn trong các kỳ họp Quốc hội sắp tới cũng cần phải đổi mới
theo hướng tập trung vào những vấn đề lớn, quan trọng của Nhà nước, những vấn
đề mà đông đảo nhân dân quan tâm và nâng cao trách nhiệm của đại biểu Quốc
hội và của các thành viên Chính phủ và chất lượng của câu hỏi và câu trả lời.
- Khẩn trương nghiên cứu và sớm sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992
cho phù hợp với tình hình mới.

2. Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh,
từng bước hiện đại hoá
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ giữ quyền hành pháp, tức là chính phủ có chức năng
thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; đảm bảo hiệu lực của bộ máy nhà nước từ
trung ương đến cơ sở; đảm bảo việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp, pháp luật; phát
TiÓu luËn TriÕt häc

12
huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo ổn
định và nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân.
Trước hết, cần phải tập trung điều chỉnh chức năng và phương thức hoạt động của
Chính phủ theo hướng tăng cường quản lý vĩ mô các lĩnh vực hoạt động của toàn xã hội
bằng hệ thống pháp luật và hệ thống chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ, giảm khối lượng xử
lý các vụ việc cụ thể. Hoạt động của Chính phủ tập trung vào việc xây dựng thể chế, chỉ
đạo và kiểm tra việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, hoạch định chiến lược,
kế hoạch phát triển tổng thể nền kinh tế quốc dân, giải quyết những vấn đề quan trọng

mang tính liên ngành, liên vùng đảm bảo thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã
hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ và cơ quan ngang bộ cũng được điều
chỉnh theo hướng bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bao quát tất cả các thành phần kinh tế
trong phạm vi cả nước, cung cấp dịch vụ công. Sắp xếp, tinh gọn các cơ quan thuộc
Chính phủ, bộ máy giúp việc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; cơ cấu bộ máy và biên
chế các bộ, cơ quan ngang bộ. Phân định rõ chức năng, thẩm quyền quản lý hành chính
nhà nước với nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công để bố trí bộ máy và phương thức hoạt
động phù hợp.
Tổ chức, bộ máy chính quyền địa phương được cải cách, kiện toàn theo nguyên
tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, không có quyền lực nhà nước ở địa phương tách
rời quyền lực nhà nước ở trung ương; được phân công, phân cấp theo hướng nâng cao
tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý theo ngành và quản
lý theo lãnh thổ. Chính quyền địa phương bao gồm Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
đều thực hiện chức năng chấp hành pháp luật và các quyết định hành chính của cấp trên.
Trên cơ sở đó tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân, bảo đảm hoạt đông thiết thực, hiệu quả.
Theo vị trí, trách nhiệm của từng cấp hành chính, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn các cơ
quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân.
Xây dựng và kiện toàn bộ máy và cán bộ chính quyền cấp xã, phường, thị trấn có
đủ năng lực và phẩm chất để quản lý, giải quyết đúng thẩm quyền những vấn đề do cuộc
sống đặt ra.
Cùng với việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ
chức trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, cần xác định rõ trách nhiệm của tập thể và
trách nhiệm của cá nhân, trước hết là trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan,
tổ chức; đổi mới phương thức làm việc của các cơ quan nhà nước, xây dựng và thực hiện
nghiêm ngặt quy chế làm việc.
Công cuộc cải cách bộ máy hành chính nhà nước phải được lãnh đạo chặt chẽ và
tiến hành đồng bộ từ trung ương đến cơ sở, gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng.


3. Cải cách và kiện toàn các cơ quan tư pháp
ở nước ta, quyền tư pháp được hiểu là hoạt động xét xử của toà án và những hoạt
động của các cơ quan khác của Nhà nước, các tổ chức khác được Nhà nước cho phép
thành lập, trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của tòa án, nhằm bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích
của xã hội. Vì vậy, ở nước ta, cơ quan tư pháp bao gồm Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát
nhân dân, các cơ quan điều tra và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp như: tổ chức luật
sư, cơ quan công chứng giám định tư pháp, tư vấn pháp luật, trong đó Toà án nhân dân là
TiÓu luËn TriÕt häc

13
nơi biểu hiện tập trung của quyền tư pháp, sử dụng công khai các kết quả của hoạt động
điều tra, công tố, bào chữa, giám định tư pháp Thông qua các thủ tục tố tụng theo luật
định để đưa ra phán quyết cuối cùng, thể hiện quyền lực nhà nước.
- Tiếp tục cải cách, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư
pháp theo nguyên tắc nâng cao tinh thần trách nhiệm, làm tốt các công tác điều tra, bắt,
giam, giữ, truy tố, xét xử, không để xảy ra những trường hợp oan sai.
- Viện Kiểm sát nhân dân không thực hiện chức năng kiểm sát chung mà tập trung
làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đảm bảo mọi hành vi phạm tội
đều bị phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh, đặc biệt là tội phạm an ninh quốc gia và tội
tham nhũng.
- Sắp xếp lại hệ thống Toà án nhân dân, phân định thẩm quyền một cách hợp lý
theo nguyên tắc tổ chức toà án theo cấp xét xử, tăng cường thẩm phán ở những địa bàn
trọng điểm, quy định rõ tiêu chuẩn, trách nhiệm và thẩm quyền của hội thẩm nhân dân.
Toà án nhân dân tối cao làm nhiệm vụ hướng dẫn áp dụng pháp luật và thực hiện công
tác giám sát xét xử các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
- Tổ chức lại các cơ quan điều tra theo nguyên tắc gọn đầu mối, có sự chỉ đạo tập
trung thống nhất. Kiện toàn cơ quan thi hành án và thành lập cảnh sát tư pháp. Cải cách
và kiện toàn các cơ quan bổ trợ tư pháp, cơ quan quản lý hành chính tư pháp.
Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật trong sạch, có

phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

















Kết luận

Trong thời đại ngày nay, việc nâng cao vai trò của Nhà nước là một trong những
vấn đề then chốt cần được xem xét đúng mức và triển khai có hiệu quả, đặc biệt là vấn đề
cải cách bộ máy hành chính nhà nước.Nước ta vẫn đang trong thời kỳ quá độ lên xã hội
chủ nghĩa, nhiệm vụ trước mắt vẫn còn nhiều khó khăn và thử thách,phải xây dựng một
Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực sự là của dân, do dân, vì dân, một bộ máy nhà nước có
TiÓu luËn TriÕt häc

14
khả năng quản lý tốt để đưa đất nước phát triển đi lên một cách nhanh lẹ, vững chắc, đẩy
nhanh tiến trình quá độ lên xa hội chủ nghĩa, tránh nguy cơ tụt hậu quá xa so với các

nước khác trong khu vực và trên thế giới.


















Danh mục tài liệu tham khảo

1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB CTQG, 2005.
2. Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Phần chủ nghĩa duy vật lịch sử), NXB LLCT,
2004.
3. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB CTQG, 2005.
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG, 2003.
5. Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội IX của Đảng, NXB CTQG, 2001.
6. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, NXB
CTQG, 2003.



×