Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Luận văn: Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho vay tại ngân hàng công thương Thanh Hoá ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.89 KB, 53 trang )


Trang 1


Luận văn
Giải pháp phòng ngừa và hạn
chế rủi ro trong cho vay tại
ngân hàng công thương
Thanh Hoá

Trang 2
LỜI NÓI ĐẦU

Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21 có những đổi mới đáng kể trong
định hướng và phát triển nền kinh tế theo định hướng XHCN.
Nhằm phát triển và hội nhập nền kinh tế thế giới qua những năm đối đầu đổi
mới nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều thử thách và đã đạt được một số thành
tựu nhất định đáng khích lệ.
Để có được những thành tựu như ngày hôm nay, nền kinh tế nước ta đã có
những thay đổi đáng kể về định hướng và cơ cấu ngành nghề. Bên cạnh sự thay đổi
đó có một nhân tố tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của cả nền kinh tế đó là
"ngân hàng". Đây là một trong những yếu tố tác động mạnh tới sự phát triển của
nền kinh tế thông qua chức năng điều chuyển vốn cho nền kinh tế, nhằm khai thác
triệt để những tiềm lực vốn có của cả nền kinh tế về vốn và các công cụ tài chính.
Thông qua chức năng điều chuyển vốn cho nền kinh tế Nhà nước có thể dựa
vào ngân hàng để điều chỉnh nền kinh tế theo định hướng của mình để tạo nên một
nền kinh tế phát triển vững mạnh về mọi mặt và có định hướng của XHCN.
Tuy nhiên thông qua chức năng điều chuyển vốn của ngân hàng nó cũng có
một số nhược điểm và gây tác hại cho ngân hàng, đó là rủi ro trong cho vay, đầu tư
của ngân hàng cho các đối tượng của nền kinh tế. Vì vậy công tác hạn chế và
phòng ngừa rủi ro cho vay luôn được các ngân hàng thương mại quan tâm.


Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề, sau thời gian thực tập tại Ngân hàng
công thương Thanh Hoá tôi đã quyết định chọn đề tài: "Giải pháp phòng ngừa và
hạn chế rủi ro trong cho vay tại ngân hàng công thương Thanh Hoá".

Trang 3
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề này là:
- Nghiên cứu về rủi ro trong cho vay trên phương diện lý thuyết.
- Thông qua thực trạng hoạt động cho vay tại Ngân hàng công thương
Thanh Hoá để đánh giá tình hình rủi ro trong cho vay của chi nhánh.
- Đưa ra một số kiến nghị và đề xuất các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro
trong cho vay.
Để giải quyết các vấn đề này thì chuyên đề được trình bày làm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về cho vay và rủi ro trong hoạt động cho vay.
Chương II: Thực trạng cho vay và rủi ro cho vay tại Ngân hàng công thương
Thanh Hoá.
Chương III: Một số giải pháp hạn chế rủi ro cho vay đối với Ngân hàng
công thương Thanh Hoá.
Do kiến thức và trình độ còn hạn chế, bản thân lại chưa trải qua thực tế nên
không tránh được những sai sót. Tôi rất mong được sự góp ý và giúp đỡ của quý
vị. Hoàn thành chuyên đề này tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của cô giáo
Thạc sĩ Lê Thanh Tâm và các cán bộ phòng kinh doanh Ngân hàng công thương
Thanh Hoá.

Trang 4
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY VÀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Ngân hàng và nghiệp vụ cho vay của ngân hàng
1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại

Trên thế giới, nghề ngân hàng được hình thành từ rất sớm, hình thức sơ khai
của ngân hàng xuất hiện từ thời kỳ tiền tư bản, cùng với thời gian các hình thức
hoạt động của nó ngày càng được thay đổi cho phù hợp với sự phát triển của sản
xuất và trao đổi của hàng hoá. Khi mà nền sản xuất phát triển hàng hoá được tạo ra
nhiều làm nảy sinh quan hệ trao đổi hàng hoá. Khi quan hệ trao đổi hàng hoá phát
triển vượt ra khỏi ranh giới giữa các vùng sử dụng các loại đồng tiền khác nhau nó
làm nảy sinh khó khăn trong thanh toán giữa các đồng tiền khác nhau. Khi đó,
những thương gia giàu có và thông minh nhất đã nắm được cơ hội này và chuyển
sang nghề buôn tiền: Họ thực hiện các nghiệp vụ về nhận tiền gửi, thu đổi tiền và
bảo quản tiền (cho khách hàng) và có thu phí của người gửi. Cùng với việc nhận
tiền gửi các nhà ngân hàng dần dần còn thực hiện cả nghiệp vụ thanh toán cho
khách hàng (người gửi tiền), nghiệp vụ cho vay nảy sinh khi xuất hiện những
người có nhu cầu vay để mở rộng sản xuất kinh doanh trong khi các nhà ngân hàng
lại có sẵn trong két những khoản tiền lớn không sinh lời. Khi cho vay các nhà ngân
hàng được nhận các khoản trả tiền lãi từ người vay tiền. Chính vì các khoản thu
này đã khuyến khích các ngân hàng muốn nhận được nhiều tiền gửi để cho vay và
họ đã chuyển từ việc thu phí người gửi tiền sang việc miễn phí tiền gửi thậm chí
còn trả cho người gửi tiền một khoản tiền gọi là lãi tiền gửi. Khi mà tồn tại các
nghiệp vụ cho vay, thanh toán và nhận tiền gửi có thể nói ngân hàng đã được hình
thành.
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại (NHTM)
Khi nghiên cứu về NHTM các nhà kinh tế đã đưa ra rất nhiều quan điểm
khác nhau về NHTM. Có ý kién cho rằng: "NHTM là tổ chức tài chính nhận tiền

Trang 5
gửi và cho vay", có ý kiến lại cho rằng: "NHTM là trung gian tài chính có giấy
phép kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền và mở tài khoản tiền gửi, kể cả các
khoản tiền gửi có thể dùng séc". Sở dĩ có nhiều quan điểm khác nhau về NHTM là
do các nghiệp vụ của ngân hàng rất đa dạng, các thao tác của từng nghiệp vụ ngân
hàng lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền

kinh tế. Mặt khác do tập quán, luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau đã
dẫn đến những quan niệm khác nhau về NHTM.
Còn theo luật ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính của Việt
Nam ban hành ngày 24/5/1990 thì: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán".
Như vậy, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn để cho vay, đầu tư và thực hiện các
nghiệp vụ tài chính khác. Thông qua các nghiệp vụ NHTM đã chứng tỏ được sự
cần thiết của hệ thống ngân hàng trong phát triển nền kinh tế thị trường, ngân hàng
là đòn bảy của nền kinh tế.
1.1.1.2. Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM
- Nghiệp vụ huy động vốn: Đây là nghiệp vụ cơ bản của NHTM. Nó quyết
định quy mô cũng như hiệu quả của các hoạt động khác của NHTM. NHTM có thể
huy động vốn nhàn rỗi của nền kinh tế bằng nhiều hình thức khác nhau như: nhận
tiền gửi của các cá nhân, tổ chức kinh tế, phát hành trái phiếu, kì phiếu và phát
hành các chứng từ tiền hay vay vốn của NHNN hoặc các tổ chức tín dụng khác.
Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM còn phụ thuộc đáng kể vào vốn tự có
của ngân hàng và những quy định cụ thể của nhà nước về tỉ lệ giữa vốn chủ sở hữu
với vốn huy động thông qua tỉ lệ này NHNN đã hạn chế được một số rủi ro trong
hoạt động của ngân hàng. Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước Việt
Nam các NHTM không được phép huy động quá 20 lần số vốn tự có.
- Nghiệp vụ cho vay và đầu tư: Đây là hoạt động kinh doanh chủ yếu của
các NHTM cũng là hoạt động chủ yếu mang lại thu nhập cho các NHTM. Để thực

Trang 6
hiện nghiệp vụ này NHTM sử dụng phần lớn là số vốn mà ngân hàng huy động
được từ nền kinh tế để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế thông qua hình
thức cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, đầu tư chứng khoán, góp vốn tham

gia, hay tự đầu tư vào các dự án mang lại lợi nhuận.
Thông qua các nghiệp vụ này NHTM đã trở thành một trung gian tài chính
hoàn hảo. Nó đã điều chuyển vốn cho nền kinh tế từ nơi có vốn sang nơi cần vốn
thông qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn và sâu hơn. Thông qua các
nghiệp vụ này ngân hàng làm cho tốc độ lưu thông tiền tệ tăng mạnh, nó góp phần
đẩy nhanh qt sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá. Bên cạnh đó nó còn tác
động tới lượng tiền mặt trong lưu thông cùng với chi phí lưu thông giảm một cách
đáng kể và tận dụng được những nguồn vốn nhàn rỗi một cách tối đa thông qua đó
còn thực thi được chính sách tiền tệ quốc gia.
Có thể nói hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng của NHTM (chủ yếu
hoạt động cho vay). Hoạt động này nó có liên quan mật thiết với các ngành, lĩnh
vực, đối tượng mà ngân hàng cấp tín dụng. Do vậy rủi ro trong hoạt động cho vay
của các NHTM là rủi ro tiềm ẩn từ tất cả các ngành nghề các lĩnh vực mà ngân
hàng cho vay. Chính vì vậy việc nghiên cứu rủi ro tín dụng hay rủi ro trong cho
vay là vấn đề cấp bách luôn được các NHTM quan tâm:
- Các hoạt động dịch vụ
Ngoài các nghiệp vụ cơ bản trên, NHTM còn thực hiện một số hoạt động
dịch vụ để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, nhằm thu hút khách hàng tới với
ngân hàng và để có thêm khoản thu khác ngoài thu từ lãi cho vay. Các dịch vụ của
ngân hàng như:
+Dịch vụ thanh toán hộ
+ Dịch vụ mua bán và môi giới chứng khoán
+ Dịch vụ tư vấn
+ Dịch vụ quản lý tài sản và các chứng từ có giá.
Có thể nói các nghiệp vụ của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
trong quá trình vận hành của cả bộ máy. Nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ tạo

Trang 7
tiền đề cho các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư. Thông qua nghiệp vụ tín dụng, đầu tư
mang lại thu nhập cho ngân hàng để tái tạo các nguồn vốn khác. Còn các dịch vụ

khác của ngân hàng nhằm thu hút khách hàng đến với ngân hàng tạo điều kiện cho
việc mở rộng huy động vốn và mở rộng thị trường kinh doanh của NHTM. Tuy
nhiên nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ quan trọng nhất. Vì nghiệp vụ này nó
quyết định đến cả một qt kinh doanh của ngân hàng đó là lợi nhuận.
1.1.2. Nghiệp vụ cho vay của NHTM
1.1.2.1. Khái niệm về cho vay
Cho vay là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên chuyển
giao tiền cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận
tiền cam kết hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn.
Cho vay là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng khi thực hiện
tín dụng ngân hàng. Đây là nghiệp vụ chủ yếu khi ngân hàng quyết định cấp tín
dụng cho khách hàng và cũng là nghiệp vụ mang về thu nhập chủ yếu cho ngân
hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn có thể xảy
ra với ngân hàng. Do vậy các NHTM luôn phải quan tâm tới rủi ro trong cho vay
nhằm hạn chế tối đa rủi ro tín dụng xảy ra đối với ngân hàng.
1.1.2.2. Phân loại cho vay
- Cho vay thầu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người
vay được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn xác
định trong khoảng thời gian xác định, giới hạn này gọi là hạn mức thầu chi.
Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho những khách hàng có
khoản thu chi không phù hợp về thời gian và quy mô thuận lợi trong quá trình
thanh toán nhanh và giúp khách hàng kịp thời.
Hình thức thầu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, thủ tục đơn giản, thường
những khoản vay thầu chi là không có tài sản đảm bảo. Hình thức này cho vay chỉ
với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn.
- Cho vay trực tiếp từng lần:

Trang 8
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách
hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, không có điều kiện để được cấp

hạn mức thầu chi. Hình thức cho vay này tương đối đơn giản về thủ tục và có thể
kiểm soát được các khoản cho vay. Hình thức này an toàn hơn hình thức thầu chi.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng:
Đây là hình thức cho vay theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng
hạn mức tín dụng. Hạn mức này có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đólà số dư tối
đa tại thời điểm tính.
Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng về nhu cầu
vốn khi cần thiết sẽ được ngân hàng giải quyết cho vay một cách nhanh chóng giúp
khách hàng chớp được thời cơ trong kinh doanh. Ngân hàng dựa vào cơ sở kế
hoạch sản xuất kinh doanh và nhu cầu vốn của khách hàng để cấp cho khách hàng
những hạn mức phù hợp.
Bên cạnh những thuận lợi cho khách hàng thì về phía ngân hàng gặp một số
khó khăn trong khâu quản lý nguồn vốn và hiệu quả sử dụng vốn của từng lần vay.
- Cho vay luân chuyển
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Ngân hàng cấp tín
dụng cho khách hàng khi có nhu cầu về vốn để mua hàng hoá, và sẽ thu vốn về khi
khách hàng bán được hàng. Hình thức cho vay này đơn giản thuận lợi cho khách
hàng về thời gian và thủ tục.
- Cho vay trả góp:
Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm
nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận.
Hình thức này thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn,
tài trợ cho tài sản cố định.
Cho vay trả góp chứa đựng rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng
hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập của ngời vay do đó
lãi suất của hình thức này thường cao hơn lãi suất thông thường.
- Cho vay gián tiếp:

Trang 9
Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Các tổ chức có

thể đứng ra bảo lãnh cho các thành viên trong nhóm vay khi mà các thành viên
không có tài sản thế chấp. Qua hình thức cho vay này ngân hàng có thể mở rộng
thị trường và qua hình thức này ngân hàng hỗ trợ phát triển kinh tế cho các hộ
nghèo không có điều kiện vay vốn của ngân hàng trực tiếp.
1.1.2.3. Vai trò của hàng hoá cho vay đối với nền kinh tế
Hoạt động cho vay của ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh
tế. Nó là đòn bảy kinh tế phục vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá bởi
đặc trưng cơ bản của tín dụnglà sự vận động dựa trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức.
Thông qua nghiệp vụ này nhà nước có thể điều chỉnh sự phát triển cơ cấu ngành
nghề của cả nền kinh tế và thúc đẩy sự ra đời của các thành phần kinh tế theo định
hướng của đất nước.
Thông qua nghiệp vụ cho vay của các NHTM nó đã thúc đẩy nền kinh tế
phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng. Nó tác động trực tiếp tới từng ngành nghề
tới công nghệ, máy móc trang thiết bị phục vụ cho quá trình công nghiêp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Trong lĩnh vực lưu thông, để đảm bảo đưa được hàng hoá từ người sản xuất
đến người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ khối lượng hàng hoá
cần thiết để trang trải các chi phí. Hơn nữa để mở rộng sản xuất kinh doanh các
doanh nghiệp cần phải dự trữ khối lượng hàng hoá lớn với chủng loại phong phú,
nhưng thông thường các doanh nghiệp này không có nhiều vốn lưu động vì vậy để
tồn tại và phát triển các doanh nghiệp này cần có sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng.
Còn với các doanh nghiệp dịch vụ như vận tải, khách sạn, du lịch sẽ hoạt
động ra sao khi không có vốn của ngân hàng tham gia vào đầu tư xây dựng trang
thiết bị vật chất phương tiện vận tải. Do đó hầu hết các doanh nghiệp đều cần tới
tín dụng ngân hàng.
Nói chung một trong những nguồn vốn quan trọng để bổ xung vốn lưu động
và vốn cố định cho các doanh nghiệp là vốn vay từ ngân hàng vì nếu chỉ dựa vào
vốn tự có thì quá ít ỏi, không đủ sức cạnh tranh và phát triển trong nền kinh tế thị
trường.


Trang 10
Bên cạnh các yếu tố trên tín dụng ngân hàng còn là một công cụ tài trợ cho
các dự án tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện các chương trình dự án mang tính
xã hội.
Mặt khác từ hoạt động tín dụng nhà nước có thể kiểm soát các hoạt động sản
xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đưa ra các biện pháp chính sách quản lý kinh
tế và pháp lý phù hợp. Nhà nước có thể điều chỉnh nền kinh tế theo chính sách tín
dụng như chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều kiện cho vay khác cho các
doanh nghiệp đầu tư sản xuất theo mục tiêu của nhà nước.
- Để phát huy tốt những ưu điểm của tín dụng đối với nền kinh tế quốc dân
thì các ngân hàng luôn phải đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng.
1.2. Rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM
1.2.1. Khái niệm về rủi ro
Rủi ro cho vay là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do
khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.
Khi ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay cụ thể thì trong hoạt động đó
luôn hàm chứa rủi ro tiềm ẩn, rủi ro này nó sẽ làm giảm khoản thu nhập của ngân
hàng. Do đó trong hoạt động quản lý toàn bộ ngân hàng luôn xác định một tỷ lệ
tổn thất dự kiến nhằm hạn chế mức tối thiểu các thiệt hại về tài sản do các rủi ro
cho vay gây ra.
1.2.2. Các hình thức rủi ro cho vay
Theo khái niệm về rủi ro tín dụng thì rủi ro tín dụng được chia thành các
hình thức sau:
- Không thu được lãi đúng hạn
Lúc này ngân hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh.
Hình thức rủi ro này được xếp vào mức rủi ro thấp.
- Không thu được vốn đúng hạn

Trang 11
Khi không thu được vốn đúng hạn thì tình hình sử dụng vốn bị ảnh hưởng

và ảnh hưởng tới tính thanh khoản của tài sản. Hình thức này gây rủi ro lớn trong
nhiệm vụ đảm bảo thanh khoản và tình hình sinh lời của tài sản.
- Không thu đủ lãi
Khi ngân hàng không thu được đủ lãi thì tình hình đã trở nên nghiêm trọng.
Tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã gặp khó khăn không hiệu quả
trong việc sử dụng vốn. Lúc này ngân hàng cần có những biện pháp hỗ trợ khách
hàng như giảm lãi, tư vấn cho khách hàng hoặc có thể cung cấp thêm những khoản
tín dụng cần thiết cho khách hàng nếu dự án đang đầu tư là khả thi.
- Không thu đủ vốn cho vay
Khi ngân hàng không thu đủ vốn cho vay tại thời điểm này, ngân hàng sẽ
chuyển khoản nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ.
Trên đây là bốn hình thức rủi ro cho vay có thể xảy ra đối với các ngân
hàng. Qua nghiên cứu để nhận biết và các biện pháp xử lý rủi ro một cách có hiệu
quả nhất.
1.2.3 Các chỉ tiêu đo lường rủi ro trong cho vay
- Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả
thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.
Chỉ tiêu này ảnh hưởng đáng kể tới tính thanh khoản và rủi ro thanh khoản
của ngân hàng, ảnh hưởng tới chi phí gia tăng làm giảm thu nhập của ngân hàng.
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ
Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã qua một kỳ gia hạn nợ.
Những khoản nợ này ngân hàng phải có những biện pháp thích hợp để thu
lại tiền vay sao cho hợp lý nhất. Bởi vì các khoản nợ này hi vọng thu lại tiền vay là
khó, lúc này khả năng chi trả của khách hàng hạn hẹp. Loại nợ này chứa đựng rủi
ro cao và thường mang lại tổn thất cho ngân hàng.

Trang 12
1.2.4. Ảnh hưởng của rủi ro cho vay đối với ngân hàng
1.2.4.1. Rủi ro cho vay làm giảm doanh thu của ngân hàng

Những khoản cho vay gặp rủi ro gây cho ngân hàng những thiệt hại về mặt
tài sản khi không thu được vốn và lãi trực tiếp làm giảm doanh thu của ngân hàng.
Còn trong trường hựop ngân hàng thu được lãi treo hay nợ quá hạn thì cũng ảnh
hưởng tới tính thanh toán và rủi ro thanh khoản của ngân hàng do đó ảnh hưởng tới
doanh thu của ngân hàng.
1.2.4.2. Rủi ro cho vay làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng
Rủi ro cho vay nó đã ảnh hưởng tới việc hoàn trả tiền gửi của ngân hàng gặp
nhiều khó khăn. Các khoản đầu tư, cho vay thu hồi chậm hoặc không thu hồi được
trong khi đó ngân hàng vẫn phải trả vốn huy động một cách đều đặn cả vốn, lãi
đúng kỳ hạn. Chính vì thế nó đã làm hạn chế khả năng thanh toán của ngân hàng.
1.2.4.3. Rủi ro cho vay làm giảm uy tín của ngân hàng
Rủi ro cho vay làm giảm uy tín của ngân hàng và khả năng kinh doanh của
ngân hàng. Ngân hàng nào gặp nhiều rủi ro là ngân hàng hoạt động kém hiệu quả.
Điều này tác động mạnh tới uy tín của ngân hàng làm cho lòng tin của khách hàng
vào ngân hàng bị giảm. Nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lượng khách hàng tới ngân
hàng để gửi tiền cũng như sử dụng các dịch vụ của ngân hàng do đó quy mô hoạt
động của ngân hàng bị ảnh hưởng và gây ra những tổn thất về tài chính.
Mặt khác nếu ngân hàng nào gặp nhiều rủi ro trong cho vay thì khả năng
phá sản của các ngân hàng đó là rất cao. Bởi vì khi mà ngân hàng gặp nhiều rủi ro
trong kinh doanh thì khả năng thanh toán hay tính thanh khoản của ngân hàng là
không cao. Mà khi ngân hàng hoạt động không hiệu quả sẽ gây tâm lý bất ổn cho
người gửi tiền về khả năng chi trả củann dẫn tới họ rút tiền hàng loạt thì khả năng
chi trả của ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn nó có thể sẽ bị phá sản.
Hậu quả phá sản của một ngân hàng không chỉ mình bản thân ngân hàng đó
gánh chịu mà nó còn tác động tới những ngân hàng có quan hệ với ngân hàng này.
Điều này gây ra sự phản ứng dây chuyền gây ra sự phá sản hàng loạt của các ngân
hàng ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Chính vì những hậu quả khó lường khi mà

Trang 13
rủi ro tín dụng gây ra như các cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Nó đã làm

nền kinh tế các nước khu vực châu Á lâm vào khủng hoảng nặng nề. Vì vậy mỗi
ngân hàng phải luôn quan tâm tới rủi ro trong cho vay cũng như rủi ro tín dụng để
đảm bảo cho quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng thực sự là đòn bảy cho
nền kinh tế phát triển.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro cho vay
1.3.1. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
- Trong quá trình cho vay, cán bộ ngân hàng làm sai quy tắc tín dụng, hoặc
trình độ yếu kém không đủ khả năng thẩm định những dự án phức tạp, trình độ
chuyên môn còn hạn chế chưa bắt kịp với những thay đổi của thị trường, chính
những yếu điểm này đã tạo ra khe hở cho khách hàng chiếm đoạt vốn của ngân
hàng.
- Bên cạnh đó yếu tố cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Các ngân hàng
đã quên nhiệm vụ đảm bảo an toàn mà chạy theo chính sách lợi nhuận. Bỏ qua các
quy tắc phòng ngừa rủi ro, làm sai lệch các nguyên tắc co vay, trong thẩm định dự
án. Đây là chính sách mạo hiểm trong kinh doanh nó sẽ mang lại tổn thất lớn nếu
xảy ra rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
- Công tác đào tạo cán bộ ngân hàng chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ kinh doanh trong thời kỳ mới, trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế
cả nghiệp vụ và hiểu biết nắm bắt những thay đổi của thị trường.
- Ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiện không tốt các đảm bảo tín
dụng, người bay không đáp ứng đủ các điều kiện về tài sản thế chấp, cầm cố, bảo
lãnh nhưng NHTM vẫn cho vay. Bên cạnh đó có một số cán bộ tín dụng biến chất
đã thông đồng với khách hàng nâng giá trị tài sản nhằm nhằm mục đích vay được
nhiều tiền. Tuy tài sản thế chấp là tiêu chuẩn thứ yếu nhưng chính nó là nguồn
đảm bảo thu nợ thứ hai khi khách hàng không có khả năng trả nợ bằng nguồn thu
thứ nhất. Chính vì vậy việc định giá tài sản đảm bảo cũng là một yếu tố tác động
tới rủi ro ngân hàng.

Trang 14
1.3.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng

Nguyên nhân dẫn tới rủi ro cho vay của NHTM từ phía khách hàng có thể
chia làm hai trường hợp sau:
1.3.2.1. Nguyên nhân do chủ quan của người vay
Trong hoạt động cho vay
1.3.2.2. Nguyên nhân do khách quan mang lại
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh gay
gắt và để tồn tại thì các doanh nghiệp phải nỗ lực hết mình trong những quan hệ
phức tạp của xã hội. Tuy nhiên, rủi ro vẫn luôn là điều không thể tránh khỏi như
trên đã nêu: nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng là từ các doanh nghiệp thông
qua hoạt động tín dụng; chính vì vậy hoạt động của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất
lớn tới hoạt động của ngân hàng và rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp nó
cũng ảnh hưởng trực tiếp tới rủi ro tín dụng của ngân hàng. Rủi ro của doanh
nghiệp xảy ra như:
+ Doanh nghiệp bị rủi ro khách quan: thiên tai hoả hoạn, động đất… Đây là
trường hợp bất khả kháng khó mà lường trước được.
+ Bản thân doanh nghiệp bị lừa đảo hoặc bị ảnh hưởng từ phía khách hàng
của doanh nghiệp.
Ngoài các trường hợp nêu trên còn có rủi ro xuất phát từ chính sự yếu kém
của bản thân doanh nghiệp. Sự cạnh tranh khắc nghiệt của thị trường luôn đặt
doanh nghiệp trong tình trạng phải có sự nỗ lực cao độ vì bất kì một sự sai sót nào
trong phương thức quản lý kinh tế cũng như quản lý tài chính đều dẫn đến thua lỗ,
phá sản doanh nghiệp ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp
1.3.3. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
- Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực
kinh doanh của ngân hàng cũng như của doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Khi nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả và có nhiều khả năng trả nợ được cho ngân hàng. Ngược lại khi nền kinh
tế rơi vào suy thoái, mất ổn định đã làm cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn

Trang 15

trong hoạt động sản xuất, kinh doanh bị đình trệ, sức mua bị giảm sút, hàng hoá bị
ứ đọng điều này ảnh hưởng tới các khoản nợ của các ngân hàng.
Ngoài ra, các chính sách kinh tế vĩ mô nó tác động tới hoạt động của ngân
hàng. Chính phủ sẽ ưu tiên hơn về luật pháp, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực
chính phủ khuyến khích đầu tư phát triển và ngược lại. Do những chính sách kinh
tế của chính phủ nó đã làm giảm bớt khách hàng đến với ngân hàng từ các lĩnh vực
mà nhà nước không khuyến khích phát triển.
- Môi trường chính trị, xã hội
Môi trường chính trị, xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư phát
triển. Đây cũng là điều kiện để thu hút đầu tư của các doanh nghiệp. Ngược lại nếu
môi trường chính trị, xã hội không ổn định thì các doanh nghiệp không thể yên tâm
mà phát triển và luôn đặt trong rủi ro có thể ập tới bất kì lúc nào đối với doanh
nghiệp cũng như ngân hàng.
- Môi trường pháp lý: Nếu như một đất nước xây dựng được một hành lang
pháp lý thông thoáng và có hiệu lực sẽ thu htú được đông đảo các nhà đầu tư vào
đầu tư phát triển đây là điều tất yếu của nền kinh tế thị trường. Và ngược lại nếu
hành lang pháp lý lỏng lẻo tạo ra nhiều khe hở, gây nên tình trạng mánh khoé, lừa
đảo và gây thiệt hại lẫn nhau từ đó nó ảnh hưởng tới khả năng thanh toán cho ngân
hàng, thậm chí trực tiếp lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng.
Như vậy trong nền kinh tế thị trường, do những biến động của thị trường,
những nguyên nhân khác nhau của nền kinh tế tác động tới hoạt động của doanh
nghiệp và chính bản thân ngân hàng làm nảy sinh các biến cố trong quan hệ tín
dụng làm cho các quan hệ tín dụng vận động theo những chiều hướng xấu, không
có lợi cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại là điều không thể
tránh khỏi hay nói cách khác: Rủi ro xảy ra là điều tất yếu khách quan trong hoạt
động kinh doanh tín dụng của ngân hàng thương mại, rủi ro thường xuyên đưa
ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn cả về tài chính lẫn các dịch vụ mà ngân hàng
cung cấp. Vì vậy cần phải phòng tránh rủi ro. Loại bỏ rủi ro là điều không thể có
nhưng phòng ngừa và hạn chế nó thì các nhà kinh doanh Ngân hàng hoàn toàn có
thể làm được. Việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro giúp cho Ngân hàng Thương mại


Trang 16
hoàn toàn được vốn, tăng nguồn vốn, mở rộng kinh doanh và tăng thu nhập, hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao được uy tín của Ngân
hàng đối với khách hàng, nhờ đó Ngân hàng có thể mở rộng kinh doanh và phát
huy được vai trò của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế.

Trang 17
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHO VAY VÀ RỦI RO TRONG CHO VAY TẠI NGÂN
HÀNG CÔNG THƯƠNG - THANH HOÁ

2.1. Khái quát về Ngân hàng - Công thương Thanh Hoá.
Ngân hàng công thương Thanh Hoá được thành lập theo quyết định số
258/QĐ - NH5 ngày 21.9.1996 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trên
cơ sở Ngân hàng Công thương đã được thành lập trước đây theo quyết định số
67/QĐ - NH5 ngày 27.3.1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Là một chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam bao gồm
có hội sở chính tại Thành PhốThanh Hoá và hai đơn vị phụ thuộc là Ngân hàng
công thương Bỉm Sơn và Ngân hàng Công thương Sầm Sơn.
Ngân hàng Công thương Thanh Hoá có số biên chế 295 cán bộ với mạng
lưới hoạt động.
- Hội sở chính gồm có 7 phòng ban trong đó phòng giao dịch và một khách
sạn.
- Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bỉm Sơn bao gồm 4 phòng ban và 2
phòng giao dịch.
- Chi nhánh Ngân hàng Công thương Sầm Sơn bao gồm: 4 phòng ban và
một phòng giao dịch.
Thanh thoá là một tỉnh nằm trên trục giao thông chính Bắc Nam với dân số
khoảng 3,5 triệu người sinh sống rộng khắp trên bốn vùng kinh tế lớn các tỉnh đó

là đồng bằng vùng biển, miền núi và trung du và miền núi nên có nhiều thuận lợi
trong phát triển kinh tế như nguồn nhân lực dồi dào, số lao động phổ thông đông
đảo đủ để phát triển nông lâm, ngư nghiệp.
Nhưng nền kinh tế có xuât phát điểm thấp kém nhịp độ tăng trưởng còn
chậm so với tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nước, khả năng tích luỹ từ nội bộ
nền kinh tế còn thấp, nguy cơ tụt hậu kinh tế lớn. Kinh tế quốc doanh với thiết bị
công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm hàng hoá còn thấp, hiệu quả kinh tế chưa

Trang 18
cao, thiếu năng động, chưa xây dựng được nhiều dự án khả thi để đầu tư và gọi
vốn nước ngoài. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm từ những điểm cơ bản này
nó ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng nói chung trong
đó có Ngân hàng Công thương.
Trong những năm qua Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá đã góp phần
tích cực cho sự phát triển của kinh tế tỉnh nhà bằng việc mở rộng đầu tư tín dụng
cho các ngành các lĩnh vực để phát triển kinh tế tỉnh nhà một cách cân đối trong cơ
cấu ngành. Trong những năm qua Ngân hàng Công thương không ngừng tăng
trưởng về vốn góp phần không nhỏ trong việc giải quyết tình trạng thiếu vốn tăng
sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, góp phần vào quan trọng công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước.
2.2. Tình hình huy đọng vốn và sử dụng vốn tại Ngân hàng Công thương
Thanh Hoá.
Trong hoạt động của Ngân hàng Thương mại thì việc huy động vốn nó sử
dụng vốn là hai hoạt động chủ yếu quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng. Để có một cái nhìn tương đối khái quát về hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá ta sẽ nghiên cứu tình hình huy động và sử
dụng vốn của Ngân hàng trong những năm gần đây.
2.2.1. Tình hình huy động vốn:
Xác định được tầm quan trọng của công tác huy động vốn là khâu đầu tiên
quyết định qui mô và cơ cấu hoạt động tín dụng Ngân hàng. Trong những năm qua

Ngân hàng Công thương Thanh Hoá đã luôn chú trọng đến công tác huy động vốn
bằng cách sử dụng nhiều hình thức huy động vốn với lãi suất hợp lý đã khuyến
khích người gửi tiền đến với Ngân hàng họ gửi bừng nhiều hình thức như TGTK
không kỳ hạn, TGTK có kỳ hạn, kỳ phiếu có kỳ hạn bằng nhiều biện pháp cải
tiến nghiệp vụ, đổi mới phong cách Ngân hàng Công thương Thanh Hoá giao dịch
đã từng bước lấy được lòng tin của người gửi tiền. Nhờ vậy mà những năm qua
nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá luôn tăng trưởng
cao và ổn định.

Trang 19
Bảng 1: Thực trạng huy động vốn ở Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá
phân tích theo tốc độ tăng trưởng
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Số tiền %/2000 Số tiền

%/2000

Số tiền

%/2000

Tổng vốn huy động 515522 112 600178

116 615165

102
TGTCKT 57030 110 68363


120 80890 118
Tiền gửi dân cư 432119 109 450220

104 483670

107
Kp - tp 23669 102 41294

174 24506 60
Nguồn: Báo cáo về tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn toàn tỉnh
Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá
Qua số liệu bảng trên cho ta thấy tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng
Công thương - Thanh Hoá trong ba năm gần đây liên tục tăng trưởng ổn định với
tốc độ cao.
Trong số các nguồn vốn huy động nguồn tiền gửi các TCKT và TG dân cư
liên tục tăng trong ba năm từ 2001 - 2003. Nguồn tiền gửi của TCKT tăng trưởng
với mức độ bình quân từ 18% - 20% trên một năm. Còn nguồn tiền gửi của dân cư
cũng tăng nhưng kém hơn nó tăng khoảng 4% - 7% trên một năm. Điều này chứng
tỏ uy tín của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá ngày càng cao được nhiều người
tín nhiệm và qua tốc độ tăng trưởng vốn của tiền gửi của TCKT tăng hàng năm
vào khoảng 20% vào năm 2002 18% vào năm 2003. Chứng tỏ Ngân hàng Công
thương Thanh Hoá đã tạo được lòng tin cho khách hàng và hoạt động dịch vụ của
Ngân hàng phục vụ cho khách hàng ngày càng được nâng cao.
Trong những năm gần đây Ngân hàng Công thương Thanh Hoá đã nắm bắt
được đặc điểm của tình, đa số người dân trong tỉnh là dân lao động nên lượng tiền
nhàn rỗi trong dân tương đối lớn, triệt để khai thác nguồn vốn này là một chủ
trương đúng đắn của Ngân hàng Công thương nhằm nâng cao chất lượng nguồn
vốn huy động được trong hai năm gần đây nguồn tiền gửi dân cư liên tục tăng từ

Trang 20

4% 2002 tới 7% 2003. So với các năm trước với những chính đúng đắn nhất lãi
suất, phát triển các dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng Công thương Thanh Hoá đã đạt
được một số thành tựu đáng kể trong những năm gần đây với tốc độ tăng trưởng
nguồn vốn cao. Huy động được phần lớn nguồn tiền nhàn rỗi từ dân cư vào sản
xuất kinh doanh.
2.2.2. Tình hình sử dụng vốn.
Nhờ nguồn vốn huy động dồi dài, Ngân hàng Công Thương - Thanh Hoá đã
tiến hành đa dạng hoá các mặt nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ Ngân hàng như cho
vay đầu tư, bảo lãnh, trong đó chủ yếu là hoạt động cho vay. Hoạt động này nó
tác động trực tiếp tới kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Vì thế Ngân hàng Công
thương - Thanh Hoá luôn đặt ra mục tiêu mở rộng cho vay đồng thì hạn chế rủi ro
ở mức thấp nhất.
Trong những năm qua, với quyết tâm cao chi nhánh đã vận dụng kịp thời,
linh hoạt các chủ trương chính sách của nhà nước, của ngành, bám sát với sự phát
triển của nền kinh tế và có những giải pháp tích cực nên kết quả hoạt động tín
dụng của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá đã đạt được những kết quả tốt cả về
tốc độ tăng trưởng lẫn chất lượng của các khoản cho vay. Ngân hàng đã thực hiện
cho vay với các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động trong nhiều lĩnh vực của
các nền kinh tế, trong đó tăng cường đầu tư cho khu vực kinh tế quốc, các ngành
kinh tế trọng điểm, kinh tế mũi nhọn có định hướng của Nhà nước nước như: Xi
măng, mía đường, công nghiệp, dịch vụ giao thông vận tải ưu tiên cho các dự án
lớn có tính khả thi cao. Cùng với hoạt động cho vay đơn thuần, Ngân hàng Công
thương - Thanh Hoá còn thực hiện một số tường trình cho vay ưu đãi đối với
những hộ đói nghèo, cho vay sinh viên, và một số chương trình cho vay tạo việc
làm các trường trình này đều thực hiện với lãi suất ưu đãi thông qua các chương
trình này Ngân hàng đã tự nâng cao được uy tín của mình trong mọi tầng lớp nhân
dân.
Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn ở Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá
Đơn vị: Triệu đồng


Trang 21
Chỉ tiêu
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Số tiền %/2000 Số tiền

%/2000

Số tiền

%/2000

Tổng vốn huy động 515522 112 600178

116 615165

102
Sử dụng vốn 289615 127 386336

113 526208

136
Hệ số sử dụng vốn 56% 64% 86%
Nguồn: Báo cáo về tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn toàn tỉnh
Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá
Theo số liệu bảng trên cho ta thấy tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng
Công thương Thanh Hoá trong ba năm gần đây đều tăng với mức tăng trưởng cao.
Năm sau cao hơn năm trước năm 2001 tốc độ tăng trưởng khoảng 27% thì các năm
2002 và 2003 đạt tới mức 33% và 36%. Qua bảng số liệu này cho chúng ta biết
được sự tăng tưởng trong nền kinh tế của tỉnh đang được hâm nóng. Đây cũng là
kết quả hoạt động tích cực của các hộ công nhân viên trong chi nhánh - Thanh Hoá

cộng với những chính sách phù hợp trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng Công
thương Thanh Hoá đã được những kết quả đáng khích lệ, góp phần vào phát triển
nền kinh tế đang còn non trẻ của tỉnh nhà.
Mặt khác quan hệ số sử dụng vốn qua ba năm hoạt động kinh doanh 2001,
2002, 2003 ta thấy được hệ số sử dụng vốn ngày càng tăng từ 56%, 64%, 86% qua
hệ số này chứng tỏ việc huy động và sử dụng vốn của Ngân hàng Công thương
Thanh Hoá ngày càng có hiệu quả cao về số tương đối và số tuyệt đối. Riêng có
năm 2003 hệ số sử dụng vốn đạt mức 86% đây là hệ số; tiền gửi Ngân hàng nào
đạt được lượng vốn huy động được từ nền kinh tế đã được Ngân hàng sử dụng có
hiệu quả cao trong nghiệp vụ tài trợ.
Bảng 3: Thực trạng dư nợ tại Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá phân tích
theo thời hạn tín dụng
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2001 2002 2003
Số tiền

% %/2000

Số tiền

% %/2001

Số tiền

% %/2002


Trang 22
Dư nợ 289615


100 116 386336

100

133 526208

100

136
NH 238513

82 123 321942

83 135 440644

84 137
TDH 51102

18 116 64394

17 126 85564

16 133
Nguồn: Báo cáo về tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn toàn tỉnh
Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá
Theo bảng số liệu trên cho thấy tỉ trọng dư nợ tín dụng ngắn hạn luôn ở
mức cao trong tổng dư nợ tín dụng, nó chiếm khoảng 80% có thể nói tín dụng ngắn
hạn luôn là thế mạnh của các Ngân hàng Việt Nam vì phù hợp với nền kinh tế
nhiều thành phần và kinh doanh nhỏ lẻ một nước đang phát triển như nước ta.

Xét về tỷ lệ tăng trưởng các nguồn vốn trung dài hạn cũng như ngắn hạn
liên tục trong ba năm với mức tăng trưởng cao mà đặc biệt là nguồn ngắn hạn
riêng trong năm 2003. Tổng dư nợ của nguồn này tăng 37% so với năm trước đó
tức là tăng 118702 triệu đồng, còn hai năm trước đó nguồn vốn tăng cũng cao
nhưng kém hơn năm 2003 nó chỉ đạt ở mức 23% năm 2001, 35% năm 2002.
Để đạt được mức tăng trưởng tín dụng ngắn hạn như trên Ngân hàng Công
thương Thanh Hoá đã áp dụng sáng tạo, triển khai kịp thời các chủ trương chỉ đạo
của ngành của chính phủ, với đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp có thái độ giao
dịch tốt với tinh thần trách nhiệm cao cùng với chuyên môn vững chắc do đó đã
nâng cao được hoạt động tín dụng cho chi nhánh cũng như toàn bộ hệ thống. Bên
cạnh đó Ngân hàng có quan hệ tất với khách hàng và áp dụng chính sách khách
hàng một cách linh hoạt phù hợp với từng đối tượng, đặc biệt quan tâm tới khách
hàng truyền thống, những đơn vị có tình tình tài chính tốt, sản xuất kinh doanh có
hiệu quả. Ngoài ra Ngân hàng còn đẩy mạnh công tác tiếp thị thu hút thêm nhiều
khách hàng mới đến giao dịch.
Còn về tín dụng TDH qua những năm qua cũng tăng đáng kể ở mức cao
nhưng vẫn chậm hơn so với tín dụng Ngân hàng, nhưng riêng năm 2003 tín dụng
TDH đã đạt mức 33% cao nhất so với những năm trước đây.
Để đạt tốt mức đột tăng trưởng tín dụng như những năm qua ngoài nước
nghiệp vụ chuyên môn kinh nghiệm trong kinh doanh chi nhánh còn đi sâu vào

Trang 23
đầu tư một số dự án lớn như: Dự án nâng cấp dây chuyền sản xuất gạch của công
ty cổ phần VLXD Bỉm Sơn. Công ty gồm Bỉm Sơn và đang giải ngân Dự án mở
rộng 13 mạng cáp quang của Bưu điện tỉnh Thanh Hoá. Thẩm định xong dự án
chế biến sữa của công ty cổ phần Đường Lam Sơn và đang thẩm định dự án Khách
Sạn Sao Mai đã có hoạch giải ngân vào năm 2004.
Bên cạnh các dự án đầu tư trên chi nhánh còn đầu tư cho các dự án phát
triển kinh tế trang trai, dự án chăm sóc và trồng 3.200 ha cà phê chè với tổng dự án
là 42 tỷ đồng. Chi nhánh cũng đã quan tâm tới các dự án cho vay phát triển kinh tế

biển nuôi trồng thuỷ, hải sản và chế biến từ đó tạo công ăn việc làm cho người dân
và góp phần phát triển kinh tế của toàn tỉnh.
Nhìn chung vốn tín dụng của chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh
Hoá đã thực sự phát huy hiệu quả. Nhờ vay vốn Ngân hàng mà các doanh nghiệp
có điều kiện đổi mới công nghệ hiện đại, thay thế dây chuyền sản xuất, thiết bị
máy móc lạc hậu không phù hợp với quy mô sản xuất, từ đó làm tăng năng lực sản
xuất tạo thế ổn định và phát triển trong kinh doanh cho các doanh nghiệp và để lại
hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Đây là kết quả đạt được đồng khích lệ đối với toàn bộ cán bộ công nhân
viên của chi nhánh đã góp phần cho sự phát triển của Ngân hàng Công thương -
Thanh Hoá của nền kinh tế tỉnh nhà.
2.2.3. Các hoạt động khác của Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá.
Ngoài hai hoạt động cơ bản trên là huy động và cho vay thì Ngân hàng
Công thương - Thanh Hoá còn thực hiện một số hoạt động như:
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
- Do đặc điểm kinh tế của tỉnh chủ yếu là phát triển nông lâm nghiệp, thủ
công nghiệp và chưa có những chính sách thu hút đầu tư bên ngoài. Do đó tên địa
bàn chưa phát triển nhiều doanh nghiệp mua - bán và hợp tác kinh doanh với các
đối tác bên ngoài. Vì vậy hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Công
thương - Thanh Hoá cũng bị hạn chế.

Trang 24
Trong năm 2003 chi nhánh đã thực hiện công tác kinh doanh ngoại tệ đạt
kết quả :
Chi trả kiểu hồi : Với giá trị là 4.800 ngàng USD tăng 3733 ngàn USD. So
với năm 2002.
Bên cạnh đó nghiệp vụ mua - bán ngoại tệ cũng tăng đáng kể và đạt được
bởi kinh doanh 377 triệu đồng.
Doanh số mua vào mua vào đạt 23.336 nghìn USD tăng 12.990 ngàn USD
so với năm trước.

Còn bán ra đạt 23.007 ngàn USD tăng 12.366 ngàn USD so với năm 2002.
Song song với nghiệp vụ này thì hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân
hàng Công thương Thanh Hoá cũng được chú trọng phát triển nhằm phục vụ nhu
cầu về thanh toán cho mọi khách hàng trong tỉnh và quốc tế.
L/C nhập khẩu đạt giá trị 5476 ngàn USD tăng 847 ngàn USD so với năm
trước.
L/C xuất khẩu đạt giá trị 582 ngàn USD tăng 423 ngàn USD so với năm trước.
Trong hoạt động kinh doanh của mình Ngân hàng Công thương Thanh Hoá
còn có một số hoạt động dịch vụ khác như:
Dịch vụ thanh toán thẻ, séc du lịch, dịch vụ chuyển tiền nhanh và một số
dịch vụ khác đã đạt được doanh số là 464 triệu đồng.
- Hoạt động bảo lãnh:
Hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá chưa thực sự
phát triển Ngân hàng mới chỉ tham gia bảo lãnh trong nước, như bảo lãnh dự thầu,
bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Nhìn chung hoạt động này chưa
được phát triển ở chi nhánh. Số dư bảo lãnh ở các năm 2001, 2002, 2003 lần lượt
là 350, 172, 1068 (triệu đồng). Đây là những chỉ số khá khiêm tốn so với một số
Ngân hàng khác khi thực hiện nghiệp vụ này.

Trang 25
2.3. Rủi ro cho vay tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá.
2.3.1. Thực trạng rủi ro cho vay.
2.3.1.1. Thực trạng nợ quá hạn những năm gần đây ở Ngân hàng Công
thương Thanh Hoá.
Tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá những năm
gần đây liên tục có những biến độ theo chiều hướng sâu.
Bảng 4: Thực trạng nợ quá hạn tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
1. NQH 4084 12178 7843

2. Tổng dư nợ 289615 386336 526208
3. Tỷ trọng (1/2) 1,41% 3,15% 1,49%
Nguồn: Báo cáo tình hình huy động vốn và sử dụng vốn toàn tỉnh Ngân hàng
Công thương - Thanh Hoá
Qua bảng số liệu trên cho thấy tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng Công
thương - Thanh Hoá có những chuyển biến sâu tình hình nợ quá hạn đột nhiên tăng
8094 triệu đồng của năm 2002 so 2001 đây là chỉ số chứng tỏ năm hoạt động kinh
doanh của ngân hàng là không tốt. Mặt tỷ trọng giữa NQH/Tổng dư nợ của năm
2002 tăng 1,74%. So với năm 2001. Nói tóm lại tình hình xử lý nợ và hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá ở năm 2002 gặp khó khăn
và không hiệu quả
Qua một năm 2002 hoạt động kinh doanh và xử lý nợ quá hạn không hiệu
quả tới năm 2003 Ngân hàng Công thương - Thanh Hoá đã có những điều chỉnh nề
quy chế pháp lý và một số điều chỉnh khác. Do đó năm 2003 đã đạt được một số
kết quả trong kinh doanh và xử lý nợ quá hạn kìm hãm sự gia tăng của nợ quá hạn.
So với năm 2002 tỉ trọng nợ quá hạn giảm 1,66%. Đây là tỷ lệ đáng khích lệ trong
công tác xử lý nợ và kìm hãm sự gia tăng lúc nợ quá hạn. So với năm 2002 thì năm
2003 số nợ quá hạn đã giảm 4335 triệu đồng.

×