Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Luận văn " CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC LÀ QUÁ TRÌNH TẤT YẾU NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.47 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG







KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI:
CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC LÀ QUÁ TRÌNH
TẤT YẾU NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM








Giáo viên hướng dẫn : Th.S ĐẶNG THỊ LAN
Sinh viên thực hiện : DOÃN THỊ MAI HƯƠNG
Lớp : ANH 3 - K38 - KTNT










HÀ NỘI - 2003



LỜI CẢM ƠN
EM XIN TRÂN TRỌNG CẢM ƠN CÔ GIÁO - THẠC SĨ ĐẶNG THỊ LAN – GIẢNG VIÊN KHOA QUẢN
TRỊ KINH DOANH TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI- ĐÃ TẬN TÌNH GIÚP ĐỠ EM
HOÀN THÀNH TỐT LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VỚI ĐỀ TÀI: "CẢI CÁCH DNNN LÀ QUÁ TRÌNH TẤT
YẾU ĐỂ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM".
EM CŨNG XIN CẢM ƠN CÁC THẦY CÔ GIÁO KHÁC CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
TRONG HƠN 4 NĂM QUA ĐÃ DẠY DỖ, TRANG BỊ CHO EM NHỮNG KIẾN THỨC QÚY BÁU LÀM
NỀN TẢNG CHO BÀI LUẬN VĂN NÀY
CON CŨNG XIN BÀY TỎ LÒNG BIẾT ƠN TỚI BỐ MẸ NGƯỜI ĐÃ GIÚP ĐỠ VÀ LUÔN TẠO CHO
CON NHỮNG ĐIỀU KIỆN HỌC TẬP TỐT NHẤT.
TÔI CŨNG RẤT TRÂN TRỌNG NHỮNG TÌNH CẢM VÀ SỰ KHUYẾN KHÍCH, ĐỘNG VIÊN CỦA
BẠN BÈ – NHỮNG NGƯỜI LUÔN Ở BÊN VÀ GIÚP ĐỠ TÔI. XIN CẢM ƠN CÁC BẠN.
MỤC LỤC
TRANG

LỜI NÓI ĐẦU 5
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NÂNG CAO KHẢ NĂNG
CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 6
I. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế 6
1. Khái niệm 6
2. Những tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của nền kinh tế 7
3. Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của nền

kinh tế Việt Nam 8
II. Khái quát về doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam 10
1. Tất yếu khách quan của sự hình thành và phát triển doanh nghiệp Nhà nước
10
2. Quan niệm về doanh nghiệp Nhà nước 12
3. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường .14
3.1 Vị trí của DNNN 14
3.2 Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường 15
CHƯƠNG II: CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC LÀ QUÁ TRÌNH TẤT
YẾU NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM 18
I. Quá trình cải cách DNNN 18
1. Các biện pháp đã được triển khai thực hiện 18
1.1 Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý đối với DNNN 18
1.2 Sắp xếp, tổ chức lại các DNNN 20
1.3 Thực hiện cổ phần hoá các DNNN 23
2. Kết quả 24
2.1 Kết quả của việc đổi mới cơ chế, chính sách đối với DNNN 24
2.2 Kết quả của việc sắp xếp, tổ chức lại các DNNN 25
2.3 Một số kết quả của việc thực hiện cổ phần hóa các DNNN 26
3. Thực trạng DNNN hiện nay 29
3.1 Về số lượng, cơ cấuvà quy mô của DNNN 29
3.2 Về năng lực hoạt động của DNNN 33
II Nguyên nhân của những yếu kém tồn tại 38
1. Nhận thức về vị trí, vai trò của DNNN 38
2. Cơ chế, chính sách quản lý đối với DNNN còn nhiều hạn chế 39
3. Năng lực hoạt động của các DNNN còn nhiều hạn chế 41
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TIẾP TỤC CẢI CÁCH DNNN NHẰM NÂNG CAO KHẢ
NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ 45
I Phương hướng 45

1.Mục tiêu của cải cách DNNN 45
1.1 Một số quan điểm chủ yếu về nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN
45
1.2 Phương hướng cải cách 49
II Những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN 52
1 Nâng cao năng lực của các DNNN 52
1.1 Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đối với DNNN 53
1.2 Hiện đại hóa công nghệ trong các DNNN 53
1.3 Nâng cao năng lực quản lý trong các DNNN 53
1.4 Quản lý và sử dụng có hiệu quả lao động trong các DNNN 54
1.5 Lành mạnh hóa tình hình tài chính của DNNN 55
2. Đổi mới tổ chức quản lý hệ thống DNNN 55
2.1 Đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN 56
2.2 Thực hiện chế độ công ty đối với các DNNN và tổ chức Công ty đầu tư
tài chính Nhà nước 56
2.3 Đổi mới mô hình tổng công ty Nhà nước 58
3. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với DNNN 60
3.1 Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách quản lý đối với DNNN 60
3.2 Đổi mới cơ cấu tổ chức và chức năng quản lý nhà nước đối với DNNN
65
3.3 Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý nhà nước đối với DNNN 67
KẾT LUẬN 69
PHỤ LỤC 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72




LỜI NÓI ĐẦU


TRONG NHỮNG NĂM QUA, VIỆT NAM ĐÃ CÓ NHỮNG BƯỚC ĐI QUAN TRỌNG TRONG
TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ: GIA NHẬP ASEAN VÀ THAM GIA VÀO KHU VỰC
MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN (AFTA) (1995); THAM GIA TIẾN TRÌNH Á - ÂU (ASEM) (1996) VÀ TRỞ
THÀNH THÀNH VIÊN CHÍNH THỨC CỦA APEC (1998); KÝ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI SONG
PHƯƠNG VIỆT NAM – HOA KỲ (2000) VÀ ĐANG ĐÀM PHÁN ĐỂ GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG
MẠI THẾ GIỚI (WTO). QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP NÀY ĐÃ MỞ RA CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
NHIỀU CƠ HỘI PHÁT TRIỂN, NHƯNG BÊN CẠNH ĐÓ CŨNG ĐẶT RA KHÔNG ÍT THÁCH THỨC.
MỘT TRONG NHỮNG THÁCH THỨC RÕ RỆT NHẤT LÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM CÒN RẤT THẤP SO VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC VÀ TRÊN THẾ GIỚI.
VÀ ĐỂ NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ, MỘT TRONG NHỮNG BIỆN
PHÁP THƯỜNG ĐƯỢC NHẮC TỚI LÀ CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. VẬY CẢI CÁCH
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CÓ Ý NGHĨA NHƯ THẾ NÀO ĐẾN KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA
NỀN KINH TẾ? CHÚNG TA ĐÃ THỰC HIỆN NHỮNG GÌ VÀ NÊN TIẾP TỤC LÀM GÌ NHẰM CẢI
CÁCH DNNN? NHỮNG CÂU HỎI NÀY KHIẾN EM THỰC SỰ RẤT MONG MUỐN ĐƯỢC PHÂN
TÍCH VÀ CHỨNG MINH LUẬN ĐIỂM "CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC LÀ QUÁ TRÌNH
TẤT YẾU NHẰM NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM" TRONG LUẬN
VĂN TỐT NGHIỆP.
QUÁ TRÌNH PHÂN TÍCH VÀ CHỨNG MINH SẼ ĐƯỢC TRÌNH BÀY CHỦ YẾU TRONG 3
CHƯƠNG:
CHƯƠNG 1 : SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM.
CHƯƠNG 2 : CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC LÀ QUÁ TRÌNH TẤT YẾU NHẰM NÂNG
CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM.
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP TIẾP TỤC CẢI CÁCH DNNN NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH CỦA NỀN KINH TẾ
TRONG QUÁ TRÌNH VIẾT LUẬN VĂN NÀY EM ĐÃ SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
LÀ PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG DUY VẬT, PHƯƠNG PHÁP LÔGIC, PHƯƠNG PHÁP TRỪU
TƯỢNG HÓA KHOA HỌC, PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP, PHƯƠNG PHÁP DIỄN
DỊCH VÀ QUY NẠP, PHƯƠNG PHÁP LIỆT KÊ ĐỂ CÓ THỂ ĐƯA RA NHỮNG NHẬN ĐỊNH VÀ
KẾT LUẬN ĐÚNG ĐẮN CHO TỪNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC ĐỀ CẬP.


DO GIỚI HẠN VỀ THỜI GIAN VÀ TẦM HIỀU BIẾT, LUẬN VĂN KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI
NHỮNG THIẾU SÓT, HẠN CHẾ. VÌ THẾ, EM RẤT MONG NHẬN ĐƯỢC NHỮNG Ý KIẾN ĐÓNG
GÓP CỦA CÁC THẦY CÔ GIÁO VÀ CÁC BẠN.
CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NÂNG CAO KHẢ NĂNG
CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM
I. KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ
1. Khái niệm
Tại Việt Nam, quan điểm thời kỳ trước Đổi mới cho rằng khi xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa,
xóa bỏ quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa thì đồng thời phải xóa bỏ thị trường, cạnh tranh và kéo theo đó là
khả năng cạnh tranh. Trong kinh tế đối ngoại, khái niệm này cũng hầu như không tồn tại vì 70 - 80% hoạt
động ngoại thương và trên 90% ODA của Việt Nam được thực hiện theo những nghị định thư ký kết hàng
năm trên tinh thần giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau giữa các nước xã hội chủ nghĩa.
Nhưng từ năm 1986, với chủ trương xây dựng nền kinh tế mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
kinh tế đối ngoại cùng việc mất đi chỗ dựa là Liên Xô và các nước Đông Âu, nước ta đã thực sự tham gia vào
thị trường khu vực và thế giới đầy tính cạnh tranh và đào thải. Làm thế nào để có thể giữ vững vị thế của
hàng nội địa tại thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút đầu tư nhanh chóng trở thành những
vấn đề có tính thời sự cấp bách. Và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cũng theo đó thu hút được sự quan
tâm của mọi cấp, mọi ngành. Vậy khả năng cạnh tranh của nền kinh tế là gì ?
Khi nói về khái niệm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế (hay còn gọi là khả năng cạnh tranh quốc
gia), các nhà chuyên môn của Việt Nam thường trích dẫn lại những định nghĩa do Ủy ban Cạnh tranh công
nghiệp của Tổng thống Mỹ, Diễn đàn Kinh tế thế giới và OECD đưa ra:
Theo Ủy ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống Mỹ, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế là
"mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hóa và dịch vụ
đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của
nhân dân nước đó".
Theo Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới (World Economic Forum - WEF),
khả năng cạnh tranh đối với một quốc gia là "khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền

vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng thay đổi của tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người theo thời gian".
Còn Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)
đã cố gắng kết hợp cả khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, ngành và quốc gia trong một định nghĩa chung.
Đó là "khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao
hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế" [14, tr.12].
Những định nghĩa trên là chưa cụ thể và không phù hợp với cách hiểu của người Việt Nam. Theo sự
nhìn nhận của cá nhân người viết, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế chủ yếu là khả năng thu hút, hấp thụ
đầu tư (đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài) và xác lập, duy trì, gia tăng lợi nhuận và thị phần của hàng
hóa (hữu hình và vô hình) do nền kinh tế đó sản xuất ra trên thị trường trong nước và quốc tế. Như vậy, khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế không phải là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp hay khả năng cạnh
tranh của hàng hóa. Đó là 3 cấp độ khác nhau.
Có quan điểm cho rằng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế là kết quả phép cộng khả năng cạnh tranh
của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Lại có quan điểm cho rằng khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế là kết quả phép cộng khả năng cạnh tranh của tất cả các hàng hóa do nền kinh tế sản xuất ra. Trên thực tế,
những quan điểm này chưa trọn vẹn vì mới đề cập đến năng lực cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực thương
mại. Để có năng lực cạnh tranh trong thu hút và hấp thụ đầu tư thì sức mạnh của doanh nghiệp và hàng hóa
không phải là yếu tố duy nhất. Muốn có được cái nhìn đầy đủ, ta hãy xem xét những tiêu chí đánh giá khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế.
2. Những tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
Từ những khác biệt về cách tiếp cận và môi trường nghiên cứu, các nhà kinh tế học đã đưa ra rất
nhiều tiêu chí khác nhau.
Theo Michael Porter, tác giả cuốn sách "Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia" (The Competitive
Advantages of Nations), khả năng cạnh tranh của nền kinh tế được quyết định bởi sự tác động qua lại giữa 6
nhân tố cơ bản:
- Các điều kiện sản xuất vốn có (lao động, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý )
- Các điều kiện của thị trường nội địa (số lượng cầu, sự đòi hỏi của người tiêu dùng )
- Các ngành công nghiệp bổ trợ và liên đới
- Chiến lược, cơ cấu của các công ty và sự cạnh tranh trong nội bộ ngành
- Chính phủ

- Các nhân tố ngẫu nhiên.
Trong 6 nhân tố thì 4 nhân tố đầu đóng vai trò quyết định. Nếu lợi thế dựa trên 1 trong 4 nhân tố được
phát huy ở mức độ cao thì lợi thế dựa trên các nhân tố khác sẽ dần xuất hiện do có sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa các nhân tố. Và chỉ khi đó lợi thế cạnh tranh của một quốc gia mới được giữ vững. Việc mất lợi
thế cạnh tranh dựa trên một trong những nhân tố trên cũng dễ dẫn đến việc mất lợi thế dựa trên những nhân
tố khác và sau đó là của cả quốc gia [20, tr.27].
Trên thực tế, trước năm 1996, để đánh giá và xếp hạng khả năng cạnh tranh của các quốc gia trên thế
giới, Diễn đàn Kinh tế thế giới đã kết hợp với Viện Phát triển quản lý quốc tế (International Institute for
Management Development - IMD) sử dụng mô hình tuyến tính đa nhân tố bao gồm 381 chỉ số. Những chỉ số
này được phân làm 8 nhóm nhân tố: độ mở cửa, chính phủ, hệ thống tài chính - tiền tệ, công nghệ, cơ sở hạ
tầng, trình độ quản lý của doanh nghiệp, nguồn nhân lực và thể chế.
Tuy nhiên, từ năm 1996 WEF và IMD quyết định đánh giá năng lực cạnh tranh của các quốc gia trên thế
giới theo những phương pháp riêng. Đối với IMD, phương pháp tính toán cũ hầu như được giữ nguyên,
chỉ lược bỏ các chỉ số xuống còn 224. Về phần mình, WEF cũng giảm bớt số lượng chỉ số xuống còn
155, vừa kết hợp điều tra theo mẫu ở từng nước, vừa thăm dò ý kiến của 1500 công ty trên thế giới. Khác
với IMD, WEF không tiếp tục xem xét một số chỉ số như sự tăng trưởng của GDP, của xuất khẩu và của
dòng FDI vào trong nước vì cho rằng đó là kết quả chứ không phải là nhân tố quyết định khả năng cạnh
tranh của một quốc gia. WEF còn nhận định các nhóm nhân tố có tỷ trọng ảnh hưởng khác nhau.
Từ năm 2000, WEF lại có sự điều chỉnh các nhóm tiêu chí, gộp thành 3 nhóm lớn là: sáng tạo kinh tế,
khoa học công nghệ, tài chính và quốc tế hóa, trong đó trọng số của sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ đã
tăng mạnh từ 1/9 lên 1/3 [12] [20].
Còn ở Việt Nam ta, năng lực cạnh tranh quốc gia thường được nhìn nhận theo các nhân tố sau
1
:
- Sự ổn định chính trị và trật tự - an toàn xã hội (nhất là sau sự kiện 11/9)
- Hệ thống pháp luật
- Hệ thống tài chính - tiền tệ
- Kết cấu hạ tầng
- Bộ máy hành chính
- Nguồn nhân lực

Sau khi xem xét các cách đánh giá, theo người viết,
những nhóm tiêu chí thường được sử dụng nhất khi đánh giá
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế là: tình hình chính trị -
xã hội, hoạt động của Chính phủ, hệ thống tài chính - tiền tệ,
hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp, độ mở cửa của nền kinh tế, hệ thống pháp luật, trình
độ công nghệ, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực và lợi thế tự
nhiên. Tuy tầm quan trọng và ảnh hưởng có khác nhau, giữa
các nhân tố trên luôn có mối quan hệ tương tác qua lại và
năng lực cạnh tranh quốc gia là sự cộng hưởng của tất cả.
3. Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế Việt Nam
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều theo đuổi nền kinh tế mở; theo
đó, các quan hệ kinh tế quốc tế, đặc biệt là ngoại thương và đầu tư đóng vai trò ngày một quan trọng. Quốc
gia nào cũng cố gắng đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút đầu tư trong khi trên thị trường thế giới, mức cung
nhiều mặt hàng đã dư thừa còn nhu cầu đối với vốn và công nghệ vẫn là vô hạn. Thực tế này buộc họ phải
tham gia vào một cuộc cạnh tranh gay gắt trong thương mại và thu hút đầu tư. Phần thắng sẽ thuộc về ai có
sức cạnh tranh cao hơn và thất bại đồng nghĩa với sự tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế. Vì vậy, năng lực cạnh
tranh trở thành yếu tố quyết định vị trí của nền kinh tế quốc gia trong nền kinh tế thế giới. Có được năng lực
cạnh tranh càng cao thì nền kinh tế càng phát triển và ngược lại.

1
Vũ Khoan. "Hội nhập để phát triển". Tạp chí Cộng sản số đặc biệt + 2/2002. tr.21
Một điều đáng nói nữa là khả năng cạnh tranh quốc gia luôn thay đổi. Trong các Báo cáo cạnh tranh
toàn cầu của WEF, Singapore đứng vị trí số 1 trong suốt 3 năm 1998, 1999, 2000 số 2 năm 2001 nhưng lại
xuống thứ 10 năm 2002. Hà Lan có vị trí 12 năm 1998, lên 7 năm 1999, xuống 9 năm 2000 song lại vươn lên
thứ 3 năm 2002. 2 ví dụ trên chứng tỏ năng lực cạnh tranh cao ở hiện tại không đồng nghĩa với năng lực cạnh
tranh cao trong tương lai và ngược lại. Điều này buộc các nền kinh tế không ngừng nỗ lực nâng cao khả năng
cạnh tranh của mình.
Nỗ lực của Việt Nam phải lớn hơn nỗ lực của những nước

khác rất nhiều vì sức cạnh tranh của nước ta từ trước đến
nay rất thấp. Năm 1986, khi đường lối mở cửa bắt đầu đi vào
thực tiễn, Việt Nam bên trong khủng hoảng kinh tế - xã hội,
bên ngoài bị cô lập cao độ. Một nền kinh tế sản xuất không
đủ tiêu dùng, thu không đủ chi, xuất khẩu chỉ bằng 20 - 40%
nhập khẩu, lạm phát lên đến 774,7% làm sao có được khả
năng cạnh tranh cao. Hơn 15 năm đã qua, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu hết sức to lớn về kinh tế, nhưng vẫn
chưa thoát khỏi nhóm nước nghèo nhất thế giới và luôn đứng
tốp cuối ở từng tiêu chí cũng như ở bảng xếp hạng khả năng
cạnh tranh.
Từ số liệu ở bảng dưới, có thể thấy năng lực cạnh tranh của Việt Nam rất thấp và đang có xu hướng
tụt hậu. . Kể từ năm 1997, WEF đưa Việt Nam vào danh sách các nước được xếp hạng. Tuy nhiên, có thể
thấy vị trí của nước ta chưa bao giờ thoát khỏi nhóm 20 nước cuối bảng. Về khả năng cạnh tranh kinh tế vi
mô, cũng là khả năng cạnh tranh hiện tại, năm 1997, Việt Nam là 1 trong 5 nước có sức cạnh tranh thấp nhất.
Năm 1998, nước ta vươn lên 43/53, nhưng là do nhiều nước trong khu vực và trên thế giới lâm vào khủng
hoảng tài chính - tiền tệ. Vị trí này từ đó đến năm 2001 liên tục giảm khi các nền kinh tế bị khủng hoảng
nhanh chóng cải cách và hồi phục, khiến năng lực chậm được cải thiện của Việt Nam tiếp tục suy yếu trong
tương quan so sánh: năm 1999 xuống 7 bậc so với năm 1998, đứng thứ 50; năm 2000 xuống 3 bậc, bị loại
khỏi 50 nước; và năm 2001, xuống 9 bậc, xếp vị trí 62. Và năm 2002, tỡnh hỡnh cú khả quan hơn khi Việt
Nam tiến lên hai bậc, đứng thứ 60. Tuy nhiên, về khả năng cạnh tranh tăng trưởng, tức khả năng cạnh tranh
trong 5 đến 8 năm tới, vị trí của Việt Nam vị trớ của Việt Nam lại suy giảm, khi từ 60 xuống 65.
Bảng 1 : Khả năng cạnh tranh của Việt Nam
theo các Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu
Năm
1998 1999 2000 2001 2002
Vị trí của Việt Nam trong bảng xếp hạng
khả năng cạnh tranh
43 50 53 62 60
Số nước được xếp hạng

53 53 59 75 75
Nguồn
Vị trí của Việt Nam thấp do hầu hết các chỉ số thành phần đều thấp. Các chỉ số thấp nhất của Việt
Nam là 74 (công nghệ thông tin), 68 (công nghệ và tham nhũng), 67 (chiến lược và hoạt động của doanh
nghiệp) Trong năm 2002, theo bảng đánh giá mức độ tham nhũng của TI (Transparency International), Việt
Nam thuộc nhóm 11 trong số 99 nhóm và tình trạng tham nhũng đã vượt Thái Lan (nhóm 16), Trung Quốc
(nhóm 18) và Philippines (nhóm 20). [3][12][17]
Năm 2002, khả năng cạnh tranh hiện tại (current competitiveness index) của Việt Nam là 62/75,
nhưng hoạt động và chiến lược doanh nghiệp và chất lượng môi trường kinh doanh đều chỉ đứng 64/75. Cũng
trong năm này, PERC xếp Việt Nam đứng cuối bảng về mức độ công khai minh bạch trong hoạt động tài
chính với số điểm 9,63/10 [12].
Với sức cạnh tranh yếu kém toàn diện như vậy, Việt
Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu
xa hơn nữa về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên
thế giới. Để đất nước không trở thành nơi khai thác tài
nguyên thiên nhiên và là thị trường tiêu thụ cho các quốc gia
khác, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế là
vấn đề tất yếu, có tầm quan trọng hàng đầu ở Việt Nam.
II. KHÁI QUÁT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1. Tất yếu khách quan của sự hình thành và phát triển doanh
nghiệp Nhà nước
DNNN được hình thành và tồn tại ở nhiều nước trên thế giới, tuy tỷ trọng có khác nhau giữa các nước.
Thực tế đó chỉ ra rằng, sự hình thành và phát triển của các DNNN không phải do ý chí chủ quan của một
quốc gia, một tổ chức hay một cá nhân nào mà do những yếu tố khách quan quy định. Các yếu tố đó bao
gồm: sự gia tăng vai trò của nhà nước như một thực thể kinh tế, sự cần thiết phải khắc phục những
khuyết tật của kinh tế thị trường, vai trò dẫn dắt và định hướng của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế
hỗn hợp… Như vậy, tất yếu khách quan của DNNN thể hiện trên các mặt sau:
Một là, DNNN là công cụ để khắc phục những khuyết tật này của kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị
trường với đặc trưng chủ yếu là tự do kinh tế, tự do cạnh tranh với mục đích chủ yếu là thu lợi nhuận. Do đó,
kinh tế thị trường chứa đựng nhiều khuyết tật cố hữu như: tác động của chu kỳ kinh doanh dẫn đến khủng

hoảng; cạnh tranh là động lực phát triển trong kinh tế thị trường nhưng đồng thời cũng gây ra sự đổ vỡ. Mặt
khác, trong thực tế cuộc sống, luôn có một số hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác không làm được hoặc không muốn làm, còn trách nhiệm của nhà nước thì không thể để xã hội
thiếu sản phẩm hoặc dịch vụ.
Khu vực tư nhân không được phép làm có nghĩa là bị nhà nước cấm. Có nhiều lý do cấm cụ thể. Song
lý do chung nhất là, sự nguy hiểm, khó kiểm soát của việc sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đó, nếu để khu
vực tư nhân làm. Chẳng hạn, việc trồng cây thuốc phiện để làm dược liệu cho bào chế thuốc bệnh, việc sản
xuất vũ khí cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc… Những sản phẩm này rất cần cho xã hội, nhưng nếu giao cho
khu vực tư nhân sản xuất sẽ gây nguy hại cho xã hội.
Khu vực tư nhân không làm được có nghĩa là do tư nhân non gan, kém ý chí, thiếu hiểu biết, thiếu
phương tiện và nguồn lực để đầu tư.
Khu vực tư nhân không muốn làm có nghĩa là, việc sản xuất của các sản phẩm nào đó không mang lại
lợi nhuận đủ sức hấp dẫn họ.
Nhà nước không thể để cho xã hội thiếu sản phẩm và dịch vụ là vì, việc thiếu hàng hoá, dịch vụ có thể
gây nên các bất ổn về chính trị – xã hội.
Hai là, DNNN là một công cụ kinh tế quan trọng của nhà nước để thực hiện các tác động quản lý đối
với nền kinh tế nói riêng, xã hội nói chung.
Trong nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, nhà nước luôn là một thực thể kinh tế – chính trị quan
trọng. Thực tế ở nhiều nước chỉ ra rằng, sự thành công hay thất bại, tăng trưởng hay suy thoái, giàu hay
nghèo đều tìm thấy nguyên nhân ở quản lý nhà nước và vai trò của nhà nước. Để điều chỉnh các quan hệ xã
hội nói chung, quan hệ xã hội trong kinh tế nói riêng, nhà nước có thể dùng phương pháp cưỡng chế, phương
pháp tuyên truyền, thuyết phục và phương pháp kinh tế. Mỗi phương pháp trên có lợi thế riêng của nó và chỉ
có thể áp dụng được trong những điều kiện nhất định. Đồng thời, để áp dụng được mỗi phương pháp đó, Nhà
nước phải chuẩn bị những phương tiện tương ứng. Chẳng hạn, để cưỡng chế bằng pháp luật cần phải làm luật
và xây dựng lực lượng bảo vệ pháp luật. Để tuyên truyền, thuyết phục phải xây dựng nội dung và hệ thống cơ
quan, hệ thống phương tiện truyền thông. Cũng như vậy, để kích thích kinh tế, Nhà nước phải có hệ thống
các đòn bảy kinh tế. Một trong những đòn bảy phải có là DNNN. Vì thế mọi nước đều xây dựng một số
DNNN nhất định, tuỳ môi trường và đối tượng quản lý của mỗi nước. DNNN là một công cụ kinh tế rất đặc
biệt. Để có thực lực vật chất điều tiết nền kinh tế quốc dân, nhà nước có thể dùng vật tư dự trữ quốc gia.
Chẳng hạn, dùng dự trữ quốc gia để bán phá giá đầu cơ. Tuy nhiên, có một số hàng hoá không thể dự trữ

được, như điện năng, nước sạch và tất cả các loại dịch vụ. Khi đó, chỉ có DNNN mới có thể đáp ứng được.
Ba là, sự hình thành và tồn tại của DNNN ở nhiều nước như là một bộ phận kinh tế có vai trò định
hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác. Trong nền kinh tế hỗn hợp gồm nhiều thành phần tham gia, cùng
kinh doanh và bình đẳng trước pháp luật, kinh tế nhà nước chỉ là một bộ phận. Tuy nhiên, đối với nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN thì "kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, điều tiết, định hướng cho các
thành phần kinh tế khác" [17, tr.27]. Như vậy, trong hệ thống doanh nghiệp của nền kinh tế nhiều thành
phần, DNNN có vai trò quan trọng là bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước. Đối với các nước đang phát
triển, để thực hiện chiến lược tăng tốc, tạo dựng cơ sở kinh tế của nhà nước XHCN, nhà nước tất yếu phải lựa
chọn giải pháp phát triển các DNNN, tăng cường kinh tế nhà nước. Việc lựa chọn này không mang tính chủ
quan, mà là một tất yếu lịch sử trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đang ở trình độ kinh tế
chậm phát triển. Đối với những nước này việc phát triển DNNN không chỉ là việc tập trung tư bản xã hội
trong bước đầu phát triển kinh tế quốc dân mà còn có lợi thế hơn trong việc áp dụng công nghệ hiện đại.
Ngoài ra, DNNN còn trở thành "đối tác chính để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động liên
doanh, liên kết" [17, tr.27-28]
Bốn là, sự hình thành và phát triển DNNN như là một hình thức xã hội hoá sản xuất về mặt sở hữu.
Sở hữu là một phạm trù kinh tế, nó vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất,
có tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm đối với lực lượng sản xuất và suy cho cùng là đối với nền kinh tế của một
quốc gia hay vùng lãnh thổ. Sự biến đổi của quan hệ sở hữu là quá trình lịch sử, tất yếu và khách quan. Trong
các loại hình sở hữu thì sở hữu nhà nước có những đặc điểm mang tính quy luật của quá trình phát triển kinh
tế – xã hội. Sở hữu nhà nước tuy mang tính đặc thù của mỗi chế độ chính trị – xã hội, nhưng nó có trình độ
xã hội hoá cao hơn sở hữu tư nhân. Như vậy, sự ra đời và phát triển của DNNN – một bộ phận của sở hữu
nhà nước, là sản phẩm tất yếu của việc xã hội hoá sản xuất kể cả ở các nước đang phát triển và các nước phát
triển, cũng như các nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và các nước tư bản chủ nghĩa.
Năm là, ở các nước theo định hướng XHCN, việc hình thành các DNNN là tất yếu khách quan nhằm
định hướng nền kinh tế theo mục tiêu đã chọn, đồng thời góp phần làm cho kinh tế nhà nước thực hiện vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế.
2. Quan niệm về doanh nghiệp Nhà nước
Trong các tài liệu về kinh tế, có nhiều quan niệm khác nhau về DNNN. Các quan niệm đó đều dựa
trên các tiêu chí như sở hữu, mục đích hoạt động, cơ cấu tổ chức và hình thức hoạt động của doanh nghiệp,
tuy vậy khái niệm về DNNN trên thế giới cũng được hiểu không thống nhất. Cùng tiêu chí xác định doanh

nghiệp như nhau nhưng có nước gọi là DNNN, song nước khác lại cho đó là doanh nghiệp tư nhân. Mỗi khái
niệm nhấn mạnh một số tiêu chí nhất định. Tuy nhiên, cũng có thể tìm thấy những tiêu chí chung trong các
định nghĩa của một số học giả như Johansen, Malcolm Gillis, Hanson, Ramanadham, Lintner, Short, Aharoni
và một số tổ chức quốc tế như Liên hiệp quốc, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ thế giới. Trong các quan niệm
về DNNN nêu trên thì quan niệm của Malcolm Gillis và Ramanadham được coi là phù hợp hơn với bản chất
của DNNN và nó mang tính phổ biến. Điều đó được giải thích bởi các lý do sau:
Theo quan niệm của Malcolm Gillis thì DNNN được xác định theo 3 tiêu chuẩn sau:
i) Chính phủ là cổ đông chính trong doanh nghiệp, hoặc nếu không thì Chính phủ có thể thực hiện
việc kiểm soát những chính sách chung mà doanh nghiệp theo đuổi và bổ nhiệm hoặc cách chức ban quản lý
doanh nghiệp
ii) Doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ bán cho công chúng, hoặc cho các
doanh nghiệp tư nhân hoặc DNNN khác.
iii) Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về thu chi trong hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Nếu một doanh nghiệp thiếu điều kiện thứ nhất thì doanh nghiệp đó là doanh nghiệp tư nhân. Thiếu
hoặc điều kiện thứ 2 hoặc điều kiện thứ 3 thì một tổ chức của Chính phủ không được coi là DNNN, mà được
coi là cơ quan công cộng. [17].
Theo V.V Ramanadham, DNNN là một tổ chức trong đó kết hợp những yếu tố "công ích" và những
yếu tố "doanh nghiệp" [24].
i) Những yếu tố công ích là:
- Những quyết định về kinh doanh và hoạt động chính do các tổ chức Nhà nước đảm nhận. Tiêu chí
quan trọng trong các quyết định không chỉ là kết quả tài chính.
- Lợi nhuận là của công chức không thuộc một nhóm tư nhân nào.
- Doanh nghiệp chịu trách nhiệm trước xã hội. Điều đó không có nghĩa đơn giản chỉ là các nhà quản
lý doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước quyết định của họ, mà doanh nghiệp nói chung phải
chịu trách nhiệm trước xã hội.
ii) Những yếu tố "doanh nghiệp" là:
- Doanh nghiệp có thể tồn tại về mặt tài chính một cách dài hạn và hoạt động theo nguyên tắc thị
trường.
- Giá cả phải được thiết lập trên cơ sở chi phí, yêu cầu này xuất phát từ đòi hỏi giá của các sản phẩm
hàng hoá, dịch vụ phải bù đắp được chi phí sản xuất kinh doanh.

Khả năng tồn tại về mặt tài chính và mối quan hệ giá cả - chi phí là những yếu tố phân biệt DNNN với
các hoạt động công ích, ví dụ hoạt động an ninh, quốc phòng, giáo dục, y tế… Theo các định nghĩa trên,
DNNN được xác định dựa trên những tiêu chí chung như quyền sở hữu, quyền kiểm soát của nhà nước, khả
năng tồn tại trên thị trường, mục tiêu, mức độ tự chủ tài chính, quan hệ giá cả - chi phí. Tuy nhiên, ranh giới
xác định doanh nghiệp nào là DNNN chưa thống nhất. Ví dụ, tiêu chí về quyến sở hữu của nhà nước trong
DNNN rất khác nhau giữa các quốc gia. Đối với Úc và Tây Ban Nha, DNNN là doanh nghiệp mà nhà nước
nắm quyền sở hữu trên 50% tài sản, ở Italia là 25%, Malaysia là 20%, Hàn Quốc là 10% [19]. Liên hiệp quốc
đưa ra khái niệm về DNNN như sau: " Những xí nghiệp do nhà nước nắm toàn bộ hoặc một phần sở hữu và
nhà nước kiểm soát tới một mức độ nhất định quá trình ra quyết định của xí nghiệp" [20].
Trong khi đó theo luật công ty (1994) của Trung Quốc, DNNN là doanh nghiệp mà nhà nước nắm cổ
phần khống chế từ 35% trở lên [23]. Như vậy, nhà nước không cần nắm giữ tỷ lệ vốn sở hữu lớn trong
DNNN mà điều quan trọng là khả năng khống chế của nhà nước đối với doanh nghiệp. Điều này cũng thống
nhất với quan điểm của Đại hội lần thứ XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc coi vai trò chủ đạo của "kinh tế
quốc hữu… chủ yếu thể hiện ở sức mạnh khống chế của nó" [10, tr.39].
Như vậy, DNNN tồn tại ở nhiều nước trên thế giới và các doanh nghiệp này được sử dụng như một
công cụ để phát triển và điều tiết nền kinh tế. Quan niệm về DNNN ở các nước không giống nhau, nhưng vẫn
có điểm thống nhất chung, đó là căn cứ sở hữu và quyền chi phối đối với doanh nghiệp để phân biệt DNNN
với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Ở Việt Nam, quan niệm về DNNN có sự thay đổi trong từng thời kỳ. Theo Điều lệ xí nghiệp công
nghiệp quốc doanh ban hành kèm theo Nghị định 50/HĐBT ngày 22/3/1988 và Quy chế về thành lập, giải thể
DNNN ban hành kèm Nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 thì DNNN là doanh nghiệp do Nhà nước trực
tiếp thành lập, tổ chức quản lý và điều hành hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội của Nhà
nước. Việc thành lập các DNNN do cơ quan nhà nước đề nghị và trình cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
thành lập. Quan niệm về DNNN như vậy vẫn dựa trên tiêu chí sở hữu 100% vốn nhà nước và thể hiện sự can
thiệp trực tiếp và toàn diện của nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp.
Theo luật DNNN do Quốc hội khoá IX thông qua ngày 20/1/1995, DNNN là "tổ chức kinh tế do nhà
nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực
hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao, DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ
dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý
[18, tr.1]. Nhìn chung, quan niệm về DNNN trong Luật cơ bản vẫn như đã quy định trong các văn bản pháp

lý nêu trên. Điểm khác biệt và tiến bộ là ở chỗ Luật này đã xác định rõ tư cách pháp nhân và trách nhiệm
pháp lý hữu hạn của DNNN.
Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần
thứ ba (khoá IX) thì quan niệm về DNNN có đổi mới và được phát triển thêm một bước quan trọng. Theo đó,
DNNN không chỉ do Nhà nước nắm giữ 100% vốn mà còn bao gồm cả doanh nghiệp do Nhà nước chiếm cổ
phần chi phối" [19, tr.6]. Ngoài ra, DNNN không nhất thiết do Nhà nước trực tiếp thành lập và quản lý toàn
bộ hoạt động của doanh nghiệp mà Nhà nước chỉ quản lý và tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối
với DNNN trong phần vốn góp của mình.
Từ những phân tích trên có thể rút ra DNNN là doanh nghiệp do nhà nước nắm phần sở hữu khống
chế do, chi phối hay quản lý các hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp. Trong điều kiện của Việt Nam, DNNN
là những doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn và nắm tỷ lệ vốn khống chế.
3. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường
DNNN KHÔNG PHẢI LÀ DOANH NGHIỆP THÔNG THƯỜNG
NHƯ CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
KHÁC. DO VẬY, CÂU HỎI THẾ NÀO LÀ MỘT DNNN HOẠT ĐỘNG
TỐT, HOẠT ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ, SẼ KHÔNG THỂ TRẢ LỜI
ĐƯỢC, KHÔNG THỂ CÓ CÂU TRẢ LỜI LÀM VỪA Ý MỌI NGƯỜI,
NẾU KHÔNG ĐỨNG TRÊN CÙNG MỘT XUẤT PHÁT ĐIỂM ĐÁNH
GIÁ. MỘT TRONG NHỮNG CƠ SỞ XUẤT PHÁT ĐIỂM ĐÓ LÀ VỊ
TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA DNNN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
3.1 Vị trí của DNNN
DNNN có vị trí quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Vị trí đó được xét
trong ba mối quan hệ sau:
Một là, DNNN trong mối quan hệ với chính sách, chiến lược phát triển kinh tế,. DNNN là lực lượng
trực tiếp tham gia thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Trong mối quan hệ này vị trí của DNNN
có thể tăng hoặc giảm tuỳ theo chính sách và chiến lược phát triển kinh tế của từng giai đoạn phát triển nhất
định.
Hai là, tương quan của DNNN trong hệ thống giải pháp, công cụ kinh tế mà nhà nước lựa chọn để
điều tiết, thúc đẩy và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế. Trong mối quan hệ này vị trí của DNNN được

xem như là công cụ (trực tiếp hay gián tiếp) để điều tiết và thúc đẩy kinh tế.
Ba là, tương quan giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong nền
kinh tế hỗn hợp. Tỷ trọng DNNN phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi nước. Đối với các nước phát triển
thì số lượng DNNN chiếm tỷ lệ nhất định và hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh
tế. Đối với những nước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì DNNN: "giữ vị trí then chốt
trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng
nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo" [19, tr.6].
Ở Việt Nam, vị trí của kinh tế nhà nước và DNNN đã có bước chuyển quan trọng từ sau Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI đó là, việc chuyển đổi khái niệm từ kinh tế quốc doanh sang khái niệm kinh tế nhà nước
và tách bạch giữa DNNN với kinh tế nhà nước. Theo đó, DNNN được hiểu là một bộ phận quan trọng trong
thành phần kinh tế nhà nước. Bước chuyển về nhận thức này được bắt đầu từ Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ của Đại hội Đảng khoá VII (tháng 1/1994). Trong báo cáo chính trị của Đảng tại Hội nghị này
đã khẳng định "Tài sản và vốn thuộc sở hữu nhà nước được sử dụng dưới nhiều hình thức, vừa đảm bảo hiệu
quả kinh tế – xã hội cao, vừa tăng cường khả năng thúc đẩy và kiểm soát trực tiếp của Nhà nước đối với các
hoạt động kinh tế như: đầu tư vào khu vực doanh nghiệp nhà nước, … giao quyền sử dụng đất lâu dài (đất
đai, rừng…); cho thuê, tô nhượng (hầm mỏ), liên doanh; góp vốn cổ phần, mua cổ phiếu của các doanh
nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác" [13].
Từ phân tích trên đây cho thấy, trong nền kinh tế thị trường việc hình thành sức mạnh của kinh tế nhà
nước không chỉ từ các DNNN có 100% vốn Nhà nước mà còn bao gồm các nguồn thu từ vốn góp của Nhà
nước vào các doanh nghiệp có sở hữu hỗn hợp và các doanh nghiệp thuần túy sở hữu khác.
3.2 Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị
trường
DNNN có vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân, vai trò của DNNN được thể
hiện trên các mặt cụ thể sau:
I)VAI TRÒ CỦA KHU VỰC DNNN THỂ HIỆN TRƯỚC HẾT
BẰNG BA CHỈ TIÊU SAU: ĐÓNG GÓP VÀO TĂNG TRƯỞNG ĐẤT
NƯỚC (CHIẾM TỶ TRỌNG LỚN TRONG TỔNG SẢN PHẨM
TRONG NƯỚC - GDP), THU HÚT VỐN, TẠO VIỆC LÀM VÀ THỰC
HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI. NGOÀI RA, TRONG NỀN KINH
TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM, CÁC

DNNN CÒN ĐẢM BẢO CÁC ĐIỀU KIỆN CƠ SỞ HẠ TẦNG, DỊCH
VỤ XÃ HỘI NGÀY MỘT TỐT HƠN; CUNG ỨNG HÀNG HOÁ, VẬT
TƯ, NĂNG LƯỢNG CHỦ YẾU CHO NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN NHƯ
ĐIỆN, SẮT THÉP, XI MĂNG, PHÂN BÓN, XĂNG DẦU, GIẤY VIẾT
… ĐỒNG THỜI, LÀ LỰC LƯỢNG CHỦ LỰC THỰC HIỆN CÁC
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THÔNG QUA CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG
ÍCH. DNNN LÀ ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY PHÂN BỐ LẠI NGUỒN
LỰC, NHẤT LÀ NGUỒN VỐN VÀ NGUỒN NHÂN LỰC THEO
HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ TẠO TIỀN ĐỀ CHO VIỆC HÌNH
THÀNH CÁC TRUNG TÂM KINH TẾ, VĂN HOÁ, ĐÔ THỊ MỚI.
II)DNNN GIỮ VAI TRÒ QUAN TRỌNG CHI PHỐI NHỮNG NGÀNH, LĨNH VỰC VÀ SẢN
PHẨM THEN CHỐT CỦA NỀN KINH TẾ. DNNN BẢO ĐẢM HẦU HẾT YÊU CẦU SẢN PHẨM VÀ
DỊCH VỤ CÔNG ÍCH, CÁC ĐIỀU KIỆN GIAO THÔNG, ĐIỆN, NƯỚC, THÔNG TIN, VẬT TƯ, HÀNG
HÓA CHO XUẤT KHẨU VÀ THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC.
III)DNNN LÀ LỰC LƯỢNG NÒNG CỐT TRONG TĂNG TRƯỞNG, XUẤT KHẨU, BẢO ĐẢM
CÁC SẢN PHẨM QUAN TRỌNG CỦA NỀN KINH TẾ VÀ ĐÓNG GÓP CHO NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC; GÓP PHẦN QUAN TRỌNG BẢO ĐẢM CÁC CÂN ĐỐI LỚN VÀ ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ.
IV)CÁC DNNN LÀ NGƯỜI CUNG CẤP CÁC SẢN PHẨM CHỦ YẾU (CÁC HÀNG CÔNG
NGHIỆP VÀ TIÊU DÙNG, TƯ LIỆU SẢN XUẤT VÀ CÁC DỊCH VỤ …) CHO NHU CẦU TRONG
NƯỚC VÀ XUẤT KHẨU.
V)CÁC DNNN LÀ ĐIỂM TỰA VÀ CÔNG CỤ QUAN TRỌNG CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC
ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ, KHẮC PHỤC NHỮNG KHUYẾT TẬT CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
DNNN LÀ LỰC LƯỢNG XUNG KÍCH ĐỂ NHÀ NƯỚC BỔ SUNG THỊ TRƯỜNG NHỮNG
HÀNG HOÁ VÀ DỊCH VỤ CẦN THIẾT. NHÀ NƯỚC SỬ DỤNG VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ XUNG
KÍCH CỦA DNNN KHI NÀO LÀ LÚC CẦN THIẾT? ĐÓ LÀ KHI, KHU VỰC TƯ NHÂN KHÔNG LÀM
ĐƯỢC HOẶC KHÔNG MUỐN LÀM, NHƯ ĐÃ PHÂN TÍCH Ở TRÊN. CHỨC NĂNG NÀY ĐƯỢC CÁC
DNNN THỰC HIỆN THÔNG QUA VIỆC CHÚNG CUNG CẤP NHỮNG HÀNG HOÁ VÀ DỊCH VỤ
THEO CHỦ TRƯƠNG, KẾ HOẠCH CỦA NHÀ NƯỚC (CẦU) ĐỂ NHẰM VÀO CÁC KHOẢNG
TRỐNG CỦA THỊ TRƯỜNG (CUNG).
TRONG VIỆC ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ NỀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC PHẢI SỬ DỤNG CÁC BIỆN

PHÁP VĨ MÔ NHƯ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH, CHÍNH SÁCH THUẾ, CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ… MẶT
KHÁC, NHÀ NƯỚC CŨNG PHẢI DỰA VÀO DNNN ĐỂ KHỞI ĐỘNG, PHỤC HỒI KINH TẾ HOẶC
KÌM HÃM LẠM PHÁT. THÍ DỤ, KHI KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VẬT VỜ, UỂ OẢI, NHÀ NƯỚC SẼ ÁP
DỤNG CÁC CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP VĨ MÔ NHẰM KÍCH THÍCH NHU CẦU. NHƯNG DO LÃI
SUẤT ÍT HOẶC THU HỒI VỐN CHẬM, NÓI CHUNG CÁC DOANH NGHIỆP KHÔNG MUỐN ĐẦU
TƯ. DO VẬY, NHÀ NƯỚC PHẢI DỰA VÀO CÁC DNNN ĐỂ TĂNG NHU CẦU ĐẦU TƯ, TỪ ĐÓ
THÚC ĐẨY TĂNG NHU CẦU.
VI) DNNN LÀ NHỮNG CƠ SỞ QUAN TRỌNG NHẤT TRONG VIỆC ĐẦU TƯ, ỨNG DỤNG
NHỮNG TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ; THỰC HIỆN HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC. ĐIỀU
ĐÓ THỂ HIỆN TRƯỚC HẾT BỞI SỰ CẤT CÁNH KINH TẾ CỦA MỖI QUỐC GIA KHÔNG THỂ
THIẾU CÁC NGÀNH HẠ TẦNG VÀ KHÔNG THỂ KHÔNG XÂY DỰNG CÁC CÔNG TRÌNH HẠ
TẦNG, MÀ VIỆC XÂY DỰNG NÀY THƯỜNG ĐÒI HỎI NHỮNG KHOẢN ĐẦU TƯ LỚN, RỦI RO
CAO, THU HỒI VỐN CHẬM, HIỆU QỦA XÃ HỘI RỘNG LỚN. DO VẬY, NHỮNG DOANH NGHIỆP
BÌNH THƯỜNG KHÔNG ĐỦ SỨC LÀM VÀ CŨNG KHÔNG MUỐN LÀM [2, TR.30-31]. THỨ NỮA
LÀ, TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NGÀY NAY KHOA HỌC – KỸ THUẬT ĐÓNG VAI TRÒ
THEN CHỐT. CÁC DNNN MỚI CÓ CƠ SỞ VẬT CHẤT KỸ THUẬT VÀ NGUỒN LỰC ĐỂ CÓ KHẢ
NĂNG CHUYỂN HOÁ THÀNH TỰU KHOA HỌC – KỸ THUẬT THÀNH LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
HIỆN THỰC. TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM, VAI
TRÒ DNNN CÒN THỂ HIỆN Ở VIỆC ĐỊNH HƯỚNG, DẪN DẮT CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ KHÁC
"GIỮ NHỮNG VỊ TRÍ THEN CHỐT, ĐI ĐẦU ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ;
NÊU GƯƠNG VỀ NĂNG SUẤT, CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ KINH TẾ – XÃ HỘI VÀ CHẤP HÀNH
PHÁP LUẬT" [15, TR.96]
BỞI LẼ DNNN CÓ MỘT VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ QUAN TRỌNG NHƯ VẬY ĐỐI VỚI NỀN KINH
TẾ, ĐỂ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ, VIỆC CẢI CÁCH CÁC DNNN
NHẰM NÂNG CAO KHẢ CẠNH TRANH LÀ MỘT YÊU CẦU TẤT YẾU.



CHƯƠNG II
CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC LÀ QUÁ TRÌNH TẤT

YẾU NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM
I. QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH DNNN
1. Các biện pháp đã được triển khai thực hiện
1.1 Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý đối
với DNNN
Từ kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam và của các nước trên thế giới cho thấy việc đổi mới cơ chế,
chính sách quản lý đối với DNNN có vai trò hết sức quan trọng tới hiệu quả hoạt động của DNNN. Điều
đó lý giải vì sao trong khoảng thời gian hơn 10 năm thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước đã ban
hành trên 200 văn bản quy phạm pháp luật quan trọng về vấn đề DNNN gồm: các nghị quyết, luật, pháp
lệnh, nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư… nhằm xác lập và hoàn thiện môi trường pháp lý cho
DNNN hoạt động trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Những văn bản pháp lý được ban
hành nhằm tháo gỡ khó khăn và vướng mắc trong thực thi cơ chế, chính sách để tăng cường quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của DNNN trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời tạo điều kiện cho
DNNN phát huy tiềm năng và lợi thế sẵn có để nâng cao năng lực sản xuất, tăng sức cạnh tranh và hội
nhập có kết quả vào kinh tế khu vực và quốc tế.
Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội VI của Đảng và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba
(khóa VI) năm 1987 về chuyển hoạt động của các đơn vị cơ sở kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh
xã hội chủ nghĩa, Chính phủ đã có nhiều biện pháp quan trọng về đổi mới DNNN. Khởi đầu là Quyết định
217/HĐBT ngày 14/11/1987 về việc thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của các DNNN. Tiếp đó,
Chính phủ đã ban hành một số văn bản như Nghị định số 50/HĐBT ngày 23/3/1988 ban hành Điều lệ xí
nghiệp công nghiệp quốc doanh, Nghị định 98/HĐBT ngày 2/6/1988 ban hành Quy định về quyền làm chủ
tập thể lao động tại xí nghiệp, Nghị định 27/HĐBT ban hành Điều lệ về liên hiệp xí nghiệp…
Năm 1990, Nhà nước thực hiện thí điểm trao quyền quản lý và sử dụng vốn, trách nhiệm bảo toàn vốn
cho DNNN. Đến năm 1991, mở rộng việc giao vốn nhà nước và quy định trách nhiệm bảo toàn vốn của
DNNN. Trong thời kỳ này, Nhà nước đã chuyển từ phương pháp quản lý trực tiếp bằng việc đầu tư vốn và tài
sản ở DNNN sang hình thức giao cho tập thể cán bộ công nhân viên chức và giám đốc doanh nghiệp trực tiếp
quản lý, sử dụng để sản xuất kinh doanh.
Tại Nghị định 196/HĐBT ngày 11/12/1988 và Nghị định 15/CP ngày 2/3/1993, Chính phủ đã quy
định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các bộ trên lĩnh vực quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng

giảm bớt chức năng chủ quản của bộ. Theo đó các bộ chỉ có 4 nhiệm vụ là: quyết định thành lập, tách nhập,
giải thể DNNN; giao quyền sử dụng vốn và tài sản cho DNNN, bổ nhiệm giám đốc, phó giám đốc doanh
nghiệp; kiểm soát hoạt động kinh doanh của DNNN. Để hoàn chỉnh hơn khung pháp lý cho DNNN hoạt
động, trong thời gian từ 1988 đến 1990 Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã công bố Pháp lệnh Kế toán thống kê
ngày 29/9/1989, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 28/9/1989, Pháp lệnh Trọng tài kinh tế ngày 12/01/1990.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII đã khẳng định: "Nhà nước quản lý nền kinh tế nhiều
thành phần bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác". Việc thực hiện quản lý kinh tế bằng
pháp luật cũng được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992.
Luật DNNN được Quốc hội thông qua ngày 20/4/1995 là một cơ sở pháp lý quan trọng, quy định:
"DNNN là thực thể pháp nhân độc lập, tạo điều kiện cho các DNNN hoạt động có hiệu quả và thực hiện các
mục tiêu do Nhà nước giao" [10]. Luật DNNN ra đời là sự chuyển đổi quan trọng trong quản lý hoạt động
của DNNN, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết và khẳng định nhiều vấn đề có liên quan trong quan hệ giữa
DNNN với Nhà nước. Luật này đã chỉ rõ quan niệm DNNN; phân định rõ DNNN hoạt động sản xuất kinh
doanh và DNNN hoạt động công ích; quyền tự chủ của DNNN; nghĩa vụ của DNNN đối với Nhà nước; định
hướng phát triển khu vực DNNN; phân định quyền của cơ quan quản lý nhà nước và quyền của DNNN. Bộ
Tài chính được giao quyền và chịu trách nhiệm quản lý tài sản nhà nước tại DNNN.
Chủ trương thành lập các Tổng công ty nhà nước có quy mô quốc gia không trực thuộc Bộ, ngành chủ
quản là nhằm xoá bỏ dần chế độ Bộ chủ quản và cấp hành chính chủ quản đối với DNNN. Tiếp theo Luật
DNNN, Chính phủ đã ban hành Nghị định 59/CP ngày 3/10/1996 (được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số
27/1999/NĐ - CP ngày 20/4/1999) ban hành quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với
DNNN chất lượng quản lý tài chính của DNNN được tăng cường theo hướng:
- Nhà nước chuyển từ hình thức cấp vốn (vốn cố định và vốn lưu động) sang hình thức giao vốn cho
DNNN và chuyển hình thức định mức vốn cho từng doanh nghiệp sang hình thức xác định vốn điều lệ cho
DNNN.
- DNNN được quyền sử dụng vốn, quỹ và thay đổi cơ cấu vốn, tài sản để phục vụ phát triển kinh
doanh theo nguyên tắc hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn; được đầu tư ra ngoài doanh nghiệp (kể cả doanh
nghiệp không thuộc sở hữu của Nhà nước); được quyền huy động vốn dưới các hình thức: phát hành trái
phiếu, cổ phiếu, vay vốn, nhận vốn, góp vốn liên kết và các hình thức khác nhưng không làm thay đổi hình
thức sở hữu của DNNN; áp dụng việc mua bảo hiểm tài sản trong DNNN; hạch toán vào chi phí kinh doanh
để hình thành quỹ dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng các khoản thu khó đòi, dự phòng các khoản

giảm giá giữa đồng tiền Việt Nam so với ngoại tệ… thực hiện chế độ trích lập quỹ dự trữ tài chính, quỹ dự
phòng mất việc làm trong các DNNN. Khuyến khích thực hiện khấu hao nhanh để các DNNN có điều kiện
hiện đại hoá và nhanh chóng đổi mới công nghệ. DNNN được quyền cho thuê, thế chấp, cầm cố, nhượng bán
tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp để phục vụ cho kinh doanh và thu hồi vốn sử dụng cho mục
đích kinh doanh có hiệu quả hơn. Trong giá thành sản phẩm, ngoài các khoản trích lập quỹ dự phòng như đã
nói ở trên thì DNNN còn được chi trợ cấp thôi việc cho người lao động, tiền thuê đất hoặc thuế sử dụng đất,
chi cho quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại cho các hoạt động kinh doanh. Trong trường hợp đặc biệt DNNN
thua lỗ thì ngân sách nhà nước không cấp bù như trước đây mà doanh nghiệp phải lấy lãi của các kỳ kế tiếp
đó để bù lỗ. Việc phân phối thu nhập của DNNN cũng đã thay đổi theo nguyên tắc gắn hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp và hài hoà giữa quyền lợi của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Ngày 31/12/1994 Quốc hội đã ban hành Bộ luật Lao động làm căn cứ pháp lý trong sử dụng lao động.
Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định về hợp đồng lao động, theo đó chuyển việc sử dụng lao động từ
hình thức biên chế vĩnh viễn sang hình thức hợp đồng lao động; quy định nghĩa vụ, quyền lợi của doanh
nghiệp, của người lao động trong việc chấm dứt hợp đồng lao động cũng như mất việc làm; về thoả ước lao
động tập thể; về mức lương tối thiểu, hệ thống thang bảng lương, chế độ trả lương, tiền thưởng trong doanh
nghiệp và một số quy định khác có liên quan đến tiền lương của người lao động; về chế độ bảo hiểm xã hội;
về an toàn lao động, vệ sinh lao động, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
1.2 Sắp xếp, tổ chức lại các DNNN
Sắp xếp và tổ chức lại các DNNN được tiến hành trên cơ sở phân loại DNNN, thu gọn đầu mối, loại
bỏ các DNNN làm ăn không hiệu quả, tổ chức lại các tổng công ty nhà nước nhằm chấn chỉnh và xây dựng
khu vực DNNN hoạt động có hiệu quả, đảm nhiệm được vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Các biện pháp này thực hiện như sau:
A) PHÂN LOẠI VÀ SẮP XẾP LẠI DNNN
ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DNNN TRÊN CƠ SỞ THU GỌN ĐẦU
MỐI, ĐỔI MỚI CƠ CẤU DNNN, NHÀ NƯỚC ĐÃ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN MỘT SỐ BIỆN PHÁP
QUAN TRỌNG SAU:
NGÀY 01/9/4990 HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG ĐÃ BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH 315/HĐBT YÊU
CẦU CÁC DNNN PHẢI RA SOÁT LẠI CHỨC NĂNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH, RA SOÁT LẠI
CÁC YẾU TỐ SẢN XUẤT KINH DOANH (VỐN, CÔNG NGHỆ, THỊ TRƯỜNG, TỔ CHỨC LAO
ĐỘNG, TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ CÁN BỘ, SOÁT XÉT LẠI TÌNH TRẠNG TÀI CHÍNH DNNN, VIỆC

CHẤP HÀNH KỶ LUẬT TÀI CHÍNH, KẾ TOÁN, THỐNG KÊ). NHỮNG XÍ NGHIỆP LIÊN TIẾP LỖ
TRONG THỜI GIAN DÀI DO KHÔNG TIÊU THỤ ĐƯỢC SẢN PHẨM, KHÔNG THỰC HIỆN ĐƯỢC
NHIỆM VỤ KINH DOANH, KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG THANH TOÁN VÀ KHÔNG THỂ KHẮC PHỤC
ĐƯỢC BẰNG CÁC BIỆN PHÁP NHƯ CHUYỂN HƯỚNG SẢN XUẤT, THAY ĐỔI MẶT HÀNG, ĐẦU
TƯ TRANG BỊ LẠI, CŨNG NHƯ CÁC BIỆN PHÁP VỀ CHẤN CHỈNH VÀ TỔ CHỨC LẠI SẢN XUẤT
KINH DOANH VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA CẤP TRÊN… CÓ THỂ BỊ TUYÊN BỐ GIẢI THỂ.
NGÀY 20/11/1991 HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG BAN HÀNH NGHỊ ĐỊNH 388/HĐBT QUY ĐỊNH
VIỆC THÀNH LẬP, ĐĂNG KÍ, GIẢI THỂ DNNN NHẰM LOẠI BỎ NHỮNG DNNN ĐÃ THÀNH LẬP
MỘT CÁCH TRÀN LAN, Ồ ẠT TRONG NHỮNG NĂM TRƯỚC ĐÓ. CÁC CƠ QUAN CHỨC NĂNG
CỦA CHÍNH PHỦ NHƯ BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ, BỘ TÀI CHÍNH, NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM, BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI ĐÃ BAN HÀNH NHIỀU THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH 388/HĐBT LÀ MỘT CHỦ TRƯƠNG LỚN CỦA CHÍNH
PHỦ TRONG VIỆC SẮP XẾP DNNN. ĐÂY LÀ LẦN ĐẦU TIÊN QUY ĐỊNH CÁC ĐIỀU KIỆN TỐI
THIỂU VỀ VỐN PHÁP ĐỊNH, NGÀNH NGHỀ KINH DOANH, QUY MÔ NHỎ NHẤT, LUẬN CHỨNG
VỀ THỊ TRƯỜNG, TIÊU THỤ SẢN PHẨM TRONG VIỆC LÀM THỦ TỤC THÀNH LẬP DNNN.
THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH 388/HĐBT, CÁC BỘ, ĐỊA PHƯƠNG VÀ TỪNG DNNN ĐÃ PHỐI HỢP
TIẾN HÀNH RÀ SOÁT LẠI CHỨC NĂNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA TỪNG ĐƠN VỊ ĐỂ TỔ
CHỨC THEO ĐÚNG CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ ĐƯỢC QUY ĐỊNH, VỪA ĐẢM BẢO GIÁM SÁT
NHÀ NƯỚC. TRÊN CƠ SỞ XEM XÉT TÌNH TRẠNG TÀI CHÍNH CỦA DNNN, ĐÁNH GIÁ TÀI SẢN
CỐ ĐỊNH, VỐN LƯU ĐỘNG, KẾT QUẢ LÃI, LỖ, TỒN KHO, NỢ NẦN, VIỆC CHẤP HÀNH KỶ LUẬT
TÀI CHÍNH, KẾ TOÁN THỐNG KÊ ĐỂ LÀM RÕ THỰC TRẠNG YẾU KÉM CỦA DNNN VÀ TỰ ĐỀ
RA CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC.
NGÀY 25/8/1995 THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ ĐÃ BAN HÀNH CHỈ THỊ 500/ TTG VỀ VIỆC
KHẨN TRƯƠNG TỔ CHỨC, SẮP XẾP LẠI DNNN NHẰM HƯỚNG CÁC DNNN ĐI VÀO HOẠT
ĐỘNG THEO LUẬT DNNN, KẾT HỢP VỚI VIỆC XOÁ BỎ CHẾ ĐỘ BỘ CHỦ QUẢN VÀ CẤP HÀNH
CHÍNH CHỦ QUẢN, KHẮC PHỤC MỘT BƯỚC TÌNH TRẠNG CÓ NHIỀU DNNN HOẠT ĐỘNG
CÙNG NGÀNH NGHỀ TRÊN CÙNG ĐIẠ BÀN NHƯNG DO NHIỀU BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG
QUẢN LÝ. TRONG ĐÓ, ĐẶC BIỆT YÊU CẦU PHẢI SẮP XẾP LẠI NGÀNH XÂY DỰNG VÀ CƠ KHÍ.
ĐỐI VỚI CÁC DNNN ĐÃ ĐƯỢC THÀNH LẬP THEO NGHỊ ĐỊNH 388/HĐBT ĐANG HOẠT ĐỘNG
CÓ HIỆU QUẢ VÀ PHÙ HỢP VỚI QUY HOẠCH SẼ KHÔNG LÀM THỦ TỤC THÀNH LẬP LẠI. ĐỐI

VỚI CÁC DNNN TUY ĐÃ ĐƯỢC THÀNH LẬP LẠI THEO NGHỊ ĐỊNH 388/HĐBT NHƯNG HIỆU
QỦA THẤP, QUY MÔ NHỎ THÌ CÓ THỂ TỔ CHỨC LẠI THÔNG QUAN VIỆC HỢP NHẤT HOẶC
SÁP NHẬP ĐỂ LÀM ĂN CÓ HIỆU QUẢ HƠN HOẶC THÀNH LẬP CÁC DNNN LỚN CÓ HỘI ĐỒNG
QUẢN TRỊ. DNNN ĐỊA PHƯƠNG CÓ THỂ LÀ THÀNH VIÊN CỦA CÁC TỔNG CÔNG TY NHÀ
NƯỚC. DNNN THUỘC TRUNG ƯƠNG QUẢN LÝ CÓ THỂ CHUYỂN CHO ĐỊA PHƯƠNG ĐỂ SẮP
XẾP LẠI THEO ĐỊA BÀN LÃNH THỔ. YÊU CẦU CỦA CHỈ THỊ 500/TTG LÀ PHẢI PHÂN BIỆT RÕ
DNNN HOẠT ĐỘNG CÔNG ÍCH VÀ DNNN HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH.
NGÀY 21/4/1998, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ ĐÃ BAN HÀNH CHỈ THỊ 20/1998/CT – TTG ĐỂ
ĐẨY MẠNH SẮP XẾP VÀ ĐỔI MỚI DNNN, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ YÊU CẦU CÁC CẤP, CÁC
NGÀNH KHẨN TRƯƠNG TIẾN HÀNH PHÂN LOẠI VÀ SẮP XẾP DNNN; CỦNG CỐ VÀ HOÀN
THIỆN TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC; THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP LÀNH MẠNH HOÁ TÀI
CHÍNH; LẬP KẾ HOẠCH ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ, HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO SỨC
CẠNH TRANH CỦA DNNN TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ. THEO SỐ LIỆU CỦA BAN
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP TRUNG ƯƠNG ĐẾN KHOẢNG THÁNG 4/2000 ĐÃ THẨM
ĐỊNH 64 TRONG SỐ 74 ĐỀ ÁN TỔNG THỂ SẮP XẾP DNNN DO CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG,
TỔNG CÔNG TY 91 ĐỂ TRÌNH THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ ĐÃ PHÊ
DUYỆT 56 ĐỀ ÁN.
ĐỂ TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT DNNN, NGÀY 28/8/1996 CHÍNH PHỦ BAN HÀNH NGHỊ
ĐỊNH 50/CP VỀ THÀNH LẬP, TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ, PHÁ SẢN DNNN VÀ SAU ĐÓ, NGÀY
28/4/1997 CHÍNH PHỦ ĐÃ BAN HÀNH NGHỊ ĐỊNH 38/CP VỀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU
CỦA NGHỊ ĐỊNH 50/CP.
CÁC NGHỊ ĐỊNH NÓI TRÊN ĐÃ QUY ĐỊNH NHỮNG NGÀNH, LĨNH VỰC ĐƯỢC ƯU TIÊN
XEM XÉT KHI THÀNH LẬP DNNN. ĐÓ LÀ NHỮNG NGÀNH, LĨNH VỰC, ĐỊA BÀN HOẠT ĐỘNG
MÀ Ở ĐÓ DNNN PHẢI CÓ MẶT ĐỂ ĐIỀU TIẾT, HƯỚNG DẪN, THÚC ĐẨY SỰ TĂNG TRƯỞNG
NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN. ĐỒNG THỜI, NGHỊ ĐỊNH CŨNG QUY ĐỊNH VỐN ĐIỀU LỆ
TẠI THỜI ĐIỂM THÀNH LẬP KHÔNG THẤP HƠN MỨC VỐN PHÁP ĐỊNH CỦA NGÀNH NGHỀ
KINH DOANH.
BẰNG VIỆC THỰC HIỆN ĐỒNG BỘ CÁC BIỆN PHÁP NÊU TRÊN, SỐ LƯỢNG DNNN GIẢM
ĐÁNG KỂ, CƠ CẤU DNNN BƯỚC ĐẦU ĐƯỢC ĐIỀU CHỈNH HỢP LÝ HƠN, NHỜ ĐÓ MÀ CÓ TÁC
ĐỘNG TÍCH CỰC TỚI QUÁ TRÌNH TÍCH TỤ VÀ TẬP TRUNG VỐN ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC

HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DNNN.
TUY NHIÊN, BÊN CẠNH NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC, VIỆC SẮP XẾP DNNN MỚI CHỈ
GIẢM ĐƯỢC SỐ LƯỢNG VÀ THU GỌN ĐƯỢC ĐẦU MỐI DNNN, CƠ CẤU VÀ HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA DNNN CÒN NHIỀU HẠN CHẾ. NĂM 2002, MỚI CÓ 40% DNNN HOẠT ĐỘNG CÓ HIỆU
QUẢ, 31% KHI LÃI, KHI LỖ VÀ 29% LIÊN TỤC THUA LỖ; QUY MÔ DNNN VẪN CHỦ YẾU LÀ
VỪA VÀ NHỎ (VỐN DƯỚI 5 TỶ ĐỒNG CHIẾM TỚI 24,75%, TRONG ĐÓ CÓ 5,73% DNNN VỐN TỪ
1 TỶ ĐỒNG TRỞ XUỐNG) [14]. NHIỀU DNNN THUA LỖ, KHÔNG HIỆU QUẢ, VỐN NHỎ VẪN
ĐANG HOẠT ĐỘNG TRONG NHỮNG LĨNH VỰC MÀ NHÀ NƯỚC KHÔNG NHẤT THIẾT PHẢI CHI
PHỐI.
Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG CÒN NHIỀU DNNN KHÔNG ĐỦ ĐIỀU KIỆN THÀNH LẬP LẠI
THEO NGHỊ ĐỊNH 388/HĐBT NHƯNG VẪN CHƯA ĐƯỢC XỬ LÝ, TIẾP TỤC HOẠT ĐỘNG KHÔNG
ĐĂNG KÍ KINH DOANH. VIỆC THÀNH LẬP MỚI DNNN VẪN CÒN TRÀN LAN, TRONG NHIỀU
TRƯỜNG HỢP CHƯA THỰC SỰ CẦN THIẾT, CHƯA ĐÚNG QUY ĐỊNH VÀ HỘI ĐỦ ĐIỀU KIỆN,
NHẤT LÀ VỐN NHÀ NƯỚC CÒN RẤT NHỎ, PHẦN LỚN KHÔNG CÓ VỐN LƯU ĐỘNG DO NGÂN
SÁCH CẤP. SỐ DNNN ĐÃ LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN NHƯNG HẦU HẾT CHƯA THỰC
HIỆN ĐƯỢC VIỆC PHÁ SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT.
B) TỔ CHỨC LẠI CÁC TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC.
ĐỂ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÁC DNNN, ĐỒNG THỜI THỰC HIỆN CHỦ
TRƯƠNG XOÁ BỎ DẦN CHẾ ĐỘ BỘ CHỦ QUẢN, CẤP HÀNH CHÍNH CHỦ QUẢN VÀ TẬP
TRUNG PHÁT TRIỂN DNNN TRONG NHỮNG NGÀNH QUAN TRỌNG, THEN CHỐT, NGÀY
7/3/1994, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ ĐÃ BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 90/TTG VÀ QUYẾT
ĐỊNH 91/TTG VỀ VIỆC THÀNH LẬP CÁC TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC TRÊN CƠ SỞ SẮP XẾP,
ĐĂNG KÍ LẠI CÁC LIÊN HIỆP XÍ NGHIỆP, CÁC TỔNG CÔNG TY HIỆN CÓ MÀ CHƯA THỰC
HIỆN ĐĂNG KÍ LẠI THEO NGHỊ ĐỊNH 388/HĐBT.
NGÀY 20/1/1995 QUỐC HỘI THÔNG QUA LUẬT DNNN, TRONG ĐÓ QUY ĐỊNH: "TỔNG
CÔNG TY NHÀ NƯỚC ĐƯỢC THÀNH LẬP VÀ HOẠT ĐỘNG TRÊN CƠ SỞ LIÊN KẾT CỦA NHIỀU
ĐƠN VỊ THÀNH VIÊN, CÓ MỐI QUAN HỆ GẮN BÓ VỚI NHAU VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ, CÔNG
NGHỆ, CUNG ỨNG, TIÊU THỤ, DỊCH VỤ, THÔNG TIN, ĐÀO TẠO, NGHIÊN CỨU, TIẾP THỊ, HOẠT
ĐỘNG TRONG MỘT HOẶC MỘT SỐ NGÀNH KINH TẾ – KỸ THUẬT CHÍNH, NHẰM TĂNG
CƯỜNG KHẢ NĂNG KINH DOANH CỦA CÁC ĐƠN VỊ THÀNH VIÊN VÀ THỰC HIỆN CÁC NHIỆM

VỤ CỦA CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI TRONG TỪNG THỜI KỲ" [18].
NGÀY 27/6/1995 CHÍNH PHỦ BAN HÀNH NGHỊ ĐỊNH 39/CP QUY ĐỊNH ĐIỀU LỆ MẪU VỀ
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC NHẰM CỤ THỂ HOÁ LUẬT DNNN
VÀ QUY ĐỊNH RÕ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA TỔNG CÔNG TY, HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ VÀ BAN
KIỂM SOÁT, TỔNG GIÁM ĐỐC VÀ BỘ MÁY GIÚP VIỆC, TẬP THỂ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG
TỔNG CÔNG TY, ĐƠN VỊ THÀNH VIÊN CỦA TỔNG CÔNG TY, QUẢN LÝ PHẦN VỐN GÓP CỦA
TỔNG CÔNG TY VÀ DNNN THÀNH VIÊN Ở CÁC DNNN KHÁC, TÀI CHÍNH CỦA TỔNG CÔNG
TY, MỐI QUAN HỆ CỦA TỔNG CÔNG TY VỚI CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Ở TRUNG ƯƠNG VÀ
ĐỊA PHƯƠNG.
1.3 Thực hiện cổ phần hoá các DNNN
Cổ phần hóa DNNN là một chủ trương lớn, một giải pháp quan trọng tạo chuyển biến cơ bản trong
việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN ở Việt Nam. Chủ trương này được đề ra
tại Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương đảng khoá VII (vào tháng 11/1991): "Chuyển một số
DNNN quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới,
phải làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp"
[16]. Mục tiêu chủ yếu của cổ phần hoá DNNN là nhằm thu hút thêm vốn cho DNNN tạo thêm động lực thúc
đẩy các doanh nghiệp này kinh doanh có hiệu quả hơn, làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng lên, không
phải để tư nhân hóa như Nghị quyết Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng 11/1994),
Nghị quyết số 10/NQ – TW ngày 17/3/1995 của Bộ chính trị đã chỉ rõ: "tuỳ tính chất loại hình DNNN mà
tiến hành bán một số tỷ lệ cổ phần cho cán bộ công nhân viên chức và các cá nhân ngoài DNNN" [5], [8].
Ngày 26/12/1991, tại kỳ họp thứ 10, khoá VIII Quốc hội đã ra Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh
tế – xã hội 5 năm 1991 – 1995 trong đó ghi: "Thí điểm việc cổ phần hoá một số cơ sở kinh tế quốc doanh để
rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển" [11].
Thực hiện chủ trương cổ phần hoá DNNN của Đảng và Nhà nước, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị
quyết, quyết định, chỉ thị nhằm xác định cụ thể bước đi, phương thức tiến hành cổ phần hoá DNNN.
Ngày 10/5/1990 Hội đồng Bộ trưởng đã ra Quyết định số 143/HĐBT đề ra chủ trương thí điểm
chuyễn xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần đối với một số ít các xí nghiệp có đủ điều kiện và tiêu
biểu. Ngày 8/6/1992 Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 202/CT về tiếp tục thí điểm chuyển một số DNNN
thành công ty cổ phần; Ngày 8/6/1992 Hội đồng Bộ trưởng đã ra Quyêt định số 203/CT chọn 7 DNNN thí
điểm và giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chọn từ 1-2 DNNN

để thí điểm chuyển thành công ty cổ phần. Tiếp đó, ngày 4/3/1993 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị
84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở
hữu đối với DNNN.
Tháng 5/1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 28/CP về chuyển một số DNNN thành công ty cổ
phần. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định một cách tương đối đồng bộ về các chính sách đối với
DNNN thực hiện cổ phần hoá. Nghị định này được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 25/CP ngày
26/3/1997 và được thay thế bằng Nghị định số 44/1998/NĐ - CP ngày 19/6/1998 về việc chuyển DNNN
thành công ty cổ phần. Nghị định này còn quy định chính sách đối với DNNN và người lao động trong
DNNN thực hiện cổ phần hoá như sau:
Về hình thức cổ phần hoá, Nghị định 44/CP quy định rõ ngoài ba hình thức quy định trước đây (theo
Nghị định 28/CP) là: giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại các DNNN và phát hành cổ phiếu để
thu hút thêm vốn; bán một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại DNNN; tách một bộ phận của DNNN
đủ điều kiện để cổ phần hoá nay bổ sung thêm một hình thức cổ phần hoá mới là bán toàn bộ giá trị hiện có
thuộc vốn nhà nước tại DNNN để chuyển thành công ty cổ phần.
Việc xác định giá trị DNNN thực hiện theo nguyên tắc: giá trị thực tế của DNNN là toàn bộ giá trị tài
sản hiện có của DNNN tại thời điểm cổ phần hoá mà người mua và người bán cổ phần đều chấp nhận được
(tức là phải theo giá thị trường). Lợi thế kinh doanh như vị trí địa lý, mặt hàng, chỉ được thêm tối đa là 30%
vào giá trị thực tế của DNNN.
Về chính sách đối với người lao động, Nghị định 44/CP thực hiện chính sách giảm giá 30% đối với số
cổ phần được mua với giá ưu đãi cho người lao động trong DNNN. Người lao động có quyền sở hữu cổ phần
của mình và có thể chuyển nhượng, thừa kế. Chính sách này đã khắc phục được những khó khăn, tồn tại khi
thực hiện Nghị định 28/CP.
2. Kết quả
Đổi mới quản lý nhà nước đối với DNNN thời gian qua, thực chất là việc thay đổi cách ứng của Nhà
nước đối với các DNNN thông qua việc thực hiện các biện pháp nhằm tháo gỡ cho DNNN. Kết quả của các
biện pháp đó cụ thể như sau:
2.1 Kết quả của việc đổi mới cơ chế, chính
sách đối với DNNN
Từng bước hình thành khung pháp lý tương đối đồng bộ, tạo điều kiện cho DNNN thực hiện quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, phân phối tiền lương, lợi nhuận để lại. DNNN phải thực

sự hạch toán kinh doanh, thích ứng với cơ chế thị trường, chịu sự điều tiết của quy luật cung cầu. Từng bước
các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện các chức năng quản lý nhà nước đối với DNNN và của đại diện chủ
sở hữu nhà nước, tăng cường kiểm soát nhưng không can thiệp vào hoạt động sản xuất – kinh doanh của
DNNN, tạo môi trường ngày một thuận lợi hơn cho DNNN từng bước vươn lên làm tốt vai trò nòng cốt của
mình trong nền kinh tế. Đồng thời, xác định rõ quan hệ giữa DNNN và Nhà nước, DNNN hoạt động công ích
và DNNN hoạt động sản xuất kinh doanh, quyền tự chủ của DNNN, nghĩa vụ của DNNN.
Cơ chế, chính sách tài chính được đặc biệt quan tâm hoàn thiện theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của DNNN đó là: DNNN được thực hiện nguyên tắc hạch toán kinh doanh, lấy thu bù chi,
đảm bảo có lãi; Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp, doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu
quả, bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước; DNNN được giữ khấu hao cơ bản tài sản cố định để tái đầu tư,
đổi mới máy móc, thiết bị, mở rộng các hình thức huy động vốn cho DNNN.
Ngoài phần vốn do ngân sách nhà nước cấp phát, doanh nghiệp được chủ động vay vốn ngân hàng,
các đơn vị khác, các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp, được thí điểm phát hành trái phiếu để vay vốn; đa
dạng hoá hình thức sở hữu các DNNN. Nhà nước khuyến khích DNNN tích tụ tập trung vốn cho sản xuất –
kinh doanh thông qua chính sách trích thưởng từ lợi nhuận tạo ra động lực vật chất gắn bó người lao động
với DNNN…
Tuy vậy, việc đổi mới cơ chế chính sách quản lý đối với DNNN thời gian qua còn có những hạn chế
cần sớm được nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện. Nhiều cơ chế, chính sách còn chồng chéo gây khó khăn,
phiền hà cho doanh nghiệp; thủ tục hành chính còn rườm rà, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, vay
vốn, thẩm định dự án đầu tư… ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh của DNNN. Chính sách thuế còn nhiều bất
hợp lý, chưa tạo điều kiện thật sự để DNNN tích tụ vốn, chủ động tái đầu tư phát triển, chưa chú trọng nuôi
dưỡng nguồn thu, tạo lập quỹ dự phòng của doanh nghiệp đề phòng rủi ro trong cơ chế thị trường. Đối với
loại hình DNNN công ích và DNNN hoạt động sản xuất kinh doanh chưa có cơ chế tài chính phù hợp với
hình thức hoạt động của các DNNN này.
Cơ chế quản lý nội bộ DNNN còn chậm đổi mới, chưa phát huy được vai trò làm chủ của người lao
động, động viên sức lực, trí lực của các bộ quản lý, toàn tâm, toàn ý phục vụ DNNN. Cơ chế tuyển chọn, bổ
nhiệm giám đốc DNNN còn nhiều hạn chế, chưa gắn tiêu chuẩn, trách nhiệm và lợi ích của cán bộ quản lý
với hiệu quả hoạt động của DNNN.
2.2 Kết quả của việc sắp xếp, tổ chức lại các
DNNN.

Trên cơ sở sắp xếp lại 250 liên hiệp xí nghiệp và tổng công ty, đến nay cả nước có 17 tổng công ty 91
với 532 DNNN thành viên và 77 tổng công ty 90 với 860 DNNN thành viên hạch toán độc lập. Tính đến
tháng 12 năm 2002, các tổng công ty nhà nước có 1.392 DNNN thành viên, chiếm 25,16% tổng số DNNN,
65% vốn nhà nước tại DNNN, 61% lao động của khu vực DNNN. Các tổng công ty đã chi phối được các
ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, là một công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước đảm bảo ổn định
kinh tế vĩ mô, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo các cân đối lớn, cung cấp những sản phẩm
trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân như điện, than, xi măng, phân bón, xăng dầu, giấy viết, thép… Các tổng
công ty đã thực hiện nhiều biện pháp bảo toàn và phát triển vốn. Ngoài vốn ngân sách nhà nước cấp, đến cuối
năm 2002, riêng 17 tổng công ty 91 đã có nguồn vốn tự bổ sung thêm được 18.038 tỷ đồng, chiếm 22,5%
tổng số vốn sản xuất kinh doanh của các tổng công ty 91 [1] (xem biểu 2.1)
Biểu 2.1. Một số chỉ tiêu về Tổng công ty 91
TT
CÁC CHỈ TIÊU VỀ HOẠT ĐỘNG
1996 2001 CHÊNH LỆCH
1 SỐ DNNN SẢN XUẤT KINH DOANH 492 532 40
2 SỐ DNNN HÒA VỐN 12 12 0
3 SỐ DNNN LỖ 50 23 -27
4 SỐ DNNN CÓ LÃI 436 361 -75

×