Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Giải pháp đẩy mạnh Cổ phần hóa các CNHH của Thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.55 KB, 101 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
Lời mở đầu
Ngày nay, nền kinh tế các nước phát triển nhanh chóng trong điều kiện
hội nhập, sự giao lưu quốc tế đã được mở rộng ở mức cao nhất. Việt Nam
cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó, sự mở cửa của nền kinh tế đòi hỏi một
tiềm lực thực sự của đất nước. Tuy nhiên, bước đi hay thay đổi nào cũng phải
đảm bảo không chệch khỏi hướng đi của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Vì vậy, tuy chúng ta đã thực hiện chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thích hợp với yêu cầu đổi mới từ Đại hội
Đảng VI (12/1986) nhưng vẫn phải giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước. Thực hiện chính sách này, đòi hỏi phải có sự thay đổi một cách sâu sắc
và toàn diện hoạt động của DNNN cho phù hợp với tình hình mới. Mục tiêu
của quá trình đổi mới DNNN là từng bước phát huy có hiệu quả vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và
giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần
kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện
chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô.
CPH được xem là một trong những phương thức cơ bản, hữu hiệu nhất
nhằm đổi mới hoạt động của DNNN, đa dạng hóa hình thức sở hữu và đổi
mới phương thức hoạt động của DN, phương thức quản lý kinh tế của Nhà
nước, tạo động lực cho người lao động thực sự làm chủ DN, nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh và thu hút vốn đầu tư trong xã hội. CTCP là một
trong những xu hướng chuyển đổi và hình thành DN chính trên thế giới, đặc
biệt trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
Thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp lại DNNN ở nước ta từ năm 1992
đến nay đã có kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, tiến độ CPH nói riêng và sắp
xếp DNNN nói chung còn diễn ra chậm so với kế hoạch. Nguyên nhân của
1
Khóa luận tốt nghiệp
tình hình đó là do đâu? Và làm thế nào để đảm bảo thực hiện đúng tiến độ
CPH? Để góp phần làm rõ hơn vấn đề này, trong thời gian thực tập em đã


chọn đề tài: “Giải pháp đẩy mạnh CPH các DNNN của thành phố Hà Nội”
để làm luận văn tốt nghiệp. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề CPH
DNNN. Phạm vi nghiên cứu là các DNNN trực thuộc UBND thành phố Hà
Nội quản lý.
Kết cấu luận văn bao gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về CPH DNNN.
Chương 2: Thực trạng CPH DNNN của thành phố Hà Nội.
Chương 3: Phương hướng và biện pháp đẩy mạnh CPH các DNNN của
thành phố Hà Nội đến năm 2010.
Do hiểu biết còn hạn chế, bài viết của em chắc chắn có nhiều sai sót, em
rất mong được nhận những góp ý và chỉ dạy quý báu của các thầy cô giáo.
Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo tiến sĩ Nguyễn Thị
Kim Dung đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Đồng thời em
cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc của mình đến Thạc sĩ Nguyễn Thị
Luyến- nghiên cứu viên của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW đã nhiệt tình
hướng dẫn em trong quá trình thực tập cũng như hoàn chỉnh bài viết.
2
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DNNN
1. Doanh nghiệp Nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
nước
1.1. Doanh nghiệp Nhà nước
1.1.1. Khái niệm
Định nghĩa DNNN được sử dụng phổ biến là định nghĩa trong báo cáo
của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc UNIDO: “DNNN là các
tổ chức kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước hay do Nhà nước kiểm soát có thu
nhập chủ yếu từ việc tiêu thụ hàng hóa hay dịch vụ”. Như vậy, theo định
nghĩa trên, DNNN bao gồm các DN hoàn toàn thuộc quyền quản lý của các
Bộ, ngành, DN mà Nhà nước giữ phần lớn cổ phần và cả những DN mà Nhà

nước không giữ phần lớn cổ phần song do sự phân tán của cổ đông mà Nhà
nước giữ quyền chi phối.
Khái niệm DNNN trong hệ thống pháp luật Việt Nam thay đổi qua nhiều
thời kì, tương ứng với sự thay đổi về quan niệm đối với sở hữu, thay đổi trong
cơ chế quản lý kinh tế. Điều 1 trong Luật DNNN 2003 được phát triển tương
đối sâu trong cách định nghĩa DNNN: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà
nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc
hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do Nhà nước
giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN
quản lý”. Luật này áp dụng với các DNNN tổ chức dưới hình thức DN độc
lập, tổng công ty, DN thành viên của tổng công ty và quản lý phần vốn của
Nhà nước đầu tư ở các DN. Như vậy, khái niệm trên đã phản ánh những thay
đổi cơ bản trong nhận thức của các nhà lập pháp và các nhà hoạch định chính
3
Khóa luận tốt nghiệp
sách đối với thành phần kinh tế Nhà nước. Điều đó thể hiện ở chỗ: việc xác
định DNNN không hoàn toàn dựa vào tiêu chí sở hữu. Quan niệm trên đã thừa
nhận sự tồn tại bình đẳng của các hình thức sở hữu trong một DNNN, tiêu chí
xác định DNNN là quyền kiểm soát và chi phối DNNN. Như vậy, DNNN có
thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Quan niệm trên là một sự tiến bộ
lớn trong cách nhận thức, mở đường cho các cải cách liên quan đến DNNN
sau đó.
1.1.2. Đặc điểm của DNNN
1.1.2.1. DNNN thuộc quyền sở hữu của Nhà nước
Quyền sở hữu DNNN thuộc về Nhà nước, thể hiện ở lượng vốn chủ yếu ở
các DNNN là do Nhà nước đầu tư. Việc sở hữu này quyết định sự kiểm soát
của Nhà nước ở một mức độ nhất định và quyền can thiệp vào các hoạt động
kinh doanh của DN. Người quản lý DN không có quyền đối phó với những
điều kiện thay đổi của thị trường. Các tổ chức lao động trong DNNN mạnh

hơn tư nhân nên người làm công trong các DNNN được hưởng lương cao hơn
và có chế độ ưu đãi xã hội tốt hơn. Vì vậy, các DNNN ít có khả năng thay đổi
đầu vào về nguồn lao động, gặp khó khăn trong việc giảm số lao động dư
thừa.
Việc quyết định sản xuất các mặt hàng phụ thuộc vào Chính Phủ và mục
đích của Chính phủ trong từng giai đoạn. DNNN có thể phải sản xuất hàng
hóa công cộng phi thương mại đáp ứng yêu cầu của nhân dân mà không xuất
phát từ lợi nhuận hay động cơ kinh tế nào. Thêm vào đó là tính không rõ ràng
về nhiệm vụ được giao, DNNN phải tồn tại và phát triển đảm bảo lợi ích quốc
gia cũng như lợi ích chung của xã hội. Tất cả điều này do tính chất phi thương
mại của sở hữu Nhà nước, DN buộc phải thỏa mãn yêu cầu tiêu dùng trong
nước với giá ưu đãi, hoặc thỏa mãn dịch vụ do chính phủ yêu cầu, thậm chí
4
Khóa luận tốt nghiệp
Chính phủ có thể yêu cầu DN chỉ được vay vốn từ một nguồn nào đó, hoặc
phải đầu tư cho phù hợp với kế hoạch quốc gia.
Sở hữu Nhà nước hàm nghĩa là sở hữu của các công dân, cũng đồng
nghĩa là vô chủ, không có cá nhân nào thấy sự giám sát theo dõi là cần thiết.
Tuy nhiên, sự sở hữu này cũng có mặt tích cực của nó, vì Chính phủ có xu
hướng sở hữu các nguồn vốn lớn, dễ huy động các nguồn vốn trong các hoạt
động phát triển hay kinh doanh của các DNNN.
1.1.2.2. Các cơ chế kích thích trong DNNN
Các cơ chế kích thích trong khu vực tư nhân rất rõ ràng và dường như rất
đơn giản, vì khu vực tư nhân hoạt động vì lợi nhuận, trong khi đó, với
DNNN, việc đánh giá những hoạt động của người quản lý gặp khá nhiều khó
khăn. Một DNNN phải thực hiện nhiều mục tiêu, đôi khi mâu thuẫn nhau,
như việc phải đạt lợi nhuận lớn nhưng vẫn đảm bảo số lượng việc làm cao cho
người lao động. Điều này rất khó thực hiện vì với một DN chỉ cần một số
lượng lao động nhất định có tay nghề cao mang lại lợi nhuận nhiều hơn so với
nhiều lao động nhưng không có trình độ, vì vậy, việc giảm biên chế là cần

thiết, nhưng như vậy lại không đảm bảo được số lượng việc làm cao. Khu vực
DNNN gặp khó khăn trong việc đề ra một phương án thích hợp động viên
người quản lý, sa thải nếu làm việc không hiệu quả là một việc rất ít làm vì
chế độ biên chế nhà nước hoàn toàn khác với chế độ hợp đồng của khu vực tư
nhân. Các khoản lương, đãi ngộ nếu quá cao cũng sẽ bị phản đối bởi các
người lao động khác trong DN. Do vậy, người quản lý hoàn toàn có thể tuân
theo những động cơ có lợi khác, ưu tiên cho những người mang lại cho họ
phần thưởng về uy tín và quyền lực chính trị trong tương lai hơn là thu hút
những người có năng lực thực sự làm giàu cho DN. Đây cũng là một khó
khăn lớn trong quản lý DNNN.
1.1.2.3. Chế độ trách nhiệm trong DNNN
5
Khóa luận tốt nghiệp
Việc đại diện cho chủ sở hữu, cho Nhà nước trong các DNNN phức tạp
và nhiều tầng cấp. Các Bộ, UBND tỉnh, Hội đồng quản trị tổng công ty Nhà
nước hay công ty Nhà nước được coi là đại diện của chủ sở hữu. Tuy nhiên
các cơ quan này không phải là đại diện theo đúng nghĩa, chỉ có một số cá
nhân cụ thể của những cơ quan này thực hiện chức năng đại diện. Vì vậy, sự
phân quyền trách nhiệm là đa cấp, không xác định rõ nội dung mối quan hệ
đại diện phát sinh giữa chủ sở hữu Nhà nước với cơ quan đại diện cho chủ sở
hữu và đại diện của cơ quan đại diện. Điều này gây khó khăn rất lớn cho việc
ra một quyết định vì phải lấy ý kiến của rất nhiều cấp có liên quan, là lý giải
cho sự chậm trễ của các quyết định cũng như việc phát sinh cái gọi là “lỗi của
tập thể”.
1.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
1.2.1. Khái niệm về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
- CPH DNNN là việc chuyển DN mà chủ sở hữu là Nhà nước (DN đơn
sở hữu) thành CTCP (DN đa sở hữu), chuyển DN từ chỗ hoạt động theo Luật
DNNN sang DN hoạt động theo các quy định về CTCP trong Luật DN. Điều
1 thông tư 50 TC/TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ tài chính ghi rõ: DNNN

chuyển thành CTCP (hay còn gọi là CPH DNNN) là một biện pháp chuyển
DN từ sở hữu nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn
tại một phần sở hữu nhà nước.
Như vậy, xét về hình thức, nhà nước sẽ bán một phần hay toàn bộ cổ
phần cho các cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế. Những người
mua cổ phần sẽ trở thành cổ đông của CTCP, có quyền và trách nhiệm tương
ứng với phần vốn góp. Xét về bản chất, CPH chính là phương thức thực hiện
xã hội hóa sở hữu, chuyển hóa quyền sở hữu (từ đơn sở hữu sang đa sở hữu)
và do đó, sự thay đổi cả quyền quản lý và sử dụng, tạo nên sự gắn kết chặt chẽ
giữa các quyền liên quan đến vốn và tài sản của DN. Đến lượt mình, điều đó
6
Khóa luận tốt nghiệp
lại là điều kiện thiết yếu để đảm bảo quyền làm chủ thực sự của những người
góp vốn. Bên cạnh đó, CPH còn là sự thay đổi căn bản về quy chế hoạt động
của DN. Từ chỗ DN bị chi phối toàn diện của Nhà nước, sang quyền tự chủ
kinh doanh được mở rộng và tính tự chịu trách nhiệm được đề cao.
- Quan niệm về CTCP được nêu rõ trong Luật công ty, nằm trong Luật
DN, được ban hành năm 2005, cụ thể: CTCP là loại hình DN có tư cách pháp
nhân, trong đó:
* Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
* Cổ đông (người sở hữu cổ phần) chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn đã góp của mình.
* Cổ đông có cổ phiếu phổ thông được tự do chuyển nhượng cổ phần của
mình cho người khác.
* Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, thường không có sự hạn chế mức
tối đa, mà chỉ có sự hạn chế số lượng tối thiểu.
Trong thực tế, có nhiều cách thức khác nhau để hình thành CTCP, tuy
nhiên có hai cách thức chủ yếu sau:
* Một số người có ý tưởng và khả năng kinh doanh khởi xướng và kêu
gọi mọi người góp vốn đăng kí thành lập CTCP. Những người đó gọi là cổ

đông sáng lập và họ có những quyền lợi đặc biệt trong một thời hạn nhất định
theo quy định của pháp luật.
* Chuyển loại hình tổ chức kinh doanh không phải CTCP thành CTCP.
Việc chuyển hóa các loại hình DN không phải CTCP sang hoạt động theo quy
chế của CTCP gọi là CPH. Đây là hiện tượng tự nhiên của nền kinh tế thị
trường, các nhà kinh doanh có quyền tự do lựa chọn loại hình tổ chức kinh
doanh trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
1.2.2. Các chủ trương, chính sách về CPH DNNN
7
Khóa luận tốt nghiệp
Đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Việc sắp xếp các DNNN được thực hiện
bằng các giải pháp: sáp nhập, CPH, giao, bán, khoán, cho thuê DN, tổ chức
lại các tổng công ty và thành lập các tập đoàn kinh tế. Trong tất cả các giải
pháp trên thì CPH được coi là một giải pháp quan trọng, chủ yếu để cơ cấu
lại, đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Chủ
trương CPH đã được bắt đầu từ năm 1991, với tinh thần Nghị quyết Hội nghị
TW Đảng lần 2 khóa VII (11-1991): “Chuyển một số DN quốc doanh có điều
kiện thành CTCP và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải
làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng
phạm vi thích hợp”.
- Thời kì thí điểm (1992-1996): Ngày 8-6-1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng ban hành Chỉ thị số 202/CT về thí điểm chuyển một số DNNN thành
CTCP. Văn bản của Hội Đồng Bộ Trưởng quy định chuyển một số DNNN
đáp ứng các điều kiện: quy mô vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi hoặc triển vọng
có lãi, Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sang hoạt động dưới hình thức
CTCP. Đối tượng được ưu tiên mua cổ phần là người lao động trong DN,
DNNN khác, hạn chế bán cổ phần cho tư nhân hoặc cho tư nhân trong nước
và ngoài nước.
Tuy nhiên, đối tượng được mua cổ phần đã được mở rộng theo tinh thần

Nghị quyết Bộ Chính trị (số 10/NQ-TW ngày 17-3-1995), đưa ra phương
châm tiến hành CPH: Thực hiện từng bước vững chắc CPH một bộ phận DN
mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Tùy tính chất, loại hình DN mà
tiến hành bán một tỷ lệ cổ phần cho cho công nhân viên chức làm việc tại DN
và bán cổ phần cho các tổ chức hay cá nhân ngoài DN. Như vậy, trong thời
gian đó, quan điểm CPH đã thay đổi trong việc xác định đối tượng mua cổ
phần, đó là một sự tiến bộ lớn nhằm huy động vốn tốt hơn.
8
Khóa luận tốt nghiệp
- Thời kì triển khai CPH (1997-2001): Sau khi tổng kết công tác thí điểm
CPH, Chính phủ ban hành Nghị định NĐ28/CP (7-1996) về CPH DNNN
nhằm chuẩn hóa quy trình CPH DNNN. Mặc dù chính sách CPH do Nghị
định NĐ 28/CP đưa ra đã bước đầu đưa quá trình CPH DNNN vào quy củ
nhưng do các DN và các cơ quan chủ quản còn được quyền quyết định có
hoặc không đăng kí và thực thi CPH nên vẫn tồn tại tình trạng đăng kí thì
nhiều nhưng trong quá trình thực hiện lại xin rút.
Ngày 21-4-1998 Thủ tướng chính phủ ban hành chỉ thị CT20/TTg về đẩy
mạnh sắp xếp lại DNNN theo tiêu chuẩn phân loại đã được định chuẩn. Chính
phủ ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP (29-6-1998) về CPH thay thế Nghị
định NĐ28/CP với nhiều ưu đãi DN CPH và người lao động hơn, như: chi phí
CPH trừ vào vốn nhà nước, loại bỏ nợ và tài sản không thuộc trách nhiệm
quản lý sử dụng khỏi giá trị DN, đơn giản thủ tục kiểm toán.
- Thời kì đẩy mạnh CPH hiện nay (2002 đến nay) : Ngày 19-6-2002 Chính
phủ ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP, thay thế Nghị định 44/1998/NĐ-
CP, xác định rõ hơn mục tiêu CPH, mở rộng hơn phạm vi DNNN CPH, quy
định cụ thể hơn các vấn đề liên quan đến CPH như vấn đề xử lý tài chính và
xác định giá trị DN trước khi CPH, mở rộng quyền được mua cổ phần lần đầu
tại các DN CPH… Tuy nhiên quy định tại Nghị định này còn nhiều bất cập,
việc xác định giá trị DN chưa phản ánh hết thực chất giá trị DN, cơ cấu bán
cổ phần lần đầu do có cổ phần ưu đãi, không còn cổ phần bán ra ngoài nên

dẫn đến bán cổ phần khép kín trong nội bộ DN.
Thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành TW Đảng khóa
IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN.
Chính phủ ban hành Quyết định số 155/2004/QĐ-TTg (24/8/2004) ban hành
tiêu chí, danh mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch
toán độc lập thuộc Tổng công ty nhà nước. Quy định thu hẹp hơn những
9
Khóa luận tốt nghiệp
ngành, lĩnh vực Nhà nước nắm giữ 100% vốn, nắm giữ cổ phần chi phối trên
50%, quy định những công ty cần tiến hành đa dạng hóa sở hữu dưới các hình
thức CPH, quy định các điều kiện tồn tại đối với tổng công ty nhà nước và
những tổng công ty nhà nước không đáp ứng đủ các điều kiện sẽ được sắp
xếp lại theo hướng sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể sau khi sắp xếp lại các
công ty thành viên.
Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ bổ sung
đối tượng CPH là các công ty nhà nước có quy mô lớn, kể cả các tổng công ty
Nhà nước, đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những bất cập trong cơ chế
CPH DNNN trước đây, đồng thời cũng bổ sung hướng giải quyết, tháo gỡ
vướng mắc cho các DN sau khi chuyển thành CTCP. Quy định rõ đối tượng
và điều kiện CPH, bổ sung các giải pháp xử lý các tồn tại về tài chính cho các
DNNN trước khi CPH, hoàn thiện cơ chế định giá và bán cổ phần theo hướng
gắn với thị trường và đảm bảo tính khách quan, minh bạch.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới
DNNN của các Bộ, ngành, Tổng công ty 91. Chỉ thị số 04/2005/CT-TTg ngày
17/3/2005 của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW, thực hiện
nghiêm Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty Nhà nước thành
CTCP, đảm bảo nguyên tắc thị trường trong CPH DNNN, thực hiện xác định
giá trị DN thông qua các tổ chức có chức năng định giá, không CPH khép kín
trong các DN, thực hiện bán đấu giá cổ phần công khai.

Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định 109/2007/NĐ-CP về việc
chuyển DN 100% vốn nhà nước thành CTCP và Quyết định 38/2007/NĐ-CP
về việc phân loại DN 100% vốn nhà nước nhằm sửa đổi những bất cập trong
các Nghị định trước. Trong Nghị định 109 có quy định rất cụ thể về vấn đề
xác định giá trị quyền sử dụng đất cũng như quy định bán cổ phần lần đầu và
10
Khóa luận tốt nghiệp
quản lý, sử dụng tiền thu từ CPH. Quyết định 38 đã đưa ra các tiêu chí mới cụ
thể, các lĩnh vực mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và những lĩnh vực
mà Nhà nước nắm trên 50% cổ phần.
2. Nội dung cơ bản của cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Đã có hàng loạt các văn bản được ban hành nhằm hướng dẫn các vấn đề
cụ thể trong quá trình CPH thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên, phần này xin
được trình bày mục tiêu, đối tượng, quy trình CPH theo văn bản hiện hành.
2.1. Mục tiêu, yêu cầu của việc cổ phần hóa
Mục tiêu CPH đã được khẳng định trong Nghị định số 64/2002/NĐ-CP
(19/6/2002) như sau:
- Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của DN, tạo ra
loại hình DN có nhiều chủ sở hữu, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý
năng động cho DN để sử dụng hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và DN.
- Huy động vốn của toàn xã hội (cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội trong
và ngoài nước) để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển DN.
- Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, các cổ đông, tăng
cường sự giám sát của các nhà đầu tư, đảm bảo hài hòa lợi ích Nhà nước, DN,
nhà đầu tư, người lao động.
Tiếp đến Nghị định số 109/2007/NĐ-CP của Chính phủ (26/6/2007)
khẳng định lại việc chuyển DN 100% vốn Nhà nước thành CTCP nhằm các
mục tiêu sau đây:
- Huy động vốn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước để nâng cao năng
lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng

cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, DN, nhà đầu tư và người lao
động trong DN.
11
Khóa luận tốt nghiệp
- Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường, khắc
phục tình trạng CPH khép kín trong nội bộ DN, gắn với phát triển thị
trường vốn và thị trường chứng khoán.
12
Khóa luận tốt nghiệp
2.2. Đối tượng cổ phần hóa
Ở nước ta, CPH được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới, sắp xếp
DNNN. Theo quyết định số 58/2002 của Thủ tướng Chính phủ (26/4/2002),
DNNN được phân loại như sau:
- DN có số vốn điều lệ Nhà nước nắm giữ là 100%
- DN Nhà nước nắm giữ cổ phần khi CPH
- DN Nhà nước không nắm giữ cổ phần khi CPH
Như vậy, các DNNN CPH chỉ cần thỏa mãn một điều kiện là DN không
thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Đối tượng áp dụng CPH (theo Nghị định 64/2002 của Chính phủ) là các
DN và đơn vị phụ thuộc của các DN quy định tại điều 1 của Luật DN không
phụ thuộc vào thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh của DN.
Tiếp theo, tại Nghị định 109/2007 đã ghi rõ đối tượng thực hiện CPH là:
- Công ty Nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương.
- Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước.
- Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ- công ty con.
- Công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty do Nhà
nước quyết định đầu tư và thành lập.
- Đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty Nhà nước độc lập, tập đoàn,
tổng công ty nhà nước, công ty mẹ, công ty thành viên hạch toán độc

lập của tổng công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều
lệ.
2.3. Điều kiện cổ phần hóa
Quy định của Nhà nước về điều kiện CPH khá rõ ràng với những yêu cầu
đặt ra cho DN Nhà nước tiến hành CPH cụ thể như sau:
13
Khóa luận tốt nghiệp
- Đối với các công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước
thực hiện CPH khi đảm bảo đủ hai điều kiện:
• Không thuộc diện nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
• Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại giá
trị DN.
- Đối với đơn vị hạch toán phụ thuộc, ngoài điều kiện trên còn phải
đảm bảo:
• Có đủ điều kiện hoạch toán độc lập.
• Việc CPH đơn vị hạch toán phụ thuộc không gây khó khăn hoặc ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN hoặc các bộ phận
còn lại của DN.
- Nếu DN sau khi đã được xử lý tài chính mà giá trị thực tế của DN thấp
hơn các khoản phải trả thì chuyển sang thực hiện bán hoặc giải thể, phá sản.
2.4. Hình thức cổ phần hóa
Tùy theo điều kiện cụ thể, DNNN có thể lựa chọn một trong các hình
thức CPH sau:
- Giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại DN, phát hành thêm cổ phiếu
để tăng vốn điều lệ.
- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại DN hoặc kết hợp vừa bán bớt
một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn
điều lệ.
- Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại các DN hoặc kết hợp vừa bán

toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều
lệ.
2.5. Xử lý tài chính khi cổ phần hóa
Đây là vấn đề quan trọng cũng như phức tạp nhất trong quá trình tiến
hành CPH DNNN ở nước ta. Vì vậy, những quy định về vấn đề này có lẽ
14
Khóa luận tốt nghiệp
được xem xét nhiều nhất. Các quy định về tài chính được thay đổi phù hợp
với các vấn đề bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện những nghị định
trước. Nghị định 109/2007/NĐ-CP quy định rõ:
2.5.1. Kiểm kê, phân loại tài sản và xử lý tồn tại về tài chính
- DN CPH có trách nhiệm thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng
năm theo chế độ Nhà nước quy định. Nếu thời điểm xác định giá trị DN
không trùng với thời điểm kết thúc năm tài chính, DN cổ phần có trách nhiệm
lập báo cáo tài chính tại thời điểm xác định giá trị DN.
- Trên cơ sỏ kết quả kiểm kê, kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm, DN
CPH có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan chủ động xủ lý theo
thẩm quyền và theo quy định của pháp luật những tồn tại về tài chính trước
khi xác định giá trị DN CPH.
2.5.2. Các khoản nợ phải thu
- DN CPH có trách nhiệm đối chiếu, thu hồi các khoản nợ phải thu đến
hạn trước khi CPH. Đến thời điểm xác định giá trị DN còn tồn đọng nợ phải
thu khó đòi thì xử lý theo quy định hiện hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn
đọng.
- DN CPH có trách nhiệm bàn giao các khoản công nợ không có khả
năng thu hồi đã loại khỏi giá trị DN CPH cho các cơ quan có thẩm quyền liên
quan.
- Đối với các khoản đã trả trước cho người cung cấp hàng hóa dịch vụ
như: tiền thuê nhà, thuê đất, mua hàng, tiền công phải đối chiếu với hợp đồng
để tính vào giá trị DN CPH.

2.5.3. Các khoản nợ phải trả
- Nợ phải trả các tổ chức, cá nhân:
15
Khóa luận tốt nghiệp
DN CPH phải huy động các nguồn vốn hợp pháp để thanh toán các
khoản nợ đến hạn phải trả trước khi CPH hoặc thỏa thuận với các chủ nợ để
xử lý hoặc chuyển thành vốn góp cổ phần.
Việc chuyển nợ đến hạn phải trả tại thời điểm xác định giá trị DN thành
vốn góp cổ phần được thực hiện theo kết quả đấu giá thành công của chủ nợ.
- Nợ thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước: DN CPH có trách
nhiệm nộp thuế và các khoản nợ ngân sách nhà nước trước khi chuyển đổi,
trường hợp DN CPH chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì CTCP có trách
nhiệm thừa kế toàn bộ.
- Trong quá trình CPH, nếu DN CPH có khó khăn về khả năng thanh
toán các khoản nọ quá hạn do kinh doanh thua lỗ thì xử lý theo quy định hiện
hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn đọng.
2.5.4. Xử lý tài chính ở thời điểm DN chính thức chuyển thành CTCP
- Căn cứ vào giá trị DN CPH đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định,
DN có trách nhiệm điều chỉnh số liệu trong sổ kế toán; lập báo cáo tài chính
DN giai đoạn từ thời điểm xác định giá trị DN đến thời điểm DN chính thức
chuyển thành CTCP.
- Trong thời gian một tháng từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh lần đầu, DN CPH phải hoàn thành việc lập báo cáo tài chính tại
thời điểm đăng ký kinh doanh, xác định giá trị phần vốn Nhà nước tại thời
điểm chính thức chuyển thành CTCP và các tồn tại về tài chính cần tiếp tục
xử lý.
2.6. Xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa
2.6.1. Xác định giá trị DN theo phương pháp tài sản
Giá trị thực tế của DN CPH là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của DN tại
thời điểm CPH có tính đến khả năng sinh lời của DN mà người mua, người

bán cổ phần đều chấp nhận được.
16
Khóa luận tốt nghiệp
- Khi CPH toàn bộ tập đoàn, tổng công ty nhà nước thì giá trị vốn nhà
nước là giá trị thực tế vốn nhà nước được xác định tại tập đoàn, tổng công ty
nhà nước.Trường hợp CPH công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ- công ty con
thì giá trị vốn nhà nước là giá trị thực tế vốn Nhà nước tại công ty mẹ. Đối
với các tổ chức tín dụng, tài chính, khi xác định giá trị DN theo phương pháp
tài sản được sử dụng kết quả kiểm toán báo cáo tài chính để xác định tài sản
vốn bằng tiền, các khoản công nợ nhưng phải thực hiện kiểm kê, đánh giá đối
với tài sản cố định, các khoản đầu tư dài hạn và giá trị quyền sử dụng đất theo
chế độ Nhà nước quy định.
- Riêng các khoản sau đây không được tính vào giá trị DN để CPH: các
khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi; chi phí xây dựng cơ bản dở
dang của những công trình đã có quyết định hoãn của cấp có thẩm quyền
trước thời điểm xác định giá trị DN..
- Các căn cứ để xác định giá trị thực tế của DN gồm: số liệu theo sổ kế
toán của DN tại thời điểm xác định giá trị DN; tài liệu kiểm kê, phân loại và
đánh giá chất lượng tài sản của DN tại thời điểm xác định giá trị DN; giá trị
thị trường của tài sản tại thời điểm tổ chức định giá; giá trị quyền sử dụng đất
được giao, được thuê và giá trị lợi thế kinh doanh của DN.
Trong các căn cứ trên, vấn đề tính giá trị quyền sử dụng đất là vấn đề
được nêu ra cụ thể nhất.
- Đối với diện tích đất DN CPH đang sử dụng làm mặt bằng xây dựng trụ
sở, văn phòng giao dịch, xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh…thì DN CPH
có trách nhiệm xây dựng phương án sử dụng đất trình cơ quan có thẩm quyền
xem xét, quyết định. Nếu DN được giao đất thì phải tính giá trị quyền sử dụng
đất vào giá trị DN theo giá đất đã được UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW
quy định và công bố. Trong trường hợp DN lựa chọn hình thức thuê đất, nếu
DN trả tiền thuế đất hàng năm thì không tính tiền thuê đất vào giá trị DN, nếu

17
Khóa luận tốt nghiệp
DN trả tiền thuê đất một lần cho toàn bộ thời gian thuê thì tính tiền thuê đất
vào giá trị DN theo giá sát với giá thị trường tại thời điểm định giá.
2.6.2. Xác định giá trị DN theo phương pháp dòng tiền chiết khấu
Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại DN được xác định theo phương
pháp dòng tiền chiết khấu dựa trên khả năng sinh lời của DN trong tương lai.
Giá trị thực tế của DN bao gồm giá trị thực tế phần vốn Nhà nước, nợ phải
trả, số dư bằng tiền Quỹ khen thưởng, Qũy phúc lợi và số dư kinh phí sự
nghiệp nếu có. Ngoài ra, trường hợp DN lựa chọn hình thức thuê đất trả tiền
một lần hoặc giao đất thì phải bổ sung giá trị quyền sử dụng đất, tiền thuê đất
vào giá trị DN.
Phương pháp dòng tiền chiết khấu xác định giá trị DN theo các báo cáo
tài chính của DN trong 5 năm liền kề, trước thời điểm xác định giá trị DN;
phương án hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN trong 3 đến 5 năm sau khi
chuyển thành CTCP cùng với lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm ở
thời điểm gần nhất, trước thời điểm tổ chức thực hiện xác định giá trị DN và
hệ số chiết khấu dòng tiền của DN được định giá.
2.7. Quy trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Theo công văn số 11712/TC/TCDN ngày 10/11/2003 và Thông tư
146/2007/TT-BTC (12/2004) của Bộ Tài chính, quy trình CPH bao gồm các
công việc sau :
Bước 1: Xây dựng phương án CPH
1. Thành lập Ban chỉ đạo CPH và tổ giúp việc.
2. Chuẩn bị hồ sơ tài liệu
3. Kiểm kê, xử lý những vấn đề tài chính và tổ chức xác định giá trị DN
4. Hoàn tất phương án CPH
Bước 1: Lập phương án CPH với các nội dung chính như sau:
18
Khóa luận tốt nghiệp

* Giới thiệu khái quát về công ty, tình hình, kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty trong 3-5 năm liền trước khi CPH.
* Đánh giá thực trạng về tài sản, tài chính, công nợ, lao động của công ty
tại thời điểm xác định giá trị DN.
* Phương án sắp xếp lại lao động.
* Phương án hoạt động sản xuất kinh doanh trong 3-5 năm tiếp theo.
* Hình thức CPH và vốn điều lệ theo yêu cầu hoạt động sản xuất kinh
doanh của CTCP.
* Dự kiến cơ cấu vốn điều lệ: số cổ phần nhà nước nắm giữ, số cổ phần
bán ưu đãi cho các nhà đầu tư chiến lược, số cổ phần ưu đãi cho người lao
động.
* Phương thức phát hành cổ phiếu theo quy định
- Tổ chức hội nghị công nhân viên chức lấy ý kiến hoàn thiện phương án
cổ phần.
- Ban chỉ đạo thẩm định phương án CPH báo cáo cơ quan quyết định
CPH quy định.
- Cơ quan quyết định CPH xem xét ra quyết định phê duyệt phương án
CPH trong thời gian không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo
cáo của Ban chỉ đạo.
Bước 2: Tổ chức bán cổ phần
1. Ban chỉ đạo CPH lựa chọn phương thức bán cổ phần theo quy định.
2. Tổ chức bán cổ phần, DN có thể lựa chọn một trong các hình thức
sau: bán đấu giá trực tiếp tại DN, bán cổ phần tại tổ chức tài chính
trung gian, bán cổ phần tại trung tâm giao dịch chứng khoán.
3. Tổng hợp kết quả bán cổ phần cho cơ quan quyết định CPH.
Bước 3: Hoàn tất việc chuyển DN thành CTCP
19
Khóa luận tốt nghiệp
1. Tổ chức đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất thông qua Điều lệ tổ chức
và hoạt động, phương án sản xuất kinh doanh, bầu HĐQT.

2. Căn cứ kết quả Đại hội đồng cổ đông, HĐQT CTCP thực hiện đăng
kí kinh doanh.
3. Lập báo cáo tài chính tại thời điểm CTCP được cấp giấy chứng nhận
kinh doanh, thực hiện quyết toán thuế, quyết toán chi phí CPH, nộp
tiền thu từ CPH về công ty, tổng công ty hoặc Quỹ hỗ trợ sắp xếp DN
tại Bộ tài chính.
4. CTCP mua hoặc in tờ cổ phiếu cấp cho các cổ đông theo quy định
hiện hành.
5. Tổ chức ra mắt CTCP.
3. Sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà
nước
3.1. Thực trạng yếu kém của các doanh nghiệp Nhà nước
3.1.1. Vai trò và những mặt tích cực của DNNN
Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới đều coi sự tồn tại và phát triển
của DNNN nói riêng và DN nói chung là tất yếu vì DNNN có những vai trò
tích cực sau đây:
- DNNN có vị trí rất quan trọng, góp phần để kinh tế nhà nước thực hiện
được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là động lực thúc đẩy phân bố
lại dân cư theo hướng công nghiệp hóa, hình thành các trung tâm kinh tế, văn
hóa, đô thị mới, trang bị lại kĩ thuật, đổi mới công nghệ cho toàn bộ nền kinh
tế quốc dân, đào tạo bồi dưỡng cán bộ kĩ thuật, công nhân lành nghề và tạo
thêm điều kiện phát triển hạ tầng.
- DNNN là công cụ vật chất để Nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN. DNNN đã và đang chiếm vị trí quan
trọng trong nhiều ngành kinh tế chủ chốt, bảo đảm các điều kiện cơ sở hạ
20
Khóa luận tốt nghiệp
tầng, dịch vụ xã hội ngày một tốt hơn; cung ứng các hàng hóa, vật tư, năng
lượng chủ yếu cho sản xuất và đời sống. DNNN giữ vai trò quyết định trong
việc cung cấp những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân, như điện,

sắt thép, xi măng, phân bón, xăng dầu, giấy viết… là lực lượng chủ lực thực
hiện các chính sách xã hội thông qua các DN công ích. Nhờ có DNNN và lực
lượng vũ trang, chúng ta có khả năng ứng phó đặc biệt có kết quả trong việc
khắc phục ảnh hưởng và hậu quả thiên tai.
Sự phát triển của DNNN trong các ngành hạ tầng như giao thông, năng
lượng, bưu chính viễn thông, dịch vụ… đã tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế khác phát triển.
Mặc dù đã giảm mạnh về số lượng DN và phần tài trợ của Nhà nước,
DNNN vẫn đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm hầu hết yêu cầu sản
phẩm và dịch vụ công ích, các điều kiện giao thông, điện, nước, thông tin, vật
tư, hàng hóa cho xuất khẩu và thị trường trong nước, đóng góp cho ngân sách
Nhà nước.
Ngoài ra, DNNN còn đang đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện
các chính sách xã hội và ổn định chính trị- xã hội, định hướng công bằng, văn
minh, góp phần cùng với khu vực kinh tế khác giải quyết các vấn đề việc làm,
thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, phát triển văn hóa giáo
dục, y tế.
- DNNN là khu vực kinh tế có đóng góp tích cực trong hoạt động xuất
nhập khẩu. DNNN là đầu mối xuất khẩu hầu hết các mặt hàng quan trọng như
dầu thô, than, gạo, hàng may mặc… Đồng thời, DNNN cũng tạo trên 98%
tổng số dự án liên doanh với nước ngoài, với tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập
khẩu bình quân hàng năm là 20%, đã góp phần tạo ra nguồn thu đáng kể cho
khu vực này. Cũng nhờ vậy, khu vực DNNN chiếm vị trí khá quan trọng
trong các nguồn thu của ngân sách nhà nước, các khoản tài trợ trực tiếp và
21
Khóa luận tốt nghiệp
gián tiếp từ ngân sách cho các DNNN đã giảm làm cho phần đóng góp thực
của DNNN vào ngân sách tăng lên.
- Tổng công ty nhà nước thể hiện vai trò nòng cốt, chủ lực trong nền kinh
tế, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, duy trì tỷ lệ tăng trưởng tương

đối cao, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách, ổn định việc làm cho người lao
động, nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên và tích cực tham gia các
chính sách xã hội, huy động nguồn lực nội bộ trong toàn tổng công ty kết hợp
với các nguồn vốn khác để điều hòa thực hiện các chương trình đầu tư chiều
sâu, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh, khai
thác thị trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước.
3.1.2. Những yếu kém, tồn tại của DNNN
Bên cạnh những tiến bộ và vai trò tích cực của DNNN như đã nêu ở trên,
những năm qua DNNN trong quá trình hoạt động còn bộc lộ nhiều yếu kém,
đó là:
- Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất chưa cao và đang
giảm dần. Tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN giảm liên tục từ 8-9%
năm 1999 xuống còn 3-4% năm 2004. Hiệu quả sử dụng một đồng vốn giảm
dần. Theo đánh giá chung về số DN thực sự có hiệu quả chiếm khoảng 40%,
số DN không có hiệu quả, bị lỗ liên tục chiếm 20%, còn lại là số lượng
DNNN chưa có hiệu quả, nằm trong tình trạng khi lỗ khi lãi. Ngoài ra, công
nợ trong DNNN hiện nay là quá lớn, khả năng thanh toán lại rất thấp. Tỷ lệ
nợ quá hạn hoặc khó đòi chiếm tỷ lệ không nhỏ là một gánh nặng lớn.
Tình trạng tài chính không lành mạnh, phần là do lịch sử để lại, phần
phát sinh mới chưa được xử lý kịp thời và dứt điểm làm cho hạch toán bị méo
mó và DNNN luôn trong tình trạng bị động ứng phó với số lao động không
sắp xếp được và các khoản nợ khó đòi. Tư tưởng bao cấp vẫn còn nặng nề.
Ngoài phần vốn đầu tư ban đầu khi thành lập, hàng năm các DNNN còn được
22
Khóa luận tốt nghiệp
vay trên 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi. Nhiều DNNN khi thiếu vốn cho
sản xuất kinh doanh hoặc mua sắm thiết bị chỉ trông chờ vào nguồn vốn ngân
sách mà không tìm cách huy động các nguồn vốn khác. Có một thực tế là mặc
dù ngân sách luôn thiếu hụt, nhưng Nhà nước vẫn dành một tỷ lệ nhất định
để hỗ trợ cho một số DN nhà nước theo hình thức cấp bổ sung vốn, miễn

giảm thuế, xóa nợ, khoanh nợ, giãn nợ, cho vay vốn tín dụng ưu đãi.. Tuy
nhiên việc hỗ trợ này ở nhiều DN, nhiều địa phương không mang lại hiệu quả
tương ứng, số nộp vào ngân sách Nhà nước ít hơn phần mà Nhà nước đã hỗ
trợ cho DN loại này.
- Thứ hai, lao động thiếu việc làm và dôi dư là một khó khăn lớn, ảnh
hưởng xấu đến quá trình đổi mới và phát triển DNNN. Theo số liệu của Bộ lao
động thương binh và xã hội thì hiện nay số lượng lao động không có việc làm
trong DNNN khoảng 6% nhưng trên thực tế nhiều DNNN có số lao động quá
lớn so với yêu cầu như Tổng công ty than Việt Nam, các nhà máy xi măng địa
phương.. Số lao động không có việc làm ở các địa phương chiếm tỷ lệ cao
hơn, tiếp đến là các Bộ, ngành TW. Bên cạnh đó, phần lớn người lao động
không qua đào tạo hoặc đào tạo rất hạn chế nên đã ảnh hưởng đến năng suất
lao động của DN. Khi chuyển sang cơ chế tự chủ của DN thì Nhà nước chưa
có cơ chế giám sát tuyển dụng lao động, trả công lao động gắn với hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của DN nên việc tuyển dụng lao động ở nhiều
DN còn rất tùy tiện. Ngoài ra, phần lớn DNNN ở nước ta đều hình thành từ cơ
chế quản lý tập trung bao cấp hoặc tiếp quản những cơ sở sản xuất kinh doanh
của chế độ cũ, trong giai đoạn chuyển tiếp sang cơ chế mới không có đủ điều
kiện tối thiểu, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng.
- Thứ ba, DNNN còn nhỏ về quy mô, dàn trải, chồng chéo theo cơ quan
quản lý và ngành nghề. Đến nay trong cả nước có gần 4000 DNNN với số
lượng DN có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ khá cao. Trong lĩnh vực thương
23
Khóa luận tốt nghiệp
mại, du lịch, khách sạn, nhà hàng, số DNNN chiếm hơn 25% tổng số DNNN
nhưng vốn bình quân chưa bằng 50% mức bình quân của cả nước. Nhiều
DNNN cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh
doanh, cấp quản lý và trên cùng một địa bàn tạo ra sự cạnh tranh không đáng
có trong chính khu vực DNNN với nhau. Các DN thuộc cùng một ngành kinh
tế kỹ thuật rất phân tán, manh mún, trực thuộc nhiều cơ quan quản lý khác

nhau. Điển hình là trong các lĩnh vực thương mại, tư vấn, xây dựng. Sự liên
kết, hợp tác giữa các DNNN với nhau và với các DN thuộc thành phần kinh tế
khác còn lỏng lẻo. Sự chồng chéo, trùng lặp về ngành nghề, về sản phẩm
trong một thị trường còn chưa phát triển và sức mua của nhân dân chưa cao
đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đầu tư dàn trải trong khi
nguồn vốn rất hạn hẹp, quan hệ cung cầu luôn không cân đối.
- Thứ tư, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu là cản trở lớn nhất đối với
khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập. Phần lớn các DNNN được trang bị
máy móc thiết bị từ nhiều nước khác nhau: Liên Xô cũ, các nước Đông Âu,
các nước ASEAN.. và thuộc các thế hệ khác nhau. Số máy móc thiết bị có
tuổi trung bình cao nằm hầu hết tại các DNNN. Theo số liệu của Bộ Khoa học
công nghệ và Môi trường qua khảo sát các xí nghiệp thuộc nhiều ngành trên
cả nước thì máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất của nước ta lạc hậu so với
thế giới từ 10 đến 20 năm, mức độ hao mòn hữu hình từ 30-50%. Mặt khác do
hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp nên thời gian khấu hao tài sản cố định kéo
dài bình quân từ 10-12 năm, trong khi đó mức khấu hao bình quân của khu
vực và trên thế giới là 7-8 năm. Hậu quả là khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế và thị trường trong nước của các sản phẩm làm ra thấp, nhiều
mặt hàng tồn tại được là do chính sách bảo hộ của Nhà nước thông qua thuế
nhập khẩu cao. Một số mặt hàng sản xuất trong nước như sắt, thép, phân bón,
xi măng… có mức giá cao hơn giá mặt hàng cùng loại nhập khẩu.
24
Khóa luận tốt nghiệp
3. 2. CPH xuất phát từ yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện
đất nước, trong đó, khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN. Trong các thành phần kinh tế, thành phần kinh tế Nhà nước là
lực lượng kinh tế chủ đạo, vì vậy, vấn đề quan trọng trong đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế chính là vấn đề đổi mới, sắp xếp DNNN.

Đổi mới, sắp xếp DNNN bao gồm cả đổi mới hình thức của các DN và
cách thức quản lý cũng như cơ chế hoạt động. Đổi mới, sắp xếp DNNN gồm
các hình thức chính sau:
- Tiến hành sắp xếp, sáp nhập, giải thể, phá sản DNNN để khu vực
DNNN có cơ cấu hợp lý, quy mô vừa và lớn, có sức cạnh tranh và hoạt động
hiệu quả hơn.
- Tổ chức, củng cố và phát triển tổng công ty nhà nước nhằm tập trung
nguồn lực của nhà nước vào các ngành then chốt mà nhà nước cần nắm giữ.
- CPH một bộ phận DNNN mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn
để huy động thêm vốn, tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
- Thực hiện bán, giao, khoán kinh doanh và cho thuê những DNNN quy
mô nhỏ thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả tài sản của Nhà nước, đảm bảo
việc làm và thu nhập của người lao động.
Mục tiêu và nhiệm vụ của đổi mới, sắp xếp DNNN nhằm:
- Cất giảm số lượng DNNN đang quá lớn và đang chi phối sâu vào mọi
hoạt động của nền kinh tế. Việc duy trì DNNN để thực hiện vai trò điều tiết
trong nền kinh tế thị trường là đòi hỏi cần thiết nhưng phải cần nhận thức
đúng đắn rằng nền kinh tế thị trường chỉ chấp nhận việc duy trì mức độ hợp lý
của hệ thống DNNN để đảm bảo chức năng điều tiết hiệu quả.
25

×