Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Luận văn: Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.57 KB, 59 trang )

Luận văn
Một số giải pháp phòng ngừa
rủi ro trong hoạt động thanh
toán quốc tế tại NHĐT &
PTVN – Chi Nhánh Đông Đô

1


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết

Trong xu thế hội nhập quốc tế về ngân hàng ngày nay, thách thức và thời cơ
ln đan xen lẫn nhau. Để có thể vượt qua các thách thức, khó khăn của q
trình hội nhập, các ngân hàng thương mại đang chủ động từng bước tái cơ cấu,
mở rộng qui mô hoạt động, nâng cao năng lực quản lý điều hành, nâng cao hiệu
quả kinh doanh của mình. Một trong những lĩnh vực kinh doanh mang lại nguồn
thu nhập rất quan trọng cho các ngân hàng thương mại đó chính là hoạt động
thanh tốn quốc tế.
Thanh toán quốc tế là một lĩnh vực gắn liền các hoạt động thương mại quốc
tế song phương và đa phương. Với qui mô và phạm vi rộng lớn, phức tạp, liên
quan đến nhiều chủ thể trong từng quốc gia khác nhau.
Hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng được khẳng định trong hoạt động

kinh tế quốc dân nói chung và trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng. Đặc
biệt trong bối cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt hoạt động kinh tế đối
ngoại lên hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất yếu trong
chiến lược phát triển kinh tế của mình.
Thanh tốn quốc tế là khâu quan trọng trong quá trình mua bán hàng hoá,


dịch vụ giữa các tổ chức, các cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu khơng
có hoạt động thanh tốn quốc tế thì hoạt động kinh tế đối ngoại khó tồn tại và
phát triển được.
Trong điều kiện tiền tệ thường xuyên biến động, khả năng thanh toán của con
nợ rất bấp bênh, rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng mua bán ngày càng nhiều,
vị trí, vai trị của hoạt động thanh tốn quốc tế cũng vì thế mà được khẳng định
hơn. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra giải pháp đồng bộ, hữu hiệu và khả thi nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả cho hoạt động thanh toán quốc tế đã và đang trở
thành vấn đề bức xúc cả về lý luận và thực tiễn không chỉ đối với nhà quản trị
mà còn cả doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.

2


2. Mục đích của chuyên đề
Chuyên đề nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ vấn đề về rủi ro trong các phương
thức thanh toán quốc tế cả về cơ sở lý luận và thực tế, đi sâu phân tích thực trạng
rủi ro trong các phương thức thanh toán quốc tế. Trên cơ sở đó tìm ra những tồn
tại trong hoạt động thanh tốn quốc tế từ đó đưa ra ý kiến đóng góp, đề xuất
những giải pháp hạn chế rủi ro thanh toán quốc tế tại NHĐT & PTVN – Chi
Nhánh Đông Đô.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Chuyên đề chủ yếu đi sâu phân tích thực tế rủi ro trong thanh toán quốc tế tại
NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô những năm gần đây.
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là các vấn đề liên quan tới rủi ro trong
thanh toán quốc tế và đưa ra các giải pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc
tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp tư duy khoa học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử chứng minh cho các luận đề cần giải quyết.

Chuyên đề cũng sử dụng phương pháp phân tích thống kê nhằm chỉ rõ những
chỉ tiêu kinh tế đạt được của ngân hàng.
5. Kết cấu của đề tài
Tên đề tài: “Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh toán
quốc tế tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đơng Đơ”.
Ngồi phần mở đầu, kết luận chun đề được kết cấu gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận liên quan đến rủi ro thanh toán quốc tế ở
ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng về rủi ro trong thanh toán quốc tế tại NHĐT &
PTVN – Chi Nhánh Đông Đô
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị phịng ngừa rủi ro trong thanh
tốn quốc tế.

3


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN RỦI RO TRONG THANH
TOÁN QUỐC TẾ Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

I. HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI ( NHTM )
Thanh toán quốc tế là chức năng ngân hàng quốc tế của ngân hàng thương
mại. Nó được hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển ngoại thương của
một nước và ngân hàng thương mại được nhà nước giao cho độc quyền làm
cơng tác thanh tốn này. Đây là nghiệp vụ địi hỏi trình độ chun mơn, ứng
dụng cơng nghệ ngân hàng, tạo sự hồ hợp hệ thống ngân hàng Việt Nam vào hệ
thống ngân hàng thương mại thế giới, tạo sự an toàn và hiệu quả đối với ngân
hàng thương mại và các doanh nghiệp nhập khẩu.
Thanh tốn quốc tế địi hỏi chun mơn cao: Luật pháp mỗi nước mỗi khác

nhau nên trong thương mại đã có những qui định thống nhất, những thông lệ
quốc tế mà các bên tham gia, kể cả ngân hàng đều phải tuân thủ: UCP 500, URC
522, Incoterms 2000… do Phòng thương mại quốc tế phát hành đều là những
qui định phát luật tuỳ chọn, nhưng khi đã chọn thì buộc phải tn theo. Cán bộ
ngân hàng làm cơng tác thanh tốn quốc tế phải nắm rõ các phương tiện và các
phương thức thanh tốn quốc tế, bởi vì các phương tiện và phương thức này qui
định rất chặt chẽ nội dung từng câu chữ và có hiệu lực quốc tế. Muốn thực hiện
công việc trôi chảy, tránh gây hiểu lầm và thiệt hại đáng tiếc cho ngân hàng đòi
hỏi cán bộ thanh tốn quốc tế phải có chun mơn cao.
Thanh tốn quốc tế tạo môi trường ứng dụng công nghệ ngân hàng: Hệ thống
ngân hàng của mỗi nước dù đã hay đang phát triển đều hết sức quan tâm đến
hoạt động thanh tốn quốc tế. Tiêu chí hoạt động thanh tốn là nhanh chóng, kịp
thời và chính xác. Do đó, các công nghệ tiên tiến của ngành ngân hàng đều được
ứng dụng nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn các tiêu chí nêu trên. Ngân hàng ở

4


các nước đều có mức đầu tư đáng kể vào công nghệ thông tin, viễn thông và xử
lý dữ liệu.
Thanh tốn quốc tế mang tính an tồn cao: Nếu điều kiện về con người và
cơng nghệ được thoả mãn, thì thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ thực sự an
tồn. Các biện pháp an tồn trong thanh tốn ln được chú trọng: mã hố thơng
tin truyền đi, thiết lập mã điện ( test key ), lọc những thông tin gây nhiễu, đối
chiếu số liệu tài khoản thông qua mạng vi tính… đã tạo cho giao dịch thanh tốn
ngày càng an toàn cho các bên tham gia.
Ngân hàng thu dịch vụ phí trong thanh tốn: Khi thực hiện các u cầu của
khách hàng có liên quan đến thanh tốn quốc tế, ngân hàng được quyền thu một
mức phí nhất định. Phí dịch vụ tuy nhỏ nhưng có rất nhiều loại phí, các loại phí
này được thể hiện trong Biểu phí ngân hàng về các dịch vụ đối ngoại. Phí dịch

vụ trong thanh toán quốc tế dựa vào qui luật số đơng nên tổng mức phí thu trong
một kỳ báo cáo là khá lớn.
Làm tăng tính thanh khoản cho Ngân hàng: Trong q trình thực hiện các
phương thức thanh tốn quốc tế cho khách hàng, ngân hàng yêu cầu khách hàng
ký quỹ một khoản tiền tỷ lệ với giá trị mà ngân hàng bảo lãnh sẽ thanh toán.
Nguồn tiền này tương đối ổn định và phát sinh thường xuyên trong việc thực
hiện các Tín dụng thư nhập khẩu cho khách hàng. Ngoài ra, tiền khách hàng nộp
để giải chấp hàng nhập khẩu do ngân hàng quản chấp, kỳ hạn thanh toán nước
ngoài chưa đến cũng là một nguồn tạo thanh khoản cho ngân hàng dưới hình
thức tiền tập trung chờ thanh toán.
Thanh toán quốc tế làm tăng cường quan hệ đối ngoại: Thông qua việc bảo
lãnh cho khách hàng trong nước, thanh tốn cho Ngân hàng nước ngồi, ngân
hàng thực hiện thanh tốn quốc tế sẽ có được những quan hệ đại lý với Ngân
hàng và đối tác nước ngoài. Mối quan hệ này dựa trên cơ sở hợp tác và tương
trợ. Với thời gian hoạt động nghiệp vụ càng lâu, mối quan hệ ngày càng mở
rộng. Đây cũng là hiệu quả do thanh toán quốc tế mang lại.

5


Thanh toán quốc tế liên quan đến quyền lợi của bên mua, bên bán nên được
coi là điều khoản quan trọng trong khi đàm phán ký kết hợp đồng ngoại thương.
Trong hợp đồng phải ghi rõ nội dung điều khoản thanh toán, lựa chọn phương
thức thanh toán, loại tiền thanh tốn… Nếu qui định điều khoản thanh tốn hợp
lý, có thể tránh được rủi ro trong hoạt động xuất nhập khẩu và mang lợi ích to
lớn đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu:
-Thanh tốn quốc tế, ngân hàng đóng vai trị trung gian thanh tốn giúp cho
q trình thanh toán theo yêu cầu khách hàng được tiến hành an tồn, nhanh
chóng, tiện lợi và giảm bớt chi phí thay vì thanh tốn bằng tiền mặt. Ngân hàng
bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong giao dịch thanh toán, đồng thời tư vấn

cho khách hàng, hướng dẫn về kỹ thuật thanh toán quốc tế nhằm giảm rủi ro, tạo
sự yên tâm tin tưởng cho khách hàng trong quan hệ giao dịch mua bán với nước
ngồi. Mặt khác, trong q trình thực hiện thanh tốn quốc tế, khách hàng khơng
đủ khả năng tài chính cần đến sự tài trợ của ngân hàng, ngân hàng cho vay để
thanh toán nhập khẩu, bảo lãnh thanh toán mở L/C, chiết khấu chứng từ xuất
khẩu… đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
-Thực hiện thanh toán quốc tế, ngân hàng có thể giám sát được tình hình kinh
doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tạo điều kiện thực hiện quản lý có
hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu trong nước theo đúng chính sách kinh tế đối
ngoại đề ra.
Trong nghiệp vụ thanh tốn quốc tế có hai vấn đề cốt lõi được lưu tâm nhiều
nhất: đó là “ Phương tiện thanh toán quốc tế " và “ Phương thức thanh toán quốc
tế”.
1.1 Khái niệm về thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát sinh
từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tín dụng và dịch vụ phi mậu dịch, các tổ
chức kinh tế quốc tế, giữa các hãng các cá nhân của các nước khác nhau để kết
thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức
chuyển tiền hay bù trừ trên tài khoản tại các ngân hàng.

6


1.2 Vai trị thanh tốn quốc tế với hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Đối với hoạt động ngân hàng việc hồn thiện và phát triển hoạt động thanh
tốn quốc tế có vị trí và vai trị hết sức quan trọng. Nó khơng chỉ là một dịch vụ
thanh tốn thuần t mà nó được coi là một mặt khơng thể thiếu trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Nó bổ sung và hỗ trợ cho các mặt hoạt động kinh
doanh khác của ngân hàng.
Hoạt động thanh toán của ngân hàng phát triển đáp ứng được đòi hỏi của

khách hàng sẽ là điều kiện tốt để thu hút thêm khách hàng về giao dịch, trên cơ
sở đó mà ngân hàng có thể tăng qui mơ hoạt động của mình.
Nhờ đẩy mạnh hoạt động thanh tốn quốc tế mà ngân hàng có thể mở rộng
hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cũng như tăng cường được nguồn vốn
huy động. Đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ do tạm thời quản lý được nguồn vốn
nhàn rỗi của doanh nghiệp có quan hệ thanh toán quốc tế qua ngân hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho ngân hàng phát triển được các nghiệp
vụ kinh doanh ngoại tệ thu về lớn và đa dạng thơng qua nghiệp vụ thanh tốn
quốc tế.
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế phát triển sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao
được uy tín của mình trên thị trường quốc tế, trên cơ sở đó mà có thể khai thác
được nguồn vốn tài trợ của ngân hàng nước ngoài, nguồn vốn trên thị trường tài
chính thế giới nhằm đáp ứng cao hơn nhu cầu vay vốn của ngân hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp ngân hàng tăng thu nhập và tăng cường
khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường, đồng thời nó giúp
cho hoạt động ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và hồ nhập với hệ
thống ngân hàng thế giới.
Thanh tốn quốc tế trong hoạt động ngân hàng nói riêng, trong hoạt động
kinh tế quốc dân nói chung có một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là một mắt xích
khơng thể thiếu trong dây truyền hoạt động kinh tế, kể từ khi chuẩn bị các bước
cần thiết để sản xuất ra hàng hoá tới khi bán hàng thu tiền về cho nhà xuất khẩu
hay chi tiền ra để nhập hàng và phục vụ sản xuất đời sống công nghiệp sao cho

7


đủ khối lượng, đúng chất lượng, nghiên cứu nội dung các nghiệp thanh toán
quốc tế lựa chọn xử lý yếu tố trong nội dung của nó. Hồn thiện các qui trình
nghiệp vụ kỹ thuật sao cho phù hợp với những đặc điểm tính chất nền kinh tế
của mỗi quốc gia là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.


1.3 Phương tiện thanh toán quốc tế
Tiền mặt là phương tiện thanh toán nhưng trong thanh tốn quốc tế nó lại giữ
vai trị thứ yếu. Phương tiện thanh toán chủ yếu dùng trong thanh toán quốc tế là
séc (cheque, check) và hối phiếu (Bill of exchange, Draft).
1.3.1 Hối phiếu
Hối phiếu là một lệnh đòi tiền vô điều kiện do người bán (người xuất khẩu,
người cung ứng dịch vụ…) ký phát đòi tiền người mua (người nhập khẩu, người
nhận cung ứng) và yêu cầu người này phải trả một lượng tiền nhất định tại một
địa điểm nhất định trong một thời gian xác định được qui định trong hối phiếu
cho người hưởng lợi.
Hối phiếu có 3 đặc điểm:
- Tính trừu tượng: đặc điểm này thể hiện là trên hối phiếu không cần phải
ghi nội dung quan hệ kinh tế, mà chỉ cần phải ghi rõ số tiền phải trả là bao
nhiêu, trả cho ai. Không cần phải nói lên nguyên nhân việc trả tiền trên hối
phiếu.
- Tính bắt buộc trả tiền: Người trả tiền hối phiếu phải trả tiền đầy đủ đúng
theo yêu cầu của tờ hối phiếu. Người trả tiền không được viện lý do của bản
thân đối với người ký phát hối phiếu, trừ trường hợp hối phiếu không phù hợp
với đạo luật chi phối nó.
- Tính lưu thơng: Hối phiếu có thể chuyển nhượng từ người này sang người
khác trong thời hạn của nó, người trả tiền sẽ thanh tốn cho người cầm hối
phiếu, cho dù hợp đồng mua bán có thể khơng thực hiện hồn chỉnh.
1.3.2 Séc

8


Séc là một lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản tiền gửi – ra lệnh cho
ngân hàng trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định để trả cho người

cầm séc, người có tên trong séc hoặc trả theo lệnh của chính người ấy.
Hiện nay, séc là một phương tiện chi trả được dùng hầu như phổ biến trong
giao lưu thanh toán nội địa nước ta, có séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc định
mức, séc chuyển tiền. Trong thanh toán quốc tế, séc cũng được sử dụng rộng rãi
cho thanh toán tiền hàng, cung ứng lao vụ, du lịch và các khoản phí mậu dịch.
Séc khơng bao giờ là cơng cụ tín dụng.
Đặc điểm đáng chú ý của tờ séc là nó có tính chất thời hạn, tức là tờ séc chỉ
có giá trị thanh tốn nếu thời hạn hiệu lực xuất trình của nó chưa hết hạn. Thời
hạn hiệu lực xuất trình của tờ séc được tính kể từ ngày phát hành sec và được
ghi rõ trên tờ séc. Thời hạn của séc thông thường là phụ thuộc vào phạm vi
không gian mà tờ séc lưu hành và pháp luật các nước quy định. Séc lưu hành
trong nội địa có thời hạn ngắn hơn séc lưu hành trong quốc tế.
1.4 Phương thức thanh toán quốc tế
Phương thức thanh tốn quốc tế là tồn bộ quá trình, cách thức nhận trả tiền
hàng trong giao dịch mua bán ngoại thương giữa người nhập khẩu và người xuất
khẩu.
1.4.1 Phương thức chuyển tiền (Remittance transfers)
a/ Định nghĩa
Phương thức chuyển tiền là phương thức trong đó khách hàng (người trả tiền)
yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người khác
(người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định, bằng phương tiện chuyển tiền do
khách hàng yêu cầu.
Các bên tham gia:
-Người trả tiền (người mua, người mắc nợ), hoặc người chuyển tiền (người
đầu tư, kiều bào chuyển tiền về nước, người chuyển kinh phí ra nước ngoài): là
người yêu cầu ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài.

9



- Người hưởng lợi (người bán, chủ nợ, ngừơi tiếp nhận vốn đầu tư) hoặc là
người nào đó do người chuyển tiền chỉ định.
- Ngân hàng chuyển tiền là ngân hàng ở nước người chuyển tiền.
-

Ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền là ngân hàng ở nước người
hưởng lợi.

10


b/ Qui trình thanh tốn
Ngân hàng
chuyển tiền

(3)

Ngân hàng đại


(2)

Người chuyển
tiền

(4)

Người hưởng
lợi


(1)

(1) Giao dịch thương mại
(2) Viết đơn yêu cầu chuyển tiền (bằng thư hoặc bằng điện) cùng với uỷ
nhiệm chi (nếu có tài khoản mở tại ngân hàng)
(3) Chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng đại lý
(4) Ngân hàng chuyển tiền cho người hưởng lợi.
1.4.2 Phương thức ghi sổ (Open Account)
a/ Định nghĩa
Phương thức ghi sổ là một phương thức thanh tốn trong đó, người bán mở
một tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi nợ người mua sau khi đã hoàn thành
việc giao hàng, hay dịch vụ. Đến từng định kỳ nhất định người mua dùng
phương thức chuyển tiền, hoặc phát hành séc… để trả cho người bán.
Đặc điểm của phương thức thanh toán:
- Đây là một phương thức thanh tốn khơng có sự tham gia của ngân hàng
trong từng lần giao hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi
thanh toán.
- Chỉ mở tài khoản đơn biện không mở tài khoản song biên. Nếu người mua
mở tài khoản để ghi thì tài khoản ấy chỉ là tài khoản theo dõi, khơng có giá trị
thanh toán giữa hai bên, trong từng lần thanh toán.

11


b/ Quy trình thanh tốn
(3)
Ngân hàng bên bán

Ngân hàng bên mua


(3)

(3)
(2)

Bên bán

Bên mua

(1)

(1)

Giao hàng, hoặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng hoá.

(2)

Báo nợ trực tiếp.

(3)

Người mua dùng phương thức chuyển tiền hoặc phát hành séc… để trả
tiền người bán khi đến kỳ hạn thanh toán.

1.4.3 Phương thức nhờ thu ( Collection of payment)
a/Định nghĩa:
Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh tốn trong đó, người bán sau
khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, hoặc cung ứng một dịch vụ nào đó cho
khách hàng thì uỷ thác cho ngân hàng của mình, thu hộ số tiền ở người mua trên
cơ sở hối phiếu của người bán lập ra.

Khi vận dụng phương thức này, các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thường
dựa vào “ Bản quy tắc thống nhất về nhờ thu chứng từ thương mại số 522”, sửa
đổi năm 1995, có hiệu lực từ tháng 1/1996 do phòng thương mại quốc tế ấn
hành- The Uniform Rules for collection. ( URC 522, 1995 Revision. In force as
of Jan 1996).
Các bên tham gia phương thức nhờ thu gồm có:
- Người bán tức là người hưởng lợi.
- Ngân hàng bên bán, là ngân hàng nhận sự uỷ thác của người bán.
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng bên bán, là ngân hàng ở nước người mua.
- Người mua, tức là người trả tiền.
b/ Các loại nhờ thu

12


1. Nhờ thu phiếu trơn / Clean collection (còn gọi là uỷ thác thu không kèm
chứng từ, hay nhờ thu hoàn hảo).
2. Nhờ thu kèm chứng từ / Documentary collection (còn gọi là uỷ thác thu
kèm chứng từ).
* Nhờ thu phiếu trơn
Nhờ thu phiếu trơn là phương thức nhờ thu trong đó người bán ủy thác cho
ngân hàng thu hộ tiền ở người mua chỉ căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, cịn
chứng từ hàng hố thì gửi thẳng cho người mua khơng qua ngân hàng.
- Quy trình thanh toán
(3)
Ngân hàng đại lý

NH phục vụ bên bán
(2)


(5)

(5)

(4)

Bên Bán

(5)

Bên mua
(1)

(1) Người bán gửi hàng và chứng từ hàng hoá cho người mua.
(2) Người bán kí hối phiếu địi tiền người mua và uỷ thác cho ngân hàng
nước mình địi tiền hộ mình theo hối phiếu.
(3) Ngân hàng phục vụ bên bán chuyển hối phiếu sang ngân hàng đại lý của
mình ở nước người mua.
(4) Ngân hàng đại lý yêu cầu người mua trả tiền hối phiếu (nếu là hối phiếu
trả tiền ngay), Hoặc chấp nhận hối phiếu (nếu mua chịu).
(5) Ngân hàng đại lý chuyển tiền thu được cho người bán. Nếu chỉ là chấp
nhận hối phiếu thì ngân hàng giữ lại hối phiếu hoặc chuyển trả cho người bán.
Khi đến kỳ hạn thanh tốn, ngân hàng sẽ địi tiền ở người mua và thực hiện việc
chuyển tiền như trên.
* Nhờ thu kèm chứng từ

13


Nhờ thu kèm chứng từ là phương thức nhờ thu trong đó người bán uỷ thác

cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu, mà
cịn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hóa gửi kèm theo với điều kiện là nếu người
mua trả tiền, hoặc chấp nhận hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ hàng
hoá cho người mua để nhận hàng.
Nhờ thu kèm chứng từ có hai loại:
+ Nhờ thu trả tiền trao (đổi) chứng từ – Documentary against payment (D/P).
+ Nhờ thu chấp nhận trả tiền trao (đổi) chứng từ – Documentary against
acceptance (D/A).

- Quy trình thanh tốn
(3)
Ngân hàng đại lý

NH phục vụ bên bán
(2)

(5)

(5)

Bên Bán

(4)

(5)

Bên mua
(1)

Quy trình thanh toán nhờ thu kèm chứng từ cũng giống nhờ thu phiếu trơn

chỉ khác ở một số điểm sau:
- ở bước (1) người bán chỉ gửi hàng hoá cho người mua.
- ở bước (2),(3),(4) ngồi hối phiếu cịn có bộ chứng từ hàng hố đi cùng.
1.4.4 Phương thức tín dụng chứng từ – Documentary credit
Phương thưc tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán được áp dụng
phổ biến nhất hiện nay.
Khi vận dụng phương thức này các nước đều thống nhất áp dụng “Bản điều
lệ và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” do phịng thương mại
quốc tế paris ban hành. Bản hiện nay đang được áp dụng là bản số 500 có tên

14


gọi bằng tiếng Anh là: The Uniforn customs and practice for documentary credit
No 500 (thường gọi tắt là UCP No500)
a/ Định nghĩa
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hàng
(ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của một khách hàng (người đề nghị
mở thư tín dụng), sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng
lợi số tiền của thư tín dụng), hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát
trong phạm vi số tiền đó, khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng
từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.
Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ thơng thường gồm
có:
- Người xin mở thư tín dụng (Applicant): là người mua, người nhập khẩu
hàng hố.
- Ngân hàng mở thư tín dụng (Issuing bank, hoặc Opening bank): là ngân
hàng đại diện cho người nhập khẩu, nó cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu.
Thơng thương, đây là ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu, nhưng trong trường
hợp người bán không tin tưởng ngân hàng này thì có thể là bất kỳ một ngân

hàng nào đó theo yêu cầu của người bán.
- Người hưởng lợi (Benificiry) thư tín dụng: là người bán, người xuất khẩu
hay bất cứ người nào khác chỉ định hưởng lợi.
- Ngân hàng thơng báo (Advising bank) thư tín dụng: là ngân hàng ở nước
người hưởng lợi.

b/ Quy trình thanh tốn
(2)
Ngân hàng mở L/C

(5)

N hàng thông báo L/C

(6)
(1)

(7)
Người nhập khẩu

(8)

(6)
(4)

15

(5)

(3)


Người xuất khẩu


(1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng (Letter of credit- L/C)
gửi tới ngân hàng mở L/C, yêu cầu ngân hàng này mở một L/C cho người Xuất
khẩu hưởng.
(2) Căn cứ vào giấy xin mở L/C, ngân hàng mở L/C sẽ lập một L/C và
chuyển cho ngân hàng thông báo L/C.
(3) Thông báo L/C
Nếu L/C được mở bằng điện thì ngân hàng thơng báo phải chuyển ngun
văn bức điện mở L/C và bản xác báo bằng điện của mình về L/C đó cho người
xuất khẩu. Ngân hàng thông báo không được dịch, hay diễn giải, hay diễn giải
nội dung bức điện L/C. Nếu ngân hàng diễn giải sai nội dung thì ngân hàng sẽ
phải chịu trách nhiệm.
Nếu L/C mở bằng thư thì ngân hàng thơng báo phải chuyển bản chính (bản
gốc) L/C cho người xuất khẩu.
Ngân hàng thơng báo được thu thủ tục phí thơng báo (ai là người trả phí này
cho ngân hàng thơng báo đã được chỉ rõ trong L/C).
(4) Giao hàng
Sau khi nhận được L/C, người xuất khẩu sẽ phải kiểm tra những nội dung đã ghi
trong L/C, đối chiếu với các thoả thuận trong hợp đồng ngoại thương.
(5) Yêu cầu thanh toán của người xuất khẩu
Sau khi đã giao hàng, người xuất khẩu phải hồn trả tất bộ chứng từ thanh
tốn theo u cầu của L/C xuất trình cho ngân hàng mở L/C, thơng qua ngân
hàng thơng báo xin thanh tốn.
(6) Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ thanh toán, nếu thấy phù hợp
với L/C thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu, hoặc chấp nhận hối phiếu
(đối với hối phiếu có kỳ hạn). Nếu thấy khơng phù hợp, ngân hàng từ chối thanh
toán (hoặc từ chối chấp nhận) và gửi trả lại bộ chứng từ cho người xuất khẩu.


16


(7) Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ hàng
hoá cho người nhập khẩu.
(8) Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì
hồn trả tiền cho ngân hàng, nếu khơng phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền
ngân hàng.
II. RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ
1.1 Định nghĩa
Có nhiều cách hiểu rủi ro khác nhau như: rủi ro trong hoạt động kinh tế là
những tổn thất mà các doanh nghiệp phải gánh chịu trong hoạt động kinh doanh
của mình.
Rủi ro là những bất trắc gây ra mất mát thiệt hại hoặc rủi ro là những điều
nằm ngoài ý muốn của con người và gây ra những tổn thất cho con người.
Tóm lại, người ta thường xem xét rủi ro ở hai đặc tính sau:
- Thứ nhất là biên độ rủi ro, đó là sự thiệt hại rủi ro gây ra ở mức độ nào.
- Thứ hai là tần số xuất hiện của rủi ro nhiều hay ít.
1.2 Rủi ro trong thanh toán quốc tế
1.2.1 Rủi ro trong phương thức chuyển tiền
Những rủi ro mà người nhận tiền theo hình thức thanh tốn này có thể gặp:
- Người mua hàng hoặc người được cung cấp dịch vụ không thanh tốn, tức
là khơng có khả năng thanh tốn hay khơng muốn thanh tốn nên khơng thực
hiện việc chuyển tiền sau khi nhận được quyền sở hữu đối với hàng hố.
- Rủi ro từ phía nhà nước của người mua thể hiện ở chỗ tuy người mua có
khả năng và mong muốn thanh toán nhưng quốc gia của người mua đưa ra
những biện pháp điều chỉnh ngoại tệ (hạn chế việc mua ngoại tệ). Tuy nhiên rủi
ro này có thể hạn chế được nếu thường xun có thơng tin về khả năng thanh
tốn của người mua và tình hình pháp lý của nước của người mua buộc phải

thanh toán trước khi giao hàng hay việc giao hàng được chia thành nhiều lần.
Người mua cũng gánh chịu những rủi ro trong trường hợp thanh tốn tiền
hàng trước nhưng khơng nhận được hàng. Như vậy, hình thức chuyển tiền trong

17


thanh toán quốc tế thường được áp dụng khi người trả tiền và người nhận tiền
biết rõ về nhau, tin tưởng nhau.
1.2.2 Rủi ro trong phương thức ghi sổ
Đối với nhà nhập khẩu
- Nếu hoá đơn thanh toán ghi bằng ngoại tệ, nhà nhập khẩu có thể gặp rủi
ro tỷ giá khi ngoại tệ tăng giá. Để tránh rủi ro này, nhà nhập khẩu có thể ký một
hợp đồng mua ngoại tệ kỳ hạn với ngân hàng.
Đối với nhà xuất khẩu
- Sau khi nhận hàng hố, nhà nhập khẩu có thể khơng thanh tốn, hoặc
khơng thể thanh tốn (ví dụ, do biện pháp kiểm soát ngoại hối), hoặc chủ tâm trì
hỗn kéo thời gian thanh tốn. Về lý thuyết, cho dù quyền sở hữu hàng hố có
thể được bảo lưu, nhưng thực tế nhà xuất khẩu khó lịng mà kiểm soát hàng hoá
một khi đã chuyển cho nhà nhập khẩu. Ngồi ra, nhà nhập khẩu có thể dàn dựng
tranh chấp về chất lượng hoặc khiếu nại về sự khiếm khuyết hay thiếu hụt hàng
hoá như là những nguyên cớ để yêu cầu giảm giá. Đứng trước tình hình này, nhà
xuất khẩu chỉ có ba cách lựa chọn: (i) quyết định giảm giá; (ii) tìm đối tác mua
khác; (iii) chở hàng hố quay về nước. Để phịng ngừa rủi ro này, nhà xuất khẩu
phải mua bảo hiểm tín dụng, hoặc yêu cầu nhà nhập khẩu cấp một thư tín dụng
dự phịng.
- Nếu hoá đơn thanh toán ghi bằng ngoại tệ, nhà xuất khẩu có thể gặp rủi ro
tỷ giá khi ngoại tệ giảm giá. Để tránh rủi ro này, nhà xuất khẩu có thể ký một
hợp đồng kỳ hạn với ngân hàng để bán ngoại tệ kỳ hạn.
1.2.3 Rủi ro trong các loại nhờ thu

+ Rủi ro trong phương thức nhờ thu phiếu trơn:
Do việc trả tiền trong phương thức nhờ thu phiếu trơn không căn cứ vào bộ
chứng từ hàng hoá, mà chỉ dựa vào hối phiếu do nhà xuất khẩu ký phát, do đó:
Rủi ro chủ yếu thuộc về nhà xuất khẩu bao gồm:
- Nếu năng lực tài chính của nhà nhập khẩu yếu kém, thì việc thanh tốn sẽ
dây dưa, chậm trễ và tốn kém.

18


- Nếu nhà nhập khẩu chủ tâm lừa đảo, vẫn nhận hàng nhưng từ chối thanh
toán hay từ chối ký chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn.
- Đến hạn thanh toán hối phiếu kỳ hạn, nhưng nhà nhập khẩu khơng thể
thanh tốn hoặc khơng muốn thanh tốn (do tình hình tài chính, tình hình kinh
doanh của nhà nhập khẩu trở nên xấu đi, hay nhà nhập khẩu phát sinh chủ tâm
lừa đảo) thì nhà xuất khẩu có thể kiện ra tồ nhưng tốn kém và khơng phải lúc
nào cũng nhận được tiền.
Rủi ro đối với nhà nhập khẩu:
- Rủi ro có thể phát sinh khi hối phiếu địi tiền đến trước và phải thực hiện
nghĩa vụ thanh toán, trong khi hàng hóa khơng được gửi đi, hoặc đã được gửi đi
nhưng chưa tới, hoặc khi nhận hàng hố có thể là không đảm bảo đúng chất
lượng, chủng loại và số lượng như đã thỏa thuận trong hợp đồng thương mại.
Như vậy, rủi ro đối với nhà xuất khẩu là rất lớn vì giữa việc nhận hàng và
thanh tốn của nhà nhập khẩu khơng có sự ràng buộc với nhau, cho nên nhờ thu
phiếu trơn thường chỉ áp dụng trong những trường hợp nhà xuất khẩu và nhà
nhập khẩu thực sự tin tưởng lẫn nhau, cụ thể là nhà xuất khẩu phải có thiện chí
giao hàng, cịn nhà nhập khẩu thì phải có thiện chí thanh tốn.
+ Rủi ro trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ
Rủi ro đối với nhà xuất khẩu:
- Đối với trường hợp ngân hàng xuất trình, trao bộ chứng từ hàng hố cho

nhà nhập khẩu để đi nhận hàng hoá trước khi nhà nhập khẩu thanh toán hay chấp
nhận thanh toán. Rủi ro sẽ xảy ra đối với nhà xuất khẩu là không thu được tiền
hàng hay bị kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng dễ dẫn đến tình trạng phá sản.
Cịn rủi ro đối với ngân hàng nếu xảy ra tranh chấp thì ngân hàng sẽ mất uy tín
trên trường quốc tế. Trường hợp này có thể xảy ra ở một số quốc gia, khi mà
ngân hàng ưu tiên đặt mối quan hệ với doanh nghiệp trong nước lên trên trách
nhiệm và nghĩa vụ của họ đối với doanh nghiệp bên ngoài lãnh thổ quốc gia.

19


- Ngân hàng chuyển chứng từ sẽ không chịu bất kỳ rủi ro nào nếu ngân
hàng xuất trình có sai sót trong việc thực hiện lệnh nhờ thu, thì rủi ro này đều
do nhà xuất khẩu phải tự chịu.
- Toàn bộ hay một phần chứng từ bị thất lạc.
- Số hàng hóa (mà bộ chứng từ là đại diện) chỉ có thể được chuyển cho (hay
theo lệnh của) ngân hàng xuất trình với sự đồng ý của ngân hàng này từ trước.
Ngồi ra, ngân hàng khơng chịu bất cứ trách nhiệm nào về việc lưu kho, mua
bảo hiểm, giao hàng hay dỡ hàng hoá.
Rủi ro đối với nhà nhập khẩu:
- Cho dù nhà nhập khẩu có cơ hội kiểm tra chứng từ trước khi thanh toán
hay chấp nhận thanh toán, nhưng hàng hố thì có thể đã khơng được kiểm định,
chưa được bảo hiểm đầy đủ, hay không tuân theo các tiêu chuẩn ghi trong hợp
đồng thương mại. Nhà nhập khẩu có thể đứng trước rủi ro khi nhà xuất khẩu lập
bộ chứng từ giả, có sai sót, hay cố tình gian lận thương mại để đi nhận hàng. Các
ngân hàng không chịu trách nhiệm khi chứng từ là giả mạo hay có sai sót, hoặc
hàng hóa hay phương tiện vận tải không khớp với chứng từ.
- Sau khi ký chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn (hay phát hành kỳ
phiếu), nhà nhập khẩu có thể bị nhà xuất khẩu kiện ra tồ nếu khơng thanh tốn
khi hối phiếu đến hạn. Thậm chí nhà nhập khẩu khơng thể dùng các lý do “chính

đáng” để bào chữa cho việc thanh tốn của mình như: nhà xuất khẩu đã khơng
giao hàng, hay giao hàng có sai sót nghiêm trọng… Điều này hàm ý, một nhà
nhập khẩu đã ký chấp nhận thanh tốn hối phiếu kỳ hạn, thì buộc phải thanh
tốn khi hối phiếu đến hạn một cách vô điều kiện, nếu khơng có thể bị ra tồ. Sự
khơng thanh tốn hối phiếu đúng hạn sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến danh
tiếng thương mại của con nợ.
- Nếu hoá đơn thanh toán bằng ngoại tệ, nhà nhập khẩu chịu rủi ro tỷ giá
cho đến khi thanh toán.
Rủi ro đối với ngân hàng chuyển chứng từ:

20


- Nhìn chung, ngân hàng chuyển chứng từ chỉ chịu rủi ro khi đã thanh toán
hay cho nhà xuất khẩu vay trước khi nhận được tiền chuyển đến từ ngân hàng
xuất trình. Nếu khơng nhận được tiền chuyển đến, ngân hàng chuyển chứng từ
phải chịu rủi ro tín dụng từ phía nhà xuất khẩu trong việc hồn trả tiền vay.
Rủi ro đối với ngân hàng xuất trình:
- Nếu ngân hàng xuất trình chuyển tiền cho ngân hàng chuyển chứng từ
trước khi nhà nhập khẩu thanh toán, ngân hàng phải chịu rủi ro nếu như nhà
nhập khẩu không nhận chứng từ và khơng thanh tốn hoặc khơng chấp nhận
thanh tốn.
- Nếu ngân hàng xuất trình cho nhà nhập khẩu vay để thanh tốn, thì có thể
chịu rủi ro tín dụng từ phía nhà nhập khẩu.
- Chịu trách nhiệm kiểm tra chứng từ nhận được xem có đủ và phù hợp với
danh mục liệt kê chứng từ gửi tới, nếu chứng từ khơng đủ hoặc khơng phù hợp
thì phải thơng báo cho ngân hàng chuyển chứng từ để xin chỉ thị hành động.
- Ngân hàng chuyển chứng từ có thể yêu cầu rằng, nếu nhà nhập khẩu
khơng thanh tốn hoặc khơng chấp nhận thanh tốn, thì ngân hàng xuất trình thu
xếp để hàng hoá được lưu kho và được bảo hiểm cho đến khi bán được cho

khách hàng mới hay chuyển quay về nước. Nếu điều này xảy ra thì ngân hàng
xuất trình phải được bù đắp chi phí đầy đủ.
1.2.4 Rủi ro đối với phương thức tín dụng chứng từ
Rủi ro đối với nhà nhập khẩu:
- Việc thanh toán của ngân hàng cho người hưởng thụ chỉ căn cứ vào bộ
chứng từ xuất trình, mà khơng căn cứ vào việc kiểm tra hàng hố. Ngân hàng chỉ
kiểm tra tính chân thật “bề ngoài” của chứng từ. Một nhà xuất khẩu chủ tâm
gian lận có thể xuất trình bộ chứng từ giả mạo (có bề ngồi phù hợp với L/C)
cho ngân hàng được chỉ định để thanh tốn. Như vậy, sẽ khơng có sự bảo đảm
nào cho nhà nhập khẩu rằng hàng hóa sẽ đúng như đơn đặt hàng hay khơng bị
hư hại gì. Trong trường hợp này, nhà nhập khẩu vẫn phải hồn trả đầy đủ tiền đã
thanh tốn cho ngân hàng phát hành.

21


- Nhà nhập khẩu chưa nhận được bộ chứng từ khi hàng đã cập cảng. Vì bộ
chứng từ bao gồm vận đơn, mà vận đơn lại là chứng từ sở hữu hàng hố, nên
thiếu vận đơn thì nhà nhập khẩu khơng thể nhận hàng hố. Nếu nhà nhập khẩu
cần gấp ngay hàng hố, thì phải thu xếp để được ngân hàng phát hành phát hành
một thư bảo lãnh gửi hãng tàu để nhận hàng. Để được bảo lãnh nhận hàng, nhà
nhập khẩu phải trả một khoản phí cho ngân hàng. Hơn nữa, nếu khơng nhận
hàng theo qui định thì tiền bồi thường giữ tàu quá hạn sẽ phát sinh. Tuy nhiên,
thơng thường theo các điều khoản của L/C thì nhà nhập khẩu sẽ nhận được bộ
chứng từ trong khoảng thời gian hợp lý.
- Nếu không qui định “bộ vận đơn đầy đủ” (full set of bills of lading), thì một
người khác có thể lấy được hàng hố khi chỉ cần xuất trình một phần của bộ vận
đơn, trong khi đó người trả tiền hàng hoá lại là nhà nhập khẩu.
Rủi ro đối với nhà xuất khẩu :
- Đối với thư tín dụng có thể huỷ ngang thì ngân hàng phát hành sửa đổi, bổ

sung hay huỷ bỏ bất cứ khi nào trước khi nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ,
mà khơng cần có sự đồng ý của người này. Do đó, nếu nhà xuất khẩu xuất trình
bộ chứng từ khơng phù hợp với L/C, thì mọi khoản thanh tốn/chấp nhận có thể
đều bị từ chối, và nhà xuất khẩu phải tự xử lý hàng hoá như dỡ hàng, lưu kho
cho đến khi vấn đề được giải quyết hoặc phải tìm người mua mới, bán đấu giá
hay chở hàng quay về nước. Nhà xuất khẩu phải chịu các chi phí như lưu tàu quá
hạn, phí lưu kho và mua bảo hiểm cho hàng hố… Trong khi đó khơng biết rõ
lập trường của nhà nhập khẩu là sẽ đồng ý hay từ chối nhận hàng vì lý do bộ
chứng từ có sai sót.
- Nếu ngân hàng phát hành (hoặc và ngân hàng xác nhận) mất khả năng
thanh tốn, thì cho dù bộ chứng từ xuất trình là hồn hảo thì cũng khơng được
thanh tốn. Tương tự, nếu ngân hàng chấp nhận hối phiếu kỳ hạn bị phá sản
trước khi hối phiếu đến hạn, thì hối phiếu cũng khơng được trả tiền. Trừ khi L/C
được xác nhận bởi một ngân hàng hạng nhất trong nước còn lại nhà xuất khẩu

22


ln chịu rủi ro về hệ số tín nhiệm của ngân hàng phát hành, cũng như rủi ro
chính trị hay rủi ro cơ chế chính sách của nước nhà nhập khẩu.
- Nếu nhà xuất khẩu nhận được một L/C trực tiếp từ ngân hàng phát hành
(không thông qua ngân hàng thơng báo), thì đó có thể là một L/C giả. Nhà xuất
khẩu phải yêu cầu có một ngân hàng trong nước xác nhận L/C hay phải được
ngân hàng phục vụ mình xác minh L/C là thật.
Rủi ro đối với ngân hàng phát hành:
- Ngân hàng phát hành phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo
qui định của L/C ngay cả trong trường hợp nhà nhập khẩu chủ tâm khơng hồn
trả hoặc khơng có khả năng hồn trả. Với lý do này, rủi ro tín dụng đối với ngân
hàng phát hành là rất hiện hữu. Do đó, trước khi chấp nhận phát hành L/C, ngân
hàng cần áp dụng một qui trình thẩm định chặt chẽ giống như việc cấp tín dụng

cho khách hàng.
- Trong số các nhân tố ngân hàng phát hành cần phải xem xét đó là liệu ngân
hàng có thu lại được một phần hay tồn bộ số tiền đã thanh toán từ việc bán
hàng nếu nhà nhập khẩu bị phá sản. Các câu hỏi cần trả lời đó là:


Nhà nhập khẩu sẽ là người chắc chắn sở hữu hàng hoá?



Hàng hoá đảm bảo chất lượng và có thể bán được?



Hàng hóa có dễ hỏng và giá cả có hay biến động?



Có sự thơng đồng lừa đảo giữa nhà sản xuất và nhập khẩu, hậu quả có

thể là hàng hố sẽ khơng bao giờ được chuyển đi?


Có hạn chế nào liên quan đến loại hàng hoá nhập khẩu, ví dụ như hạn

chế về giấy phép kinh doanh, đối tượng mua bán?
- Nếu ngân hàng phát hành trả tiền hay chấp nhận thanh tốn hối phiếu kì
hạn, mà khơng có sự kiểm tra một cách kỹ lưỡng bộ chứng từ, nhà nhập khẩu
khơng chấp nhận, thì khơng thể địi tiền nhà nhập khẩu.
Từ phân tích cho thấy, khi mở L/C ngân hàng đã thực hiện cam kết tài chính

và chấp nhận rủi ro. Vì vậy, để hạn chế rủi ro, ngân hàng nên yêu cầu đối với
khách hàng mới lần đầu mở L/C:

23




ký quỹ cho ngân hàng 100% trị giá của L/C

Nếu khách hàng phát hành L/C thường xuyên, ngân hàng có thể cấp một “
Hạn mức tín dụng nhập khẩu – Import Line” để cho người nhập khẩu mở L/C
với tổng trị giá bằng hạn mức tín dụng nhập khẩu. Tỷ lệ % ký quỹ có thể giảm
xuống nếu mức độ tin cậy của khách hàng tăng lên.
Ngân hàng xét chứng từ chứ khơng xét hàng hố. Nhưng vì hàng hố có giá
trị, như là vật bảo đảm, và mức độ rủi ro tuỳ thuộc vào ai là người kiểm soát
hàng hoá. Việc kiểm soát hàng hoá được chuyển nhượng bằng cách chuyển giao
chứng từ sở hữu hàng hoá (vận đơn). Nếu ngân hàng muốn duy trì kiểm sốt
hàng hố, thì ngân hàng phải thu xếp để chứng từ vận tải chỉ ra “người nhận
hàng” là bản thân ngân hàng hoặc được ghi “theo lệnh”.
+ Rủi ro đối với ngân hàng thơng báo:
Ngân hàng thơng báo chịu trách nhiệm, phải có “sự quan tâm hợp lý” để đảm
bảo rằng thư tín dụng là trung thực, cả trong việc xác minh chữ kí, mã khố,
mẫu điện trước khi gửi thơng báo cho nhà xuất khẩu.
+ Rủi ro đối với ngân hàng được chỉ định
- Trừ khi là ngân hàng xác nhận các ngân hàng được chỉ định khơng có một
trách nhiệm nào phải thanh toán cho người xuất khẩu trước khi nhận được tiền
từ ngân hàng phát hành. Tuy nhiên trong thực tế trên cơ sở bộ chứng từ xuất
trình các ngân hàng được chỉ định thường ứng trước cho nhà xuất khẩu với điều
kiện truy đòi (with recouse) để giúp nhà xuất khẩu. Do đó, ngân hàng này phải

chịu rủi ro tín dụng đối với ngân hàng phát hành hoặc nhà xuất khẩu.
+ Rủi ro đối với ngân hàng xác nhận:
- Nếu bộ chứng từ là hồn hảo, thì ngân hàng xác nhận phải trả tiền cho
người xuất khẩu bất luận là có truy hồn được tiền từ ngân hàng phát hành hay
không. Như vậy, ngân hàng xác nhận chịu rủi ro tín dụng đối với ngân hàng phát
hành, cùng rủi ro chính trị và rủi ro cơ chế (hạn chế ngoại hối) của nhà nước
ngân hàng phát hành.
- Nếu ngân hàng xác nhận trả tiền hay chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ

24


hạn, mà khơng có sự kiểm tra một cách thích đáng bộ chứng từ, để bộ chứng từ
có lỗi, ngân hàng phát hành khơng chấp nhận, thì khơng thể địi tiền ngân hàng
phát hành.

25


×