LUẬN VĂN:
Cơ sở tồn tại và sự vận động của cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam
lời mở đầu
Trong một thời gian dài, do nhận thức khoa học chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã
hội(XHCN) và nhà nước xã hội chủ nghĩa , một hệ thống các nước XHCN đã dược
hình thành và và hoạt động theo một cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế tương
ứng với nhận thức đó . Trong hoạt động thực tiễn, nhưng cản ngại sau hàng chục năm
tồn tại cơ chế đó , đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại một cách đích thực về CNXH
trong quá trình phát triển của lịch sử.
Trong điều kiện lịch sử hiện đại , Đảng Cộng Sản Việt Nam đã điều chỉnh lại cơ
chế kinh tế bằng công cuộc chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN . quan điểm đổi mới của Đảng về cơ cấu thành
phần kinh tế là làm cho quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp với trình độ của lực lượng
sản xuất.Ngoài thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể chúng ta còn thừa nhận
thành phần kinh tế cá thể , tư bản tư nhân, tư bản nhà nước và gần đây nhất là thành
phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiểu biết và nhận thức đúng đắn về vấn đề trên là sự cần thiết không thể thiêu với
mỗi sinh viên. Chính vì vậy em lựa chọn đề tài “Cơ sở tồn tại và sự vận động của cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
nam”
nội dung
I.Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về việc tồn tại và phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
1.Thế nào là thời kì quá độ và thành phần kinh tế ?
Thời kì quá độ là một thời kì lịch sử đặc biệt, cơ cấu kinh tế xã hội vừa
bao hàm những yếu tố của xã hội cũ đang suy thoái dần, vừa bao hàm những yếu tố
của xã hội mới ra đời , phát triển mạnh mẽ , giành được chính quyền nhưng còn non
yếu về mọi mặt
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dược đặc
trưng bởi hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất .Do đó thành phần kinh tế tồn
tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định , trong đó, căn cứ vào quan hệ sản
xuất (mà hạt nhân la quan hệ sở hữu)nào thống trị để xác định từng thành phần kinh
tế cụ thể.
Trong nền kinh tế thị trường người ta không sử dụng khái niêm thành phần
kinh tế mà sử dụng khái niệm khu vực kinh tế nhưng cũng căn cứ vào vốn tài sản
thuộc về ai.
2. Cơ sở tồn tại nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kì quá
độ.
2.1.Quan điểm của Mác-lênin.
Lịch sử nhân loai đã chứng minh rằng sản xuất nhỏ tất yếu sẽ tiến lên sản xuất
lớn hiện đại. Xét về hình thái tổ chức sản xuất và trao đổi sản phẩm thì chủ nghĩa tư
bản ngày nay đã đạt tới đỉnh cao của nền kinh tế thị trường . Song về bản chất kinh tế
– xã hội thì nó vẫn là một chế độ người bóc lột người tinh vi nhất trong lịch sử nhân
loai và sớm muộn tát yếu sẽ bị xã hội loài người xoá bỏ thay thế bằng một xã hội tiến
bộ và văn minh hơn đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Ơ thời đại ngày nay nền kinh tế hàng hoá phát triển hay còn gọi là kinh tế thị
trường theo mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh,moi người đều
được hưởng hạnh phúc dang là xu thế khách quan và mong muốn phát triển của nhân
loại nói chung, cũng như các nước lạc hậu đang ở thời kì phát triển nói riêng . Sở dĩ nó
trở thành xu thế khách quan bởi các lẽ sau đây :
Một là,nền kinh tế thị trường tuy có những mặt tiêu cực và hạn chế ,song xét về
ưu thế hiệu quả kinh tế đem lại cho xã hội thì có nhiều ưu điểm hơn các hình thái kinh
tế xã hội đã từng tồn tại trong xã hội loài người từ trườc tới nay .
Hai là , chủ nghĩa tư bản ngày nay đã bộc lộ rõ tất cả những mặt xấu xa và lỗi
thời của nó, không còn là “hình mẫu” hấp dẫn để các nước lạc hậu noi theo.
Ba là , bản thân giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản
phát triển hiệnnay cung đều tự thấy rằng chủ nghĩa tư bản đã đến lúc phải bị xoá bỏ đẻ
thay thế bằng một xã hội mới tiến bộ và văn minh hơn ,dảm bảo công bằng về kinh tế
chính trị,văn hoá và xã hội cho tất cả moi ngưòi. Chủ nghĩa Mac-lênin gọi đó là chủ
nghĩa ccộng sản mà giai đoạn thấp của nó là xã hội xã hội chủ nghĩa.Xã hội này hàm
chứa trong dó những nhân tố kinh tế ,chính trị văn hoá và xã hội gắn với mục tiêu độc
lập chủ quyền dân tộc giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Sự nghiệp cách mạng của đảng ,nhà nước ta trước đây,hiện nay và mẫi sau này
là nhằm phấn đấu xây dựng một xã hội như thế ở nước ta để nhân dân ta được đời đời
được ấm no hạnh phúc.
Điều đáng lưu ý là xã hội xã hội chủ nghĩa theo Cac- mac thì nó phải ra đời ở một
nước có nền kinh tế phát triển cao khi mà quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tương ứng. V.I.Lênin cho rằng
theo tiến trình lịch sử tự nhiên của sư phát triển lực luợng sản xuất thì chủ nghĩa xã hội là
“một bước tiến liền ngay sau chế độ độc quyền tư bản nhà nước vì chủ nghiã tư bản độc
quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội ,là phòng chờ đi
vào chủ nghĩa xã hội,là nấc thang lịch sử mà giưa nó (nấc thang đó ) với nấc thang được gọi
là chủ nghĩa xã hội thì không có một nấc nào ở giữa cả.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải
khuyến khích phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá nhưng theo Lê-nin thì”hễ có trao
đổi thì sự phát triển của nền kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản,một sự phát triển
tư bản chủ nghĩa nếu tìm cách ngăn cấm sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa thì chính
sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nao muốn áp dụng nó .Dại dột vì về
phương diện kinh tế chính sách đấy là không thể nào thực hiên đựơc;tự sát,vì những
đảng nào định thi hành một chính sach mhư thế nhất định sẽ bị phá sản nên chinh sách
cuối cùng có thể áp dụng được và duy nhất hợp lí là không tìm cách ngăn cấm và chặn
đứng sự phát triển của chủ nghiã tư bản mà tìm cách hướng nó vào chủ nghĩa tư bản nhà
nứoc vì “từ chủ nghĩa tư bản tiểu tư sản đi đến chủ nghĩa tư bản nhà nước vơí qui mô
lớn cũng như đi đến chủ nghĩa xã hội đều trải qua cùng một con đường.
Như vậy ,định hướng lên chủ nghĩa xã hội ,bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
không có nghĩa là đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản ,bỏ qua tất cả những
gì đã có trong chủ nghĩa tư bản mà là sử dụng chủ nghĩa tư bản để xây dựng cơ sở vật
chất –kĩ thuât cho chủ nghĩa xã hội, là hướng kinh tế tiểu tư sản và kinh tế tư bản chủ
nghĩa vào con đường của chủ nghĩa tư bản nhà nước để đi lên chủ nghia xã hội.Bởi vì
“chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản lại là tốt so với thời
trung cổ ,với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của
những ngưòi tiểu sản xuất tạo nên . Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp
từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội ,bởi vậy trong một mức độ nào đó chủ nghĩa
tư bản là không thể tránh khỏi ,nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao
đổi.Bởi vậy chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào
con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giũa nền tiểu sản xuất
và chủ nghĩa xã hội ,làm phuơng tiện, con đường, phương pháp ,phương thức để tăng
lực lượng sản xuất lên ”.Đây chính là giai đoạn lịch sử mà chủ nghĩa Mác-Lênin gọi là
thời kì quá độ mà thực chất của thời kì nay là nhà nước của giai cấp vô sản và nhân
dan lao động tự đảm đương nhiệm vụ lịch sử phát triển sức sản xuất và những quan hệ
xã hội tương ứng với những điều kiên vật chất ấy làm cơ sở hiện thực cho chủ nghĩa
xã hội –một nhiệm vụ mà đáng lẽ giai cấp tư sản phải đảm đưong nếu như đất nước
trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
2.2.Quan điểm của Đảng ta .
Trong tác phẩm Bàn về thuế lương thực Lênin đã viết “danh từ quá độ có nghĩa
là gì?vận dụng vào kinh tế có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những
thành phần những bộ phận,những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội
không ?Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có”.Luận điểm khoa học của Lênin cho thấy
rằng :trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tồn tại một nền kinh tế đa
thành phần.trong đó mỗi phương thức sản xuất chỉ là “ một mảnh”, “một bộ phận” của
kết cấu kinh tế –xã hội vùa độc lập tương đối vưa tác động đến nhau ,hợp tác và đấu
tranh với nhau .Mỗi “mảnh”hay “bộ phận” ấy là một thành phần kinh tế .
Phạm trù thành phần kinh tế và phương thức sản xuất có sự trùng hợp về yếu tố
cấu thành (gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nhất định).Song thành phần
kinh tế khác phương thức sản xuất ở chỗ khi nó chưa vươn lên đóng vai trò thống trị ,
nhưng cũng không ở vào vị trí chi phối ,nó tồn tại như một bộ phận tưong đối độc lập,
đan xen với các bộ phận khác của cơ cấu kinh tế –xã hội . Với ý nghĩa này ,nền kinh tế
nhiều thành phần là đặc trưng riêng có của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Xác định đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một hướng đi đúng đắn phù hợp
với xu thế thời đại và nguyện vong của nhân dân ta. Song đi lên chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nên nước ta thiếu cái “cốt vật chất” của một nền
kinh tế phát triển , cơ cấu hạ tầng vật chất thấp, kém khả năng cạnh tranh ,sản xuất
phân tán nhỏ lẻ,phân công lao động chưa sâu sắc,trình độ lao động không cao, thị
trường còn sơ khai. Trước tình hình đó Đảng ta xác định :để đi tới chủ nghiã xã hội
nước ta đương nhiên phải trải qua những bước quá độ lich sử đặc biệt với mô hình tổ
chức quá độ, với các hình thức kinh tế quá độ ,với các bước đi và khâu trung gian quá
độ để có thể rút ngắn đáng kể thời gian thực hiện các trình tự phát triển tự nhiên và đạt
được những mục tiêu định hướng đã chọn.Đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra đường lối đổi mới xuất phát từ tất yếu đó. Kinh tế
nhiều thành phần là thể hiện và đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
thấp và không đều của lực lượng sản xuất , đồng thời khơi dậy tiềm năng của từng
thành phần kinh tế trong nèn kinh tế quốc dân.Ngoài ra ,việc chuyển cơ chế quản lí
hành chính ,tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế quản lí thị trường là đảm bảo sự
thích ứng của quan hệ sản xuất với điểm xuất phát thấp của lực lượng sản xuất ở nước
ta. Sự chuyển đổi này đã làm cho cơ chế quản lí từ bảo thủ ,trì trệ thành sự quản lí
năng động và hiệu quả , chuyển chế độ sở hữu từ một hình thức (quốc doanh và tập thể
)sang đa chủ thể sở hữu về tư liệu sản xuất .Điều này đã khắc phục được sự trì trệ tư
duy của “ông chủ tập thể”,khơi dậy tiềm năng sáng tạo của từng chủ sở hữu .Mọi
người lao động , từng ông chủ sở hữu trăn trở tìm tòi sáng tạo tìm cách làm giàu cho
mình và cho toàn xã hội .quan điểm dân giàu nước mạnh là hoàn toàn biện chứng .Dân
có giàu thì nước mới mạnh .Việc chuyển phương thúc phân phối “cào bằng” bình quân
triệt tiêu động lực lợi ích của người lao động sang phương thức phân phối theo lao
động và và hiệu quả đã tạo chất men kích thích lợi ích chính đáng của toàn thể người
lao động . Phân phối theo lao động và hiệu quả của sản xuất –kinh doanh không chỉ
khơi dậy động lực lợi ích mà còn tạo ra nhu cầu khơi dậy đông lực lợi ích .Đây là hai
yếu tố hết sức quan trọng quyết định sự tăng trưởng kinh tế .
Chúng ta đang tồn tại trong điều kiện quốc tế mới ,thời đai mới –thời đại lực
lượng sản xuất quốc tế hoá. Đại hội Đảng VI cũng khắc phục sự hạn chế của tư duy
“khép kín” ,đóng kín với với thế giới bên ngoài trước đây , chuyển sang tư duy “mở”-
mở cửa ra thế giới ,hội nhập với cộng động nhân loại . Sự chuyển biến cơ bản này vừa
xuất phát từ đặc điểm thời đại và tình hình đất nước, vừa có tác dụng hội tụ sức mạnh
thời đại với sức mạnh Việt Nam .
Đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở thời kì quá độ
theo định huớng xã hội chủ nghĩa ,vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của
nhà nước là một định hướng chiến lược cực kì quan trọng mang tính khách quan và có
khả năng thắng lợi ở nước ta ,bởi vì:
Một là,chỉ có phát triển nền kinh tế nhiều thành phần mới phù hợp với thực
trạng của lực lượng sản xuất chưa đồng đều ở Việt Nam .
Hai là, nó phù hợp với xu thế phát triển khách quan của thời đại ngày nay –thời
đại các nước đều hướng về phát triển kinh tế thị trường có sự quản lí vĩ mô của nhà
nước .Sự phù hợp này sẽ giúp nước ta có thêm thế và lực để phát triển kinh tế nhanh
hơn.
Ba là, phù hợp với mong muốn thiết tha của nhân dân ta là được đem hết tài
năng, sức lực để lao động làm giaù cho đất nước và cho bản thân mình.
Bốn là ,nó cho phép có điều kiện thuận lợi để khai thác có hiệu quả nhất các
tiềm năng hiện có và đang còn tiềm ẩn trong nước , có thể tranh thủ tốt nhất sự giúp
đỡ,hợp tác từ bên ngoài nhằm phát triển nền kinh tế nuớc ta hướng vào mục tiêu tăng
trưởng nhanh và hiện đại hoá . Chỉ có nhiều thành phần kinh tế , chúng ta mới có khả
năng huy động mọi tiềm năng về vốn ,kỹ thuật, mới phát huy được mọi tiềm năng của
con người Việt Nam ,mới áp dụng nhanh nhạy các thành tựu khoa học và công nghệ,
mới vận dụng sáng tạo có hiệu quả các thành phần kinh tế “các mắt xích trung gian
,các nấc thang hợp lí , các nhịp cầu thích hợp” vào trong quá trình quản lý và phát triển
kinh tế – xã hội .
Rõ ràng chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần mà đại hội VI của
Đảng đề ra phù hợp với kinh tế xã hội của đất nước và đặc điểm thời đại .Chủ trương
đó khẳng định sự tồn tai khách quan của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt
Nam hiên nay.
II.Cơ cấu các thành phần kinh tế và sự vân động phát triển của các thành
phần kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .
1. Sự xuât hiện kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
Đi lên CNXH không qua giai đoạn CNTB nên nền kinh tế nước ta có những yếu
kém sau:
+cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng thấp kém
+Công nghệ lạc hậu, sản xuất phân tán nhỏ lẻ, kỹ thuật thủ công
+phân công lao động không sâu sắc, quản lý kinh tế yếu kém
+thu nhập dân cư thấp, sức mua kém.
+trình độ của lực lượng sản xuất thấp
Chính vì vậy, Đại hội Đảng VI Đảng ta đã quyết định phát triên nền kinh tế nhiều
thành phần, coi đó là đường lối chiến lược lâu dài của đất nước.
Đại hội Đảng IX đã khẳng định nước ta có sáu thành phần kinh tế:
+kinh tế Nhà nước
+kinh tế tập thể
+kinh tế cá thể
+kinh tế tư bản tư nhân
+kinh tế tư bản nhà nước
+kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
2.Sự vận động của các thành phần kinh tế
2.1.Kinh tế nhà nước .
2.1.1.khái niệm và vai trò.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng(công
hữu )về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước ).Kinh tế nhà nước bao
gồm các doanh nghiệp nhà nước ,các quĩ dự trữ quốc gia , các quỹ bảo hiểm nhà nước
và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế .
Kinh tế nhà nước gữi vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở
đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quanh trọng và công cụ để nhà
nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Các doanh nghiệp nhà nước, bộ phân quan trọng nhất của nền kinh tế phải giữ
vị trí then chốt, phải đi đầu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ, nêu gương về
năng xuất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật.
Để làm như vậy phải hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi
mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp hiện có, đồng thời phát
triển thêm doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một
ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng.
Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo những hướng
sau:
- Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tông công ty nhà nước,
có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Khẩn trương cải thiện tình hình tài chính và
lao động của các doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện đại hoá một bước các tổng
công ty nhà nước.
- Thục hiên tôt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hóa sở hữu đối với những
doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100%.
- Giao bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà nhà nước không
cần nắm giữ.
- Sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không co hiệu
quả và không thực hiện được các biên pháp trên.
Về mặt quản lí kinh tế, nhà nước phải phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền
kinh doanh của doanh nghiệp. Thực hiện chế độ quản lí công ty đối với các doanh
nghiệp kinh doanh dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là nhà nước
và công ty cổ phần có vốn nhà nước, giao cho hội đồng quản trị doanh nghiệp quyền
đại diện trực tiếp chủ sở hữu gắn với quyền tự chủ trong kinh doanh. Tiếp tục đỏi mới
cơ chế, chính sách đới với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng
cao hiệu quả theo hướng xoá bỏ triệt tiêu để bao cấp,doanh nghiệp cạnh tranh bình
đẳng trên tthị trường;tự chịu trách nhiệm sản xuất kinh doanh. Quy định rõ quyền hạn
và trách nhiệm của các cơ quan quản lí nhà nước đối với các doanh nghiệp .
2.1.2Thực trạng phát triển .
Khu vực kinh tế nhà nước chiém giữ phần lớn các nguồn lực tài sản, đất đai đến
nguồn vốn tài chính, vốn con người ,đồng thời có những đóng góp nhiều nhất cho tăng
trưởng kinh tế .
Trong năm 2003, khu vực kinh tế nhà nước hiện có khoảng 5175 doanh nghiệp
, chiếm 56,5% tổng vốn đầu tư phát triển và đóng góp hơn 38% GDP.doanh nghiệp
nhà nước đóng vai trò chủ đạo, thậm chí độc quyền trong nhiều ngành kinh tế , nhất lá
những ngành có vị trí then chốt như bưu chính-viễn thông, hàng không, điện lực…khu
vực này đã sản xuất ra 39,5%giá trị sản lượng công nghiệp ,trên 50% kim ngạch xuất
khẩu và 23,7% tổng thu ngân sách nhà nước. Hầu hết các hoạt động sản xuất và dịch
vụ công ích đều do doanh nghiệp nhà nước đảm nhiệm
Tuyvậy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước hiện nay chưa thực sự xuất phát từ
thực lực vượt trội của khu vực này so với các thành phần kinh tế khá và so vói các
doanh nghiệp trên thế giới. đạc điểm này thể hiện rõ ở một số điểm sau :
Thứ nhất ,năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nhà nước thấp kém
,nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Nợ của khu vực doanh nghiệp nhà
nước quá lớn ,nợ quá hạn ,nợ khó đòi chưa có dấu hiệu thuyên giảm (chiếm tới 74,8%
trong số nợ quá hạn của ngân hàng thương mại quốc doanh).so với các doanh nghiệp
trên thế giới ,doanh nghiệp nhà nước Việt Nam có qui mô nhỏ bé ,công nghệ lạc hậu
,tạo gía tri gia tăng thấp ,sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ ít có khả năg canh
tranh trên thi trường thế giới .
Thứ hai , so với các thành phần kinh tế khác ,doanh nghiệp nhà nước được nhận
nhiều sự hỗ trợ và hưởng những đặc quyền mà các doanh nghiệp khác không thể có
được. Doanh nghiệp nhà nước được vay vốn không cần thế chấp ;đựoc giao đất mà
không phải thuế đất ,được giao thực hiện các dự án lớn của nhà nước mà nắm chác sẽ
thu lãi lớn …tong 4 năm 97-00, ngân sách nhà nước đã đầu tư gần8200 tỷ đồng cho
doanhnghiệp nhà nước, miễn giảm thuế 1351 tỷ đồng , xoá nợ 1086 tỷ đồng,giãn nợ
540 tỷ đồng ,giảm trích khấu hao 200 tỷ đồng. Hiện nay , nhà nước vẫn đang tiép tục
cấp thêm bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước ,để trong 5 năm 2001-2005,cơ
bản tạo đủ vốn cho doanh nghiệp.
Thứ ba, bên cạnh sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước,hiệu quả hoạt động
của hệ thống ngân hàng nhà nước và các dịch vụ khác, kể cả dịch vụ công ích ,vẫn còn
thấp. Hệ thống ngân hàng chưa đảm bảo cung cấp nguồn vốn đầy đủ và thuận lợi cho
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần. Các dịch vụ công,nhất là những dịch vụ phục vụ
khu vực doanh nghiệp còn yếu kém ,chi phí cao chất lượng thấp .
2.2Kinh tế tập thể .
2.2.1.Khái niệm và vai trò.
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do ngưòi lao
động tự nguyện góp vố ,cùng kinh doanh ,tự quản lí theo nguyên tắc tập trung, bình
đẳng cùng có lợi.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng mà nòng cốt là hợp tác dựa trên sở
hữu của các thành viên và sở hữu tập thể ;liên kết rộng rãi những người lao động ,các
hộ sản xuất ,kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ thộuc các thành phần kinh tế
;không giới hạn quy mô và địa bàn ;phân phối theo lao động ,theo vốn góp và mức độ
tham gia dịch vụ ;hoạt động theo nguyên tác tự chủ tự chịu trách nhiệm.
Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính ,bao gồm lợi ích các thành viên và
lợi ích tập thể ,đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên góp phần xoá đói
giảm nghèo,tiến lên làm giàu cho các thành viên .
Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực,vững chắc,xuất phát từ nhu
cằu thực tế, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển của sản xuất .
Khu vực nông nghiệp nông thôn ,phát triển kinh tế tập thể phải trên cơ sở đảm
bảo quyền tự chủ kinh tế của kinh tế hộ ,trang trại ,hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ ,trang
trại phát triển gắn với tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới ;không ngừng nâng năng suất, hiệu quả và sức cạnh trnah trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2.2.Thực trạng phát triển .
Về mô hình hoạt động, sau nhiều nỗ lực cải cách của nhà nước ,so với trước đây
khu vực kinh tế tập thể đã xuất hiện nhiều mô hình hợp tác xã kiểu mới có cơ chế hoạt
đông và quản lí năng đông hơn, loại hình đa dạng hơn (kể cả hình thức và lĩnh vực
hoạt đông ).Các hình thức liên doanh giữa hợp tác với doanh nghiệp nhà nước và các
thành phần kinh tế khác cũng có xu hướng phát triển.
Sự phát triển kinh tế tập thể trong điều kiện nuớc ta hiện nay rất cần có sự lãnh
đạo của đảng cộng sản Việt Nam và sự hỗ trợ của nhà nước. Bởi vậy , phải tăng cường
lãnh đao,chỉ đạo và có chính sách khuyến khích ,ưu đãi giúp đỡ kinh tế hợp tác phát
triển có hiệu quả.thực hiên tốt luật hợp tác xã.
2.3 Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
2.3.1. Khái niệm và vai trò.
Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và
khả năng lao động của bản thân người lao động và giađình.
Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản
xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao
động và vốn của bản thân và gia đình.
Kinh tế cá thể và tiểu chủ hiện đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều
ngành,nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm
năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do
đó,việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể và tiểu chủ cần được khuyến
khích.
Hiện nay, ở nước ta, thành phần kinh tế này chủ yếu hoạt động dưới hình thức
hộ gia đình, đang là một bộ phận đông đảo,có tiềm năng to lớn,có vị trí quan trọng, lâu
dài. Đối với nước ta cần phát triển mạnh mẽ thành phần kinh tế này để vừa góp phần
tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, vừa giải quyết việc làm cho người lao động-
một vấn đề bức bách hiện nay của đời sống kinh tế-xã hội. Trong những năm
qua,thành phần kinh tế này phát triển nhanh trong nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và thương mại, dịch vụ. Nó đã góp phần quan trọng vào các thành tựu
kinh tế-xã hội.Tuy nhiên,cũng cần thấy rằng,thành phần kinh tế cá thể,tiểu chủ dù cố
gắng đến bao nhiêu cũng không thể loại bỏ những hạn chế vốn có như :tính tự phát,
manh mún, hạn chế về kĩ thuật.Do đó, Đảng ta chỉ rõ:cần giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu
chủ, giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ,về thị trường tiêu thụ
sản phẩm.”Nhà nước tạo điều kiện, giúp đỡ để phát triển,khuyến khích các hình thức
tổ chức hợp tác tự nguyện,làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn
hơn”.Phát triển các loại hình thông tin với quy mô phù hợp trên từng địa bàn.
2.3.1. Thực trạng phát triển
Khu vực kinh tế cá thể có quy mô lớn và đóng vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế.Hàng năm,khu vực kinh tế này đã tạo ra khoảng 31% GDP,không kém
phần đóng góp so với khu vực kinh tế nhà nước.Thành phần kinh tế này có mặt ở mọi
địa bàn,cả nông thôn và thành thị.ở khu vực nông thôn,kinh tế hộ phát triển rộng
khắp,phát triển mạnh từ chủ trương xoá bỏ mô hình hợp tác xã gượng ép của cơ chế
cũ.Năm 2000,cả nước có khoảng 10 triệu hộ kinh doanh cá thể đăng kí theo
nghị định 66.Số lượng các trang trại đanh có xu hướng ngày càng gia tăng.Trong các
thành phố lớn,kinh tế cá thể vẫn chiếm một vị trí nhất định,khoảng 23,9% GDP trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.Trong những năm gần đây,với chính sách khuyến
khích sản xuất,kinh doanh của nhà nước,nhiều cá nhân đã năng động tự đầu tư kinh
doanh với quy mô nhỏ,tự tạo việc làm cho mình và tạo thu nhập.Khu vực kinh tế cá
thể có vai trò quan trọng trong tạoviệc làm cho người lao động với lượng vốn ít,huy
động được trong nhân dân.Nừu như doanh nghiệp nhà nước chiếm phần lớn các nguồn
lực trong xã hội nhưng chỉ thu hút được 4,8%lực lượng lao động trong cả nước,thì khu
vực kinh tế cá thể với nguồn lực ít nhưng lại tạo ra việc làm cho hơn 50% số lao động
hiện có.
Trong khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa làm tốt vai trò huy động tiền
nhàn rỗi trong nhân dân,khu vực kinh tế cá thể đã làm nhiệm vụ đưa nguồn vốn nhàn
rỗi đó lưu thông trong nền kinh tế thông qua quan hệ họ hàng,quen biết.Sự phát triển
của kinh tế cá thể và tiểu chủ đã tạo ra sự năng động cho nền kinh tế,đáp ứng nhu cầu
đa dạng của xã hội.Tuy nhiên,sự lớn mạnh của khu vực kinh tế này đã thể hiện sự
manh mún và trình độ phát triển thấp của nền kinh tếViệt Nam.
2.4. Kinh tế tư bản tư nhân.
2.4.1. Khái niệm và vai trò.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên
cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động
làm thuê.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay,thành phầnkinh tế
này còn đóng vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất,xã hội
hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội.Đây cũng là thành
phần kinh tế rất năng động,nhạy bén với kinh tế thị trường,do đó sẽ có những đóng
góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước.Hiện nay,kinh tế tư bản
tư nhân bước đầu có sự phát triển,nhưng phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương
mại,dịch vụ và kinh doanh bất động sản,đầu tư vào sản xuất còn ít và chủ yếu quy mô
vừa,nhỏ.
Chính sách của Đảng và Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân bỏ vốn
đầu tư phát triển sản xuất,đáp ứng các nhu cầu của dân cư.Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu và lợi ích hợp pháp của họ,xoá bỏ định kiến và tạo điều kiện thuận lợi về tín
dụng,về khoa học công nghệ,về đào tạo cán bộ cho thành phần kinh tế này.Tuy
nhiên,đây là thành phần kinh tế có tính tự phát rất cao.Đầu cơ,buôn lậu,trốn thuế,làm
hàng giả là những hiện tượng thường thấy ở thành phần kinh tế này,Điều đó đòi hỏi
phải tăng cường quản lý đối với thành phần kinh tế này.Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX có đoạn viết: “Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân
rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lí để kinh tế tư bản tư nhân phát triển
trên những định hướng ưu tiên của nhà nước,kể cả đầu tư ra nước ngoài, khuyến khích
chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phiếu cho người lao động, liên doanh, liên
kết với nhau. Với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước, xây dựng quan hệ tốt giữa chủ
doanh nghiệp và người lao động”.
2.4.2. Thực trạng phát triển
Cùng với các chủ trương, chính sách ngày càng cởi mở hơn của nhà nước, khu
vực kinh tế tư bản tư nhân ở Việt Nam đã ngày càng khẳng định vai trò của nó trong
quá trình phát triển kinh tế. Hiện nay, khu vực này cung cấp khoảng 57,3 nghìn tỷ
đồng, chiếm khoảng 26,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội (2003). Trong những năm gần
đây, khi nguồn vốn đầu tư nước ngoài bị giảm sút, sự lớn mạnh của khu vực kinh tế tư
bản tư nhân đã bổ sung kịp thời nguồn vốn bị thiếu hụt và giữ vững đà phát triển của
kinh tế đất nước. Mặc dù mới được khuyến khích phát triển, khu vực kinh tế tư bản tư
nhân đóng góp khoảng 4% GDP năm 2003, tạo khoảng 1,8 triệu lao động, gần bằng số
lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Kinh tế tư bản tư nhân góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá và hiện
đại hoá đất nước thông qua việc nâng cao tỷ lệ tích lũy và đầu tư, phân phối và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế, tăng sức cạnh tranh trong nền kinh tế, tạo
động lực mạnh mẽ thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ để hội nhập kinh tế quốc tế.
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực tư bản tư nhân luôn tăng cao hơn so với
tốc độ tăng của ngành công nghiệp trên cả nước. Kinh tế tư bản tư nhân đóng góp
khoảng 20-30% tổng kinh ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong nhiều lĩnh vực, kinh tế
tư bản tư nhân có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, khu vực
kinh tế tư bản tư nhân đã tạo được sức ép cải cách đối với khu vực doanh nghiệp nhà
nước. Sự xuất hiện của tư bản tư nhân ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực tạo ra môi trường
cạnh tranh buộc doanh nghiệp nhà nước phải nâng cao hiệu quả để có thể tồn tại và
phát triển nghị định 66.Số lợng các trang trại đanh có xu hớng ngày càng gia
tăng.Trong các thành phố lớn,kinh tế cá thể vẫn chiếm một vị trí nhất định,khoảng
23,9% GDP trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.Trong những năm gần đây,với chính
sách khuyến khích sản xuất,kinh doanh của nhà nớc,nhiều cá nhân đã năng động tự
đầu t kinh doanh với quy mô nhỏ,tự tạo việc làm cho mình và tạo thu nhập.Khu vực
kinh tế cá thể có vai trò quan trọng trong tạoviệc làm cho ngời lao động với lượng vốn
ít,huy động đợc trong nhân dân.Nừu nh doanh nghiệp nhà nớc chiếm phần lớn các
nguồn lực trong xã hội nhng chỉ thu hút đợc 4,8%lực lợng lao động trong cả nớc,thì
khu vực kinh tế cá thể với nguồn lực ít nhng lại tạo ra việc làm cho hơn 50% số lao
động hiện có.
Trong khi hệ thống ngân hàng Việt Nam cha làm tốt vai trò huy động tiền nhàn
rỗi trong nhân dân,khu vực kinh tế cá thể đã làm nhiệm vụ đa nguồn vốn nhàn rỗi đó l-
u thông trong nền kinh tế thông qua quan hệ họ hàng,quen biết.Sự phát triển của kinh
tế cá thể và tiểu chủ đã tạo ra sự năng động cho nền kinh tế,đáp ứng nhu cầu đa dạng
của xã hội.Tuy nhiên,sự lớn mạnh của khu vực kinh tế này đã thể hiện sự manh mún
và trình độ phát triển thấp của nền kinh tếViệt Nam.
2.5. Kinh tế tư bản nhà nớc
2.5.1. Khái niệm và vai trò
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh
liên kết giữa kinh tế nhà nớc với n trong nớc và ngoài nớc, mang lại lợi ích thiết thực
cho các bên đầu t, kinh doanh.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế t bản nhà nớc là một thành
phần kinh tế, đồng thời là một hình thức kinh tế trung gian quá độ kết hợp chặt chẽ lợi
ích của hai giai cấp đối lập: lợi ích trực tiếp của nhà t bản và lợi ích, mục tiêu XHCN
của giai cấp công nhân. Bởi vậy, với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của thời kì quá
độ, kinh tế tư bản nhà nước được coi là hình thức kinh tế hội tụ đầy đủ, đồng thời cả
hai mục tiêu kinh tế-xã hội giữa tư bản tư nhân và nhà nước vô sản. Kinh tế tư bản nhà
nước hội tụ được nhiều xu thế, nó kết hợp tối sức sức mạnh của nhà tư bản với vai trò,
sức mạnh của nhà nước trong khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát
triển để giành lợi thế cạnh tranh trên thơng trờng. Nó không chỉ là chiếc cầu nối giữa
nhà nước với tư bản tư nhân trong nớc mà còn mở rộng bàn tay nhà nước với tư bản
nước ngoài, hớng chúng vào thực hiện mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của
CNXH và chuyển dần nền sản xuất tiểu nông lên sản xuất lớn.
ở nớc ta, thông qua phát triển kinh tế t bản nhà nớc còn tạo điều kiện cải tạo t
sản dân tộc,củng cố địa vị thống trị của giai cấp công nhân.
Sự tồn tại, vận động, phát triển kinh tế tư bản nhà nớc ở nớc ta là nhu cầu tất
yếu để xây dựng kinh tế thị trờng. Với cơ sở vật chất hiện đại hơn, sản phẩm làm ra
chất lợng hơn nên tạo ra một lợi thế cạnh tranh trên thị trờng lớn.
2.5.2. Thực trạng phát triển
Khu vực kinh tế tư bản nhà nớc đóng góp khoảng 4% cho GDP hàng năm. Đây
cha phải là con số lớn so với sự đóng góp của các thành phần kinh tế khác nhng sự ra
đời của khu vực kinh tế này có nhiều ý nghĩa gián tiếp, thúc đẩy quá trình cải cách
kinh tế ở Việt Nam. Trong thời kì đầu thu hút đầu t nớc ngoài, khu vực này
là đường dẫn cho đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và đồng thời là kênh truyền dẫn
những kiến thức quản lý và công nghệ, tác động tích cực đến doanh nghiệp nhà nớc,
đối tác trong liên doanh.
Có nghiên cứu cho rằng, trong tương lai, thành phần kinh tế t bản nhà nớc sẽ
phát triển mạnh hơn do: Thứ nhất, các thành phần kinh tế khác muốn liên doanh với
kinh tế nhà nớc để tìm chỗ dựa và yên tâm phát triển lâu dài. Thứ hai, nhà nớc có thể
định hớng phát triển khu vực tư nhân thông qua liên doanh và liên kết với khu vực
này. Trờng hợp này rất có thể xảy ra, nhất là trong tình hình hiện nay khi khu vực kinh
tế nhà nớc đang đợc hởng nhiều u đãi từ phía nhà nớc. Hơn nữa, hiện nay chúng ta
đang có chính sách thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc.
2.6. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
2.6.1. Khái niệm và vai trò
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp có thể có 100%
vốn nước ngoài ( một thành viên hoặc nhiều thành viên ) , có thể liên kết, liên doanh
với doanhnghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước ta.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vị trí quan trọng trong nền kinh tế của
nước ta. Trong mười năm qua (1991-2000) các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài phát triển khá nhanh. Giá trị sản xuất tăng bình quân 22% một năm. Trong 5
năm (1996-2000) , vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện khoảng 10 tỷ USD,
chiếm 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước
ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, trên 22% kinh ngạch xuất
khẩu và đóng góp trên 10% GDP chung của cả nước
Đảng và nhà nước ta đã khẳng định: “Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư
của nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện
môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài”.
2.6.2. Thực trạng phát triển
Từ năm 1987 đến nay, vị trí của khu vực này trong nền kinh tế ngày càng được
cải thiện và đóng vai trò quan trọng. Năm 2002, mức đóng góp của kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài là 14% GDP. Đến năm 2003, cả nước có trên 4500 dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng kí là 42 tỷ USD, trong đó
vốn thực hiện 25 tỷ USD, chiếm khoảng 18% trong tổng vốn đầu tư phát triển của nền
kinh tế. Khu vực kinh tế này thường đầu tư vào các ngành kinh tế có công nghệ cao,
hiện đại, theo định hướng xuất khẩu. Năm 2003, nếu tính cả dầu thô, xuất khẩu của
khu vực kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài đạt khoảng 7,5 tỷ USD,chiếm trên 50%
tổng kinh ngạch xuất khẩu của cả nước.Đầu tư nước ngoài hiện thu hút trên 45 vạn lao
động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp và hàng chục vạn lao động làm việc
trong các khu xây dựng,cung ứng dịch vụ với gần 10000 cán bộ quản lý và 5 vạn cán
bộ kĩ thuật.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn góp phần rất lớn vào ổn định kinh tế vĩ
mô, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Khu vực này hướng vào sản xuất,
kinh doanh hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao.
Phần lớn các ngành có công nghệ cao, hiện đại đều do doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài chiếm giữ như khai thác dầu khí, lắp ráp ô tô, xe máy, công nghiệp điện
tử, thiết bị văn phòng. Năm 2002, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 100% sản
xuất dầu thô,hơn 90% sản xuất,lắp ráp ô tô,máy giặt,điều hoà nhiệt độ,hơn 80% trong
sản xuất và lắp ráp xe máy và tivi,60% sản lượng thép
Theo chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010,trong 5 năm 2001-2005,Việt Nam
sẽ phải thu hút khoảng9-10 tỷ USD. Tuy nhiên, từ đầu năm 2001 đến tháng 8 năm
2003,cả nước mới thu hút được khoảng 4,58 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài.Nguyên
nhân chính là do mức độ cạnh tranh trong thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày
càng gia tăng,trong khi môi trường đầu tư của Việt Nam hiện nay vẫn chưa đủ hấp dẫn
và thuận lợi.Chính sách và cả thể chế ở Việt Nam hiện chưa thật rõ ràng,minh
bạch,khó có thể dự đoán được do hay thay đổi.Chính vì vậy đã gây cho nhà đầu tư
nước ngoài tâm lý lo ngại vì môi trường đầu tư không ổn định,còn nhiều rủi ro.Nhiều
lĩnh vực còn hạn chế sự tham gia của đầu tư nước ngoài như dịch vụ vận tải nội địa,tài
chính-ngân hàng,bảo hiểm,viễn thông,quảng cáo.
III.Những thành tựu đạt được và khó khăn trong những năm qua và
phương hướng phát triển,giải quyết khó khăn.
1. Những thành tựu đạt được.
Từ năm 1986, nhất là vào đầu những năm 1990 đến nay, thực hiện đường lối, chính
sách đổi mới của Đảng, Nhà nước, các thành phần kinh tế ở Việt Nam phát triển ngày
càng mạnh mẽ, đạt được những thành tựu quan trọng và khẳng định vai trò của mính
trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Có thể khái quát như sau:
Thứ nhất,về sự tăng trưởng của các thành phần kinh tế.Trong những năm qua,
tỷ lệ tăng trưởng của các thành phần kinh tế đạt tốc độ khá cao.
Thực tiễn cho thấy, các thành phần kinh tế của Việt Nam có mức tăng trưởng
khá. Trong đó, giá trị sản xuất công nghiệp tăng mạnh: năm 1995 tăng 114,2%, năm
2001 tăng 114,6%, năm 2002 tăng 111,6%, năm 2003 tăng 116% ( khu vực doanh
nghiệp nhà nước:112,4%, khu vực ngoài quốc doanh:118,7%, khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài:118,3% ). Đây là tín hiệu tốt trong thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở Việt Nam.
Nổi bật là sự tăng trưởng của kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước:tổng
sản phẩm của kinh tế tư nhân tăng 113,2% năm 2001 và tăng 113,9% năm 2002, tổng
sản phẩm của kinh tế tư bản nhà nước tăng tương ứng là113,6% và 114,5%. Đây là
một kết quả rất hợp lý trong phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Thành
phần kinh tế tư nhân phát triển mạnh, chứng tỏ chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đã phát huy được sức mạnh tổng hợp trong dân cư. Thành phần kinh tế tư
bản nhà nước phát triển mạnh, điều đó cho thấy nó tương xứng với vai trò là “cầu nối”
đi lên CNXH trong thời kì quá độ.
Thứ hai, về quy mô vốn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế.Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là giải pháp chính giải phóng lực lượng sản
xuất toàn xã hội, thu hút được các nguồn lực trong dân cư vào sản xuất, kinh doanh.
Điều này thể hiện ở quy mô vốn đầu tư của các thành phần kinh té đều tăng trong
những năm qua.
Riêng thành phần kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư
của nền kinh tế. Đặc biệt, sau khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, kinh tế tư nhân phát
triển mạnh chưa từng có: quy mô vốn đầu tư tăng 23% năm 2001, tăng 28% năm 2002,
tăng 24% trong 9 tháng đầu năm 2003. Tỷ trọng vốn đầu tư của thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh đang ngày càng lớn và chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế.
Năm 2003, trong tổng số vốn đầu tư phát triển, vốn trong nước chiếm 83,2% (vốn nhà
nước chiếm 56,5% và vốn ngoài quốc doanh chiếm 26,7%), vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài chỉ chiếm 16,8% (năm 2002 chiếm 18,5%). Điều đó chứng tỏ rằng, đường
lối, chủ trương phát triển minh tế nhiều thành phần của Đảng và các biện pháp thực
hiện của nhà nước là rất đúng đắn, giải phóng lực lượng sản xuất, thu hút được nhiều
nguồn lực trong dân cư để phát triển đất nước.
Thứ ba, về đóng góp của các thành phần kinh tế.Các thành phần kinh tế
đã góp phần tích cực vào việc giải quyết việc làm trong xã hội trong những năm vừa
qua. Đáng chú ý là, trong 3 năm (2001-2003), lao động trong khu vực kinh tế nhà nước
và tập thể không tăng, trong khi lao động trong các thành phần khác tăng khá, chẳng
hạn như các doanh nghiệp dân doanh đã tạo thêm được trên 1,5 triệu chỗ làm mới kể
từ khi Luật doanh nghiệp được ban hành và có hiệu lực ( năm 2000 ) đến nay.
Quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam
tăng đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu năm 2001 đạt 15,03 tỷ USD, năm 2002 đạt 16,06
tỷ USD, năm 2003 đạt 19,9 tỷ USD ( trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất
khẩu tăng 27,2% , khu vực kinh tế trong nước xuất khẩu tăng 11,7% ). Đặc biệt, khu
vực kinh tế dân doanh ( kinh tế cá thể,tiểu chủ và kinh tế tư nhân ) đóng góp tích cực
trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhất là các mặt hàng thủ công
nghiệp, chế biến nông sản, thuỷ sản.
Các thành phần kinh tế phát triển đã góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước.
Chẳng hạn, trong tổng thu ngân sách nhà nước năm 2000 và 2002, thu từ doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 5,22% và 5,49%, thu từ doanh nghiệp nhà nước là
21,7% và 22,28%, thu từ khu vực công thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh là
6,39% và 6,47%. Đóng góp của các thành phần kinh tế tăng lên trong những năm gần
đây đã chứng tỏ, sức sản xuất của các doanh nghiệp được giải phóng, hiệu quả quản lý,
điều hành của chính phủ, các ngành các cấp đối với các thành phần kinh tế được nâng
cao.
2.Khó khăn chung của các thành phần kinh tế
Nhìn chung, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ở Việt Nam có quy
mô còn khá khiêm tốn, cơ sở vật chất nghèo nàn, công nghệ lạc hậu, thô sơ, sản xuất
thủ công là phổ biến, hạn chế trong tiếp cận nguồn vốn để sản xuất kinh doanh, thị
trường và thông tin về thị trường còn yếu, lao động phần lớn chưa qua đào tạo, trình
độ quản lý doanh nghiệp kém, cụ thể là:
- Tốc độ và chất lượng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy có mức tăng trưởng cao và hoạt động có hiệu quả
nhất nhưng vẫn chưa khai thác hết tiềm năng, chẳng hạn như vẫn chưa huy động một
cách triệt để, có hiệu quả nguồn vốn trong dân. Phần lớn các doanh nghiệp thuộc các
thành phần này còn nhỏ lẻ, kém bền vững.Doanh nghiệp nhà nước có nguồn vốn lớn,
đội ngũ cán bộ có trình độ tay nghề cao (trình độ từ đại học trở lên chiếm gần 80% lao
động có trình độ của cả nước ), nhưng hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp, tốc độ tăng
trưởng chưa cao, chưa tương xứng với nguồn vốn và lao động mà nhà nước đầu tư.
Kinh tế tập thể mặc dù đã được cải tổ và có nhiều khởi sắc, nhưng lực lượng sản xuất
còn yếu, số hợp tác xã làm ăn khá còn ít, số làm ăn trung bình và khá thì lại chiếm tỷ
lệ lớn.
- Số lượng doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chưa nhiều vàchưa
đápứng được yêu cầu phát triển. Cả nước chỉ có trên 5000 doanh nghiệp nhà nước,
khoảng 14207 hợp tác xã, 120000 doanh nghiệp tư nhân, hơn 3000 dự án đầu tư nước
ngoài. Sự phẩn bổ doanh nghiệp theo vùng, lãnh thổ vẫn chưa có nhiều thay đổi. Các
doanh nghiệp vẫn chủ yếu tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và một số ít địa
phương khác có mức độ đô thị hoá cao. Tại các địa phương, đại đa số doanh nghiệp
thường tập trung ở thị xã hay thành phố, số doanh nghiệp ở vùng nông thôn, vùng
sâu,vùng xa chưa nhiều.
- Quy mô vốn của các thành phần kinh tế còn thấp, chưa tương xứng với tiềm
năng và cơ chế đổi mới kinh tế của nhà nước. Theo kết quả điều tra của tổng cục thống
kê, tính đến ngày 1-7-2002, tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp có khoảng 1066,7
nghìn tỷ đồng. Trong đó, doanh nghiệp nhà nước có 625,1 nghìn tỷ đồng, doanh
nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài có 274,5 nghìn tỷ đồng, doanh nghiệp tư nhân có
khoảng 168,1 nghìn tỷ đồng. Với quy mô vốn như vậy, các doanh nghiệp không thể có
đủ sức mạnh cần thiết để đẩy mạnh phát triển kinh tế và hội nhập có hiệu quả.
- Cơ ngành nghề kinh doanh của các thành phần kinh tế còn nhiều bất hợp lý.
Các thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả kinh tế cao kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể,
tiểu chủ thường tập trung ở các ngành thương mại, dịch vụ, ít quan tâm đến các ngành
sản xuất vật chất. Điều đó chứng tỏ rằng, nền kinh tế nước ta còn mhiều biểu hiện của
lối làm ăn nhỏ lẻ, thời vụ, chưa thu hút được hết các nguồn lực để làm ăn lớn, lâu dài
và ổn định.
- Khả năng tiếp cận nguồn vốn của các thành phần kinh tế còn chưa bình đẳng.
Doanh nghiệp nhà nước được nhà nước bảo trợ, cấp vốn đầu tư và được ưu ái trong
vay vốn tín dụng ở ngân hàng. Trong khi đó, các thành phần kinh tế khác, nhất là kinh
tế dân doanh rất khó có thể tiếp cận vốn vay từ các tổ chức tín dụng chính thức, mà
thường phải vay từ các nguồn phi chính thức.
- Hầu hết các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều đang phải đối mặt
với sự yếu kém, cũ kĩ, lạc hậu của thiết bị công nghệ. Phần lớn công nghệ mà
cácdoanh nghiệp đang sử dụng có nguồn gốc từ những năm 60-70 của thế kỉ XX, thậm
chí có cả công nghệ từ những năm đầu thế kỉ XX vẫn còn được sử dụng.
- Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh còn nhiều hạn
chế. Phần lớn giám đốc, cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế nhà nước được trưởng thành từ cán bộ kĩ thuật. Giám đốc doanh nghiệp của các
thành phần kinh tế khác phần lớn là những người có khả năng kinh doanh nhưng chưa
được đào tạo cơ bản.
- Khả năng liên doanh, liên kết của các thành phần kinh tế còn thấp. Phần lớn
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động độc lập, ít có sự liên doanh,
liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệpcùng hiệp hội. Việc liên kết giữa các doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau rất hạn chế. Điều đó phần nào làm giảm
bớt sức mạnh của cả cộng đồng doanh nghiệp, cũng như vai trò chủ đạo của thành
phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam.
Tóm lại, sau gần 20 năm đổi mới, kiên trì thực hiện chủ trương phát triển kinh
tế nhiều thành phần định hướng XHCN, các thành phần kinh tế đã hình thành và phát
triển khá mạnh, nhưng vẫn mang dấu ấn tự phát. Thành phần kinh tế nhà nước được
giao giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và được ưu đãi lớn, nhưng chưa hoàn thành
tốt nhiệm vụ của mình. Sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước chưa đạt hiệu quả
cao. Một số doanh nghiệp nhà nước đã lợi dụng sự ưu đãi của nhà nước để độc quyền
hoặc độc quyền nhóm. Thành phần kinh tế tập thể, sau một thời gian dài chuyển đổi,
đang phát triển trở lại nhưng chưa thể hiện một cách vững chắc vai trò nền tảng của
mình. Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển theo kiểu tự phát, chủ yếu phát triển theo
tín hiệu “bong bóng” của thị trường chứ không dựa vào chiến lược, định hướng phát
triển cụ thể.
3. Các giải pháp trước mắt và lâu dài
Để đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, góp phần vào việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá-
hiện đại hoá đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta, chúng ta cần phải tiến
hành các giải pháp sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển
các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.Thực tiễn cách
mạng nước ta cũng như thực tiễn đổi mới những năm qua chỉ rõ: thiếu sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước thì khả năng chệch hướng XHCN rất có thể
trở thành hiện thực.
Như vậy, phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta
hoàn toàn phụ thuộc vào việc phát huy vai trò của nhân tố chủ quan, trước hết là vai
trò của Đảng và Nhà nước. Do đó, phải cải cách bộ máy Nhà nước, xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước CHXHCN Việt Nam thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Trọng tâm là cải cách nền hành chính Nhà nước, đẩy mạnh chống tham nhũng, buôn
lậu, lãng phí, quan liêu. Đây là việc rất khó khăn, lâu dài, đòi hỏi phải dựa vào khối đại
đoàn kết dân tộc, phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tạo lập thị trường đồng bộ của các yếu tố: sản
xuất, tổ chức, quản lý. Như vậy, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng, hoàn chỉnh luật kinh
tế và thực thi nghiêm luật pháp kinh tế.
Chấn chỉnh và phát triển các hình thức kinh tế tư bản nhà nước, tư bản có vốn
đầu tư của nước ngoài. Nhà nước tạo đều kiện thuận lợi để các hành thức kinh tế này
có điều kiện phát triển và phát huy tối đa hiệu quả của chúng, cải thiện môi trường đầu
tư để tăng cường thu hút vốn. Đồng thời, Nhà nước phải nắm vững và điều khiển, định
hướng hoạt động của chúng để các thành phần kinh tế này không phát triển chệch
hướng XHCN.
Mặt khác, năng lực quản lý của Nhà nước phụ thuộc vào năng lực đội ngũ cán
bộ quản lý. Bởi vậy, cần đặc biệt coi trọng việc đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ cán
bộ quản lý để họ tiếp cận và tham gia chủ động vào các liên doanh trong và ngoài
nước.
Hai là, nắm vững xu hướng vận động của các thành phần kinh tế. Xây dựng
nền kinh tế trong thời kì quá độ tất yếu phải thực hiện nhất quán chính sách phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần. Bởi vậy, chúng ta cần quán triệt sâu sắc và kiên trì quan
điểm của Đại hội IX Nghị quyết Trung ương lần thứ chín, khóa IX. Các thành phần
kinh tế là những bộ phận cấu thành của nền kinh tế thống nhất, cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau. Trong xu hướng vận động chung, thành
phần kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ các thành phần kinh tế tập thể
cần được phát triển mạnh và cùng với thành phần kinh tế nhà nước trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân; các thành phâqfn kinh tế ngoài quốc doanh được khuyến
khích phát triển, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh vì mục đích kinh tế, không hạn chế qui
mô, hoạt động theo pháp luật và theo định hướng của Nhà nước. Vì vậy, cần phải tiếp
tục tháo gỡ những khó khăn, cản trở hiện nay, xóa bỏ phân biệt đối xử, tạo điều kiện
và môi trường kinh doanh lành mạnh cho các thành phần kinh tế.
Ba là, nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước. Để nâng cao
vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nàh nước, chúng ta cần phải thực hiện túc Nghị
quyết Trung ương lần thứ ba, khóa IX về đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nàh nước. Cụ thể, cần tập trung giải quyết
tốt một số việc sau đây:
- Đẩy nhanh tiến độ cố phần hóa donah nghiệp nhà nước và mở rộng việc mua
bán cổ phiếu công khai trên thị trường.
- Tổng kết việc chuyển các công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công
ty mẹ – con; hình thành mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
- Đổi mới việc quản lý với doanh nghiệp nhà nứoc; xóa bỏ bao cấp và những
bảo hộ bất hợp lý; thực hiện đầu tư vốn thông qua công ty tài chính, đưa các doanh
nghiệp nhà nước thật sự đối mặt với các yêu cầu của thị trường và cạnh tranh bình
đẳng trên thị trường.
- Tăng quyền tự chủ kinh doanh cảu doanh nghiệp Nhà nước; nâng cao hiệu quả
hoạt động của các công ty mạnh, hình thành các tập đoàn kinh tế lớn.
- Kiểm soát chặt chẽ các doanh nghiệp nhà nưúơc hoạt động trong lĩnh vực độc
quyền; điều tiết lưọi nhuận độc quyền do nhà nước mang lại.