CHỦ ĐỀ
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC. VẬN DỤNG
MỐI QUAN HỆ NÀY TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nội dung quan trọng nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là vật
chất. Đây được xem là một vấn đề cơ bản của phương diện triết học từ xa xưa cho đến
nay.
Tìm hiểu về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, nghiên cứu sâu xa hơn về mối
quan hệ này sẽ giúp cho con người chúng ta trở nên tích cực hơn, phát huy cách nhận thức
của mọi vấn đề trong cuộc sống thường nhật qua nhiều mặt khác nhau bằng phương diện
khách quan hay chủ quan, giải quyết công việc một cách tối ưu nhất.
Để dẫn đường, tìm hướng cho đất nước Việt Nam ngày càng đi lên thì triết học
Mác – Lênin và quan điểm về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đóng vai trị hết sức
quan trọng. Đây là chỗ dựa lí tưởng để soi đường cho cách mạng đất nước.
Dù là có gần 35 năm phát triển, đổi mới thì Việt Nam tuy có nhiều thành tưu nhưng
những thách thức lớn để tạo một bước nhảy đưa Việt Nam đi lên một cách rõ ràng còn
khá là hạn chế. Vì thế việc làm rõ cơ sở sở lý luận quán triệt, vận dụng mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức vẫn là vấn đề cần thiết, có giá trị lý luận và thực tiễn cao.
Qua những vấn đề trên, nhóm 7 đã tập hợp ý kiến và quyết định chọn chủ đề “Mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Vận dụng mối quan hệ này trong sự nghiệp
đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” làm bài tập lớn cho môn Triết học
Mác – Lênin.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của tiểu luận
Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Phạm vi nghiên cứu: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức và việc vận dụng mối
quan hệ này trong sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của tiểu luận
Đúc kết qua kết quả của việc tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi các quan điểm của triết
học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, bài tiểu luận đã tóm tắt lại và
đưa ra những bài học cần thiết đối với sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay.
Qua những điều đó, tiểu luận có các nhiệm vụ sau:
Trình bày quan điểm của triết học Mác – Lênin về vật chất, ý thức ; mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức; ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này.
Khái quát về các thành tựu đã đạt được cũng như các mặt hạn chế của sự nghiệp
đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày nay.
Đưa ra những bài học từ việc nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đối
với sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay và trau dồi thêm để
hoàn thiện hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích; Phương pháp tổng hợp; Phương
pháp so sánh; Phương pháp thống kê…
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận được kết
cấu thành 2 chương, 4 tiết.
Chương 1: Quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức
Chương 2: Vận dụng quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức trong sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1.1. Khái niệm và cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội
1.1.1. Phạm trù vật chất
Từ cổ chí kim, con người chúng ta ln là một giống lồi mang trong mình sự tị mị
và khát vọng khám phá thế giới xung quang. Một trong những vấn đề được đặt ra lúc bấy
giờ là “Thế giới được sinh ra từ đâu?”. Và để trả lời cho câu hỏi này, các triết gia duy tâm
từ cổ đại đến hiện đại “tuy buộc phải thừa nhận sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng của
thế giới nhưng lại phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của chúng” 1. Họ cho rằng có một
lực lượng tinh thần nào đó đã kiến tạo, xây dựng nên thế giới vật chất xung quang chúng
ta (như là các vị thần linh, thần núi, thần sơng, thượng đế,…). Có thể thấy hầu hết các nhà
triết học duy tâm đã phủ nhận đặc tính tồn tại khách quan của vật chất, thế giới quan duy
tâm rất gần với thế giới quan tơn giáo và nó đã dẫn họ đến với thần học. Trái ngược với
những quan điểm chủ quan của các triết gia duy tâm thì những nhà triết học duy vật lại
thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất và họ cố gắng tìm những yếu tố từ
chính thế giới để giải thích rằng đó là những yếu tố đầu tiên tạo ra thế giới “lấy bản thân
giới tự nhiên để giải thích tự nhiên” 2. Từ thời cổ đại, các triết gia duy vật đã cố gắng giải
thích từ những yếu tố cơ bản nhất. Ở phương Đông, các nhà triết học Ấn Độ cho rằng mọi
thứ trên thế giới đều do 4 yếu tố là đất, nước, lửa, không khí (Tứ đại) tạo thành, cịn
Trung Quốc thì lại cho là vật chất được hình thành từ ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa,
thổ). Ở phương Tây cũng có rất nhiều những quan điểm khác nhau về nguồn gốc của vật
chất: nhà Triết học Thalet quan niệm toàn bộ thế giới vật chất đều khởi nguồn từ nước:
1
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia Hà
Nội – 2021, tr.55.
2
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.55
“Mọi vật đều sinh ra từ nước; thứ nhất bản nguyên của mọi động vật là tinh dịch, mà tinh
dịch thì ẩm ướt; thứ hai, mọi thực vật đều sống bằng nước và đâm hoa kết trái nhờ nước,
sẽ khô héo nếu thiếu nước; thứ ba, bản thân ánh sáng của mặt trời và các thiên thể cũng
tiêu thụ hơi nước, giống như bản thân vũ trụ” 3. Trái ngược với Thalet thì Heraclitus (một
triết gia Hy Lạp) lại cho rằng lửa mới là nguồn gốc sinh ra vật chất: “Thế giới này chỉ là
một đối với mọi cái. Không do một thần thánh hay một người nào đó sáng tạo ra nó,
nhưng nó mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh cửu, như là độ đo của những cái đang
rực cháy, và mức độ của những cái đang lụi tàn”. Đây là hai trong số rất nhiều quan niệm
của chủ nghĩa duy vật phương Tây, nhưng những quan niệm vẫn gặp rất nhiều khó khăn
trong việc giải thích tất cả sự vật, hiện tượng của thế giới và hầu hết chúng đều không thể
khái quát sự ra đời và tồn tại của vật chất. Về sau, hai nhà triết học Hy Lạp cổ đại là
Leucippus (khoảng 500-440 TCN) và Democritos (khoảng 460 – 370 TCN) đã đưa ra
định nghĩa vật chất là nguyên tử, theo họ “Nguyên tử là những hạt nhỏ nhất, không thể
phân chia, không khác nhau về chất, tồn tại vĩnh viễn và sự phong phú của chúng về hình
dạng, tư thế, trật tự sắp xếp quy định tính mn vẻ của vạn vật.” 4. Định nghĩa này được
xem là bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển về phạm trù vật chất, nó khơng lấy một
sự vật, hiện tượng này để giải thích sự vật hiện tượng khác, mà cho rằng bên trong mỗi sự
vật, hiện tượng đều do một thứ cơ bản nhất không thể phân chia và con người chúng ta
khơng thể nhìn thấy, cảm nhận được tạo thành. Song, các nhà triết học duy vật cận đại
vẫn không đưa ra được những khái quát triết học đúng đắn. “Họ thường đồng nhất vật
chất với khối lượng, coi những định luật cơ học như những chân lý không thể thêm bớt và
giải thích mọi hiện tượng của thế giới theo những chuẩn mực thuần túy cơ học; xem vật
chất, vận động, không gian, thời gian như những thực thể khác nhau, khơng có mối liên
hệ nội tại với nhau...”5. Theo dòng chảy của thời gian, với sự ra đời của nhiều phát minh
quan trọng như phát hiện ra tia X (Wilhenlm Conrad Rontgen), hiện tượng phóng xạ của
3
Thales, Wikipedia, .
4
Heraclitus, Wikipedia, .
5
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.57
nguyên tố uranium (Henri Becquerel), khám phá ra chất phóng xạ mạnh là pôlôni và
rađium (Marie Sklodowska và Pierre Curie). Từ những phát hiện đó, đã chứng tỏ rằng
nguyên tử có thể bị phân chia, chuyển hóa và khơng phải phần tử nhỏ nhất. Khoa học thế
kỉ XX, với sự ra đời của hai học thuyết vĩ đại là thuyết tương đối hẹp (1905) và thuyết
tương đối tổng quát (1916) của nhà vật lý thiên tài Albert Einstein đã chứng minh được
rằng “Không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi với sự vận động của vật chất”. Với
những tiến bộ về khoa học nói trên đã làm lung lây, hoang mang, hoài nghi lập trường của
một số nhà duy vật tự phát, siêu hình về tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật và làm cho
nhiều nhà khoa học trược từ chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình sang chủ nghĩa tương
đối và từ đó rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Theo V.I. Lênin thời kì này là “một bước ngoặt
nhất thời”, là “thời kỳ ốm đau ngắn ngủi”, là “chứng bệnh của sự trưởng thành”, là “một
vài sản phẩm chết, một vài thứ cặn bã nào đó phải vứt vào sọt rác” ” 6. Thực chất cuộc
khủng hoảng này là cuộc khủng hoảng về Thế giới quan làm đảo lộn những quan niệm cũ
của khoa học tự nhiên về thế giới. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng là do sự phát triển
nhảy vọt của nhận thức con người khi chuyển từ nhận thức thế giới vĩ mô sang nhận thức
thế giới vi mơ, mà yếu tố chính là do sự phát triển của khoa học đã mở rộng phạm vi
nghiên cứu từ thế giới vĩ mô sang thế giới vi mô. Với sự phát triển của khoa học con
người được cung cấp thêm nhiều tri thức mới về thế giới vật chất. Tuy nhiên đối với quan
niệm của các triết gia siêu hình những tri thức đó làm cho thế giới kì lạ và họ khơng thể
giải thích được thế giới là gì. Và để thốt khỏi tình trạng khủng hoảng này V.I. Lênin cho
rằng “Tinh thần duy vật cơ bản của vật lý học, cũng như của tất cả các khoa học tự nhiên
hiện đại, sẽ chiến thắng tất cả mọi thứ khủng hoảng, nhưng với điều kiện tất yếu là chủ
nghĩa duy vật biện chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”. 7
Trong quá trình đấu tranh chủ nghĩa duy tâm, thuyết bất khả tri và phê phán chủ
nghĩa duy vật siêu hình, máy móc, C. Mác (Karl Marx) và Ph. Ăngghen (Friedrich
6
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ khơng chun lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.58.
7
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.58.
Engels) tuy không đưa ra một định nghĩa, một quan niệm đầy đủ hoàn chỉnh về phạm trù
vật chất nhưng họ đã đưa ra những tư tưởng rất quý báu về phạm trù vật chất. Một là,
phân biệt thế nào là phạm trù vật chất và vật thể cụ thể. Vật chất là một phạm trù bao
quát các thuộc tính chung của mọi sự vật, hiện tượng đang tồn tại cảm tính, là sự thống
nhất hữu cơ giữa tính cụ thể và tính trù tượng. Cần phải phân biệt vật chất với tính cách là
một phạm trù triết học, một khái niệm lớn dùng để nhận thức về thế giới khách quan, nó
khác với những vật thể cụ thể ở điểm nó có tính khái qt hóa, trừu tượng hóa cao mà
thuộc tính chung của nó phải bao qt được mọi sự vật hiện tượng: “chúng ta rất có thể ăn
được trái anh đào và trái mận nhưng chúng ta khơng thể ăn được trái cây vì chưa có ai ăn
được trái cây với tính cách là trái cây” 8. Hai là, con người nhận thức thế giới vật chất
thông qua sự phản ánh của các giác quan về các sự vật hiện tượng cụ thể cảm tính. Từ
những quan điểm quý báu này cùng với những thành tựu rực rỡ của khoa học tự nhiên,
V.I. Lênin đã tổng hợp tồn diện, khái qt hóa và đưa ra một định nghĩa đầy đủ, hoàn
chỉnh về phạm trù vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” 9. Theo định nghĩa trên thì vật
chất chính là một sản phẩm của tư duy nhận thức, của q trình trừu tượng hóa dùng để
chỉ tất cả nhưng gì tồn tại bên ngồi ý thức của con người, độc lập và không phụ thuộc
vào ý thức của con người, là thuộc tính cơ bản, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất và
chính thực tại khác quan đó tác động vào các giác quan của chúng ta giúp chúng ta nhận
thức được nó, cảm giác của chúng ta có thể chép lại, chụp lại. Từ đó cho thấy ý thức
chính là sự phản ánh đối với vật chất, con người có có khả năng nhận thức được vật chất
thông qua các giác quan. Với định nghĩa này, V.I. Lênin đã giải quyết được vấn đề cơ bản
của triết học trên lập trường duy vật biện chứng, khẳng định vật chất là cái có trước, ý
thức là cái có sau và vật chất quyết định ý thức, với khẳng định đó V.I. Lênin đã phê phán
các quan niệm duy tâm, tơn giáo, vì những quan niệm này cho rằng ý thức, cảm giác là
8
9
Biện chứng của tự nhiên, Nxb. Sự Thật – Hà Nội
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.59
cái có trước và nhờ cảm giác, ý thức đó mới cho ra các sự vật hiện tượng (duy tâm chủ
quan) hoặc cho rằng lực lượng tinh thần là có trước trong q trình phát triển tha hóa
thành giới tự nhiên (duy tâm khách quan), đồng thời V.I. Lênin đã phê phán cả thuyết nhị
nguyên vốn cho rằng cả vật chất và ý thức tồn tại một cách độc lập, song song, không cái
nào quyết định cái nào. Và V.I. Lênin cũng khẳng định con người có khả năng nhận thức
được thế giới, và nhận thức này là một quá trình tích lũy từ chưa biết đến biết, từ biết ít
biết nhiều, từ khơng hồn thiện đến hồn thiện hơn, khi con người nhận thức về thế giới
chúng ta bắt đầu từ việc quan sát những sự vật hiện tượng từ đó đi sâu vào tìm hiểu
nghiên cứu tìm ra bản chất thật của sự vật hiện tượng, và từ đó đưa ra nhận thức đúng
đắn về vấn đề, sự vật, hiện tượng. Và từ đây V.I. Lênin đã phê phán thuyến bất khả tri và
thuyết hoài nghi vốn phủ định khả năng nhận thức của con người. Định nghĩa vật chất của
V.I. Lênin đã giúp các nhà triết học và các nhà khoa học thoát khỏi sự khủng hoảng về
Thế giới quan, giúp củng cố tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật, và tạo động lực cho các
nhà khoa học (đặc biệt là khoa học tự nhiên) tiếp tục có niềm tin để nghiên cứu thế giới
giúp con người hiểu biết về thế giới một cách sâu sắc hơn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương thức tồn tại của vật chất
bao gồm cách thức tồn tạo và hình thức tồn tại. Với vận động là cách thức tồn tại, cịn
khơng gian và thời gian là hình thức tồn tại. Vận động theo phạm trù Triết học có nghĩa là
“mọi sự biến đổi nói chung”. Ph. Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật
chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự
thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”10. Vận động là thuộc tín vốn có của vật chất, vật
chất tồn tại bằng cách vận động, dù vật chất tồn tại ở bất kì hình dạng, trạng thái nào thì
nó cũng ln ln trong q trình biến đổi không ngừng. Con người chỉ nhận thức được
sâu sắc, thấu đáo, toàn diện sự vật hiện tượng bằng cách xem xét chúng trong quá trình
vận động. Nhiệm vụ của mọi khoa học thực chất là tìm hiểu, “nghiên cứu sự vận động của
10
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ khơng chun lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.62
vật chất trong các phạm vi, lĩnh vực trình độ, kết cấu khác nhau” 11. Mọi sự vật hiện tượng
là một thể thống nhất, và trong thể thống nhất có kết cấu nhất định của các nhân tố, và
trong thể thống nhất đó chúng ln tác động ảnh hưởng lẫn nhau và gây ra sự biến đổi nói
chung. từ đây có thể nhận thấy rằng sự vận động của vận chất là sự vận động tự thân do
chính những nhân tố, yếu tố bên trong vật chất biến đổi, để dễ dàng hiểu được yếu tố tự
thân vận động của vật chất chúng ta có thể liên hệ thực tế cụ thể như: nếu bạn muốn trở
nên giỏi hơn, muốn áp dụng những kiến thức trên giảng đường vào công việc thì bạn phải
“tự thân” tìm tịi học hỏi, nghiên cứu tạo ra nhận thức cho bản thân từ đó tích kũy kinh
nghiệm để phát triển bản thân. Vật động là thuộc tính tồn tại vĩnh viễn khơng thể tạo ra,
không thể mất đi, điều này đã được các nhà khoa học chứng minh bằng định luật bảo toàn
và chuyển hóa năng lượng. Theo định luật, vận động của vật chất “được bảo toàn về cả số
lượng và chất lượng”. Bảo tồn về lượng có nghĩa là số vận động là khơng thay đổi, nó
chỉ mất đi khi sự vật mất đi và số vận động của sự vật mất đi đó sẽ được một sự vật khác
nhận được. Bảo tồn về chất là bảo tồn về hình thức và khả năng chuyển hóa của cá hình
thức vận động. “Một hình thức vận động cụ thể thì có thể mất đi để chuyển hóa thành
hình thức vận động khác, cịn vận động nói chung tồn tại vĩnh viễn gắn liền với bản thân
vật chất.” 12Thế giới vận chất có nhiều hình thức hoạt động, dựa vào những thành tựu
khoa học tự nhiên đương thời Ph. Ăngghen đã chia vận động thành 5 hình thức hoạt động
chính được xem là cơ bản: vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong
không gian), vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt, của điện tử,….) vận
động hóa học (vận động của nguyên tử,các quá trình hóa hợp, phân giải của các chât,…),
vận động sinh học (quá trình trao đổi chất của cơ thể sống với môi trường), và vận động
xã hội (sự biến đổi thay thế của các hình thái kinh tế xã hơi, và là hình thức vận động cao
nhất). Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp hơn,
trong khi đó các hình thức vận động thấp hơn khơng có khả năng bao hàm các hình thức
vận động ở trình độ cao. Sự vận động không ngừng của vật chất đã bao hàm sự đứng im
11
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ khơng chun lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.63
12
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ khơng chun lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.63
tương đối của vật chất. Vật chất vận động một chắc tuyệt đối vĩnh viễn, còn đứng im chỉ
tồn tài một cách tương đối và tạm thời, chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định với
một hình thức vận động cụ thể nào đó, nói dễ hiểu thì vật chất tồn tại trong một hệ quy
chiếu nhất định. Ví dụ, nếu bạn xem xét giữa ngơi nhà và mặt đất, bạn có thể thấy ngơi
nhà đang đứng im so với mặt đất tuy nhiên nếu mở rộng phạm vi bạn có thể dễ dàng nhận
thấy ngơi nhà đang cùng với trái đất vận động xung quang mặt trời. Vì vậy đứng im chỉ là
một trạng thái vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Nói cách khác
“đứng im là một dạng của vận động, trong đó sự vật chưa thay đổi căn bản về chất, nó cịn
là nó chứ chưa chuyển hóa thành cái khác”. Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại khách
quan, có vị trí, hình thức, kết cấu,… nhất định và tất cả những thuộc tính đó được gọi là
khơng gian. Khơng gian biểu hiện sự cùng tồn tại và tách biệt của sự vật với nhau biểu
hiện ở quảng tính, trật tự phân bố của chúng. “khơng gian là hình thức tồn tại của vật chất
xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau”. Và mọi sự
vật tồn tại trong trạng thái không ngừng biến đổi nhanh, chậm, kế tiếp lẫn nhau,… những
thuộc tính đó được gọi là thời gian. Thời gian đặc trưng cho trình tự diễn biến của các q
trình vật chất, tính tách biệt của những giai đoạn trong q trình đó. “Thời gian là hình
thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá
trình”13. Quan niệm về khơng gian và thời gian cũng có sự khác nhau qua các thời kì. Do
những hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình, Newton đã tin rằng khơng gian, thời gian
là tách biệt với nhau, và tách biệt với vật chất, và ông cho rằng không gian, thời gian, vận
động là những thực thể bên ngoài vật chất và không liên hệ với nhau. Chủ nghĩa duy vật
biến chứng đã phê phán quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và khắc phục những sai
lầm của chủ nghĩa duy vật siêu hình. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng khơng gian
và thời gian có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và chúng gắn liền với vật chất. V.I. Lênin
viết “Trong thế giới, khơng có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động
13
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ khơng chun lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.65
khơng thể vận động ở đâu ngồi khơng gian và thời gian”. 14Khơng gian và thời gian là
hình thức tồn tại của vật chất và nó gắn liền với vật chất nên nó có một số tính chất sau:
Một là, do vật chất tồn tại khách quan, nên ta có thể nhận xét rằng khơng gian và
thời gian cũng có tính tồn tại khách quan.
Hai là, khơng gian là thuộc tính có chiều dài, chiều rộng, chiều cao nên ta có thể nói
khơng gian có tính ba chiều. Thời gian thì chỉ có một chiều đó là chiều từ q khứ đến
tương lai.
Ba là, tính vĩnh cửu vơ tận. Do vật chất tồn tại vĩnh viễn và vô tận, nên ta có thể nói
rằng khơng gian có tính vơ tận và thời gian có tính vĩnh cửu
1.1.2. Phạm trù ý thức
Ý thức và vật chất đều là những phạm trù cơ bản được các nhà triết học theo các
trường phái khác quan tâm nghiên cứu, nó được xem là “cơ sở để hình thành các trường
phái triết học khác nhau, hai đường lối cơ bản đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm”. Để lý giải nguồn gốc của ý thức, chủ nghĩa duy tâm cho rằng “ý thức là
nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biên
đổi của thế giới vật chất”. Trái ngược với chủ nghĩa duy tâm, các nhà triết học duy vật đã
phụ nhận tính chất siêu tự nhiên, tự sinh ra của ý thức, nhưng do trình độ tri thức, nhận
thức cũng như sự phát triển của khoa học lúc bấy giờ vẫn còn nhiều hạn chế, và bị chi
phối bởi phương pháp siêu hình nên mắc nhiêu sai lầm khi quan niệm về ý thức. Họ cho
rằng ý thức là một dạng vật chất đặc biệt nào đó và do vật chất sinh ra. Từ những sai lầm,
hạn chế này mà các giai cấp bóc lột, thống trị lấy đó làm “cơ sở lý luận, công cụ để nô
dịch tinh thần quần chúng lao động”. Khi khoa học tự nhiên phát triển, dựa vào những
thành tựu có được, các nhà triết học theo chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm rằng ý
thức xuật hiện là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử, đồng
thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội – lịch sử của con người. Theo quan niệm trên
cho ta thấy ý thức có nguồn gốc từ tự nhiên và xã hội. Xét nguồn gốc về tự nhiên, có thể
14
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.66
nói ý thức chính là thuộc tính của vật chất, tuy nhiên thuộc tính này khơng dành cho mọi
dạng vật và là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất, và đó chính là
bộ óc người. Bộ óc con người có thể nói là một thứ vật chất có kết cấu phức tạp tinh vi
nhất trong các giống lồi sống trên trái đất. Bộ óc của chúng ta bây giờ là kết quả, là sản
phẩm của q trình tiến hóa lâu dài, chúng có cấu tạo rất phức tạp bao gồm khoảng 100 tỷ
tế bào thân kinh hay còn được gọi là nơron, và mỗi tế bào thần kinh này lại liên kết với
hàng trăm ngàn tê bào thần kinh khác hình thành một mạng lưới thần kinh có chức năng
thu thập, xử lý, dẫn truyền điều khiển các hoạt động của cơ thể với thế giới bên ngồi
thơng qua các phản xạ có điều kiện lẫn phản xạ không điều kiện. Tuy nhiên, nếu chỉ riêng
bộ não thì khơng thể hình thành nên ý thức. Theo triết học Mác – Lênin, ý thức là kết quả
của sự phản ánh khi bộ não và thế giới khách quan bên ngoài tác động lẫn nhau. Trong
quá trình hình thành và phát triển, năng lực phản ánh của mọi vật chất có chiều hướng
phát triển từ thấp đến cao. Phản ánh là “sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật
chất này ở một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng” 15, do đó
sự phát triển của quá trình phản ánh phụ thuộc vào độ phức tạp của mối quan hệ giữa các
vật chất. Trình độ phản ánh thấp nhất trong hệ thống cấp bậc của phản ánh là phản ánh vật
lý, hóa học, đây là phản ánh của giới tự nhiên vơ sinh vốn có kết cấu đơn giản nên trình
độ phản ánh này mang tính thụ động, chưa có sự định hướng, lựa chọn. Giới tự nhiên hữu
sinh ra đời mang trong mình kết cấu vật chất phức tạp hơn, nên sự phán ánh cũng phát
triển thành trình độ phản ánh sinh học, phản ánh này có tính định hướng,lựa chọn giúp
sinh vật thích nghi với những môi trường sống khác nhau. Phản ánh tâm lý được xem là
trình độ phản ánh cao nhât của các lồi động vật tuy nhiên nó vẫn chưa là ý thức, đây là
trình độ phản ánh mang tính chất bản năng của động vật bật cao sinh ra từ như cầu sinh lí
tự nhiên do cơ thể động vật chi phối. Và hình thức cao nhất của phản ánh đó là trình độ
phản ánh ý thức, đây là hình thức đặc trung chỉ có ở con người, và nó giúp ta tách biệt và
khác hẳn với các loài động sống khác. Từ đó ta có thể nhận xét “sự xuất hiện con người
và hình thành bộ óc của con người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn
15
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ khơng chun lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.70
gốc tự nhiên của ý thức.”16 Tuy nhiên nguồn gốc tự nhiên chỉ là điều kiện cần, nguồn gốc
xã hội mới là yếu tố quyết định sự hình thành nên ý thức của con người. Nguồn gốc này
được thể hiện qua hai yếu tố là lao động và ngôn ngữ. Q trình con người chúng ta dần
sử dụng các cơng cụ lao động tác động vào thế giới vật chất được gọi là lao động. Nhờ lao
động mà con người tiến hóa và tách biệt ra khỏi cách giống lồi khác, lao động giúp cơ
thể người thay đổi từ dáng đi, dáng đứng cho đến bộ não. Khi chúng ta sử dụng công cụ
lao động tác động vào giới tự nhiên đã làm cho giới tự nhiên, làm cho thế giới bộc lộ ra
các thuộc tính, yếu tố, kết cấu và quy luật của nó giúp chúng ta càng lao động càng hiểu
rõ và hiểu một cách sâu sắc về thế giới làm chúng ta nhận thức về thế giới ngày một đầy
đủ và chính xác hơn. Và trên cơ sở của lao động, cùng với lao động và sau lao động đã
hình thành nên ngơn ngữ, trong q trình lao động con người nảy sinh như cầu giao tiếp,
trao đổi thơng tin với nhau và chính thơng qua lao động mới nảy sinh ra ngôn ngữ. Ngôn
ngữ là phương tiện để chúng ta giao tiếp, để truyền tải tri thức, giao lưu, trao đổi tâm tư
tình cảm. Ngơn ngữ giúp tư duy trí tuệ con người ngày càng phát triển, nhờ có ngơn ngữ
con người dần dần tách khỏi, khơng cịn bị lệ thuộc vào các đối tượng vật chất cụ thể.
Về bản chất, theo V.I. Lênin: “Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan, là q trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc
người”17. Ý thức là hình ảnh về hiện thực khách quan trong óc người nội dung phản ánh
của ý thức là khách quan nhưng hình thức phản ánh của nó là chủ quan , thực chất ý thức
là vật chất ở bên ngoài di chuyển vào bên trong đầu óc của con người và được cải biến
trong đó. Nói cách khác “ý thức khơng phải là sự vật, mà chỉ là “hình ảnh” của sự vật ở
trong óc người”18. “Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã
hội” 19nó biểu hiện ở sự trao đổi thơng tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, trên cơ sở
đó con người tạo nên các học thuyết các lý luận, các lý thuyết khoa học. Và những thành
16
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ khơng chun lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.71
17
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.73
18
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.74
tựu đó được vận dụng vào thực tiễn để cải tạo hoạt động thực tiễn cho con người, giúp
con người cải tạo thế giới. Bên cạnh đó ý thức mang bản chất lịch sử xã hôi, qua từng giai
đoạn lịch sử khác nhau thì nhận thức, ý thức của con người là khác nhau gắn liền với điều
kiện lịch sử. Do ý thức là hình ảnh của quan của thế giới khác quan, nên với cùng một sự
vật hiện tượng mỗi người có điều kiện hồn cảnh, nhu cầu, nguyện vọng, sở thích khác
nhau, trình độ, năng lực khác nhau khi thông qua nhận thực, sự phản ánh của mỗi người
sẽ khác nhau. Ph. Ăngghen đã từng chỉ rõ tính chất của phản ánh “Trên thực tế, bất kỳ
phản ánh nào của hệ thống thế giới vào trong tư tưởng cũng đến bị hạn chế về mặt khách
quan bởi những điều kiện lịch sử, và về mặt chủ quan bởi những đặc điểm về thể chất và
tinh thần của tác giả”20
1.2. Mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và ý nghĩa phương pháp luận của mối
quan hệ này
1.2.1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất
là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi
có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì
con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế
giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa
học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có
trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người,
thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngơn
19
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ khơng chun lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.74
20
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ khơng chun lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.74
ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng
tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định
vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên
nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức,
hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động
của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất
không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự
biến đổi của ý thức.
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thơng qua
hoạt động thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trị của ý thức là nói đến vai trị
của con người. Bản thân ý thức tự nó khơng trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực.
Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi
hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trị của ý thức khơng phải trực
tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại
khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương huớng, xây dựng kế
hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu
của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt
động thực tiền của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc
tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có
nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con
người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của
mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích cực cúa ý thức. Cịn nếu ý thức của
con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì
ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan,
hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách
quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết
định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành
công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của
ý thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng
sáng tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác
động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực
tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ
thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người
hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật
chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ con người hiện thực, con người thực tiễn
để xem xét mối quan hệ này. Từ đó khẳng định, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất
quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất thơng qua hoạt động của con người.
Từ đó, ta rút ra được:
Vật chất Quyết định nguồn gốc ý thức: Nghĩa là não người là dạng vật chất cao có
tính chất của vật chất là cơ quan phản ánh để hoàn thành ý thức. Ý thức phụ thuộc vào
hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.
Vật chất quyết định bản chất, nội dung ý thức: Bản chất là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan: nghĩa là ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất và thế giới vật chất
được dịch chuyển vào óc người, được cải biến trong đó. Vì thế, vật chất quyết định cả bản
chất và nội dung. Nội dung là phản ánh thế giới khách quan.
Vật chất quyết định Sự biến đổi ý thức: Ý thức là cái phản ánh, vật chất là cái được
phản ánh khi cái được phản ánh biến đổi thì cái phản ánh cũng phải biến đổi theo.
Nếu phản ánh đúng hiện thực khách quan thì nó sẽ thúc đẩy nó thúc đẩy ngược lại
thì nó cản trở sự phát triển của con người.
Ví dụ: Vào những năm 80 cuối thế kỷ 20, Đảng và nhà nước ta đã xác định được các
vấn đề khách quan làm cản trở sự phát triển của kinh tế nói riêng và tồn xã hội nói
chung. Để phán ánh đúng thực trạng ấy, Đảng và Nhà nước thực hiện chương trình Đổi
Mới. Đổi Mới là một chương trình cải cách tồn diện bao gồm kinh tế và nhiều khía cạnh
khác của đời sống xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 1980.
Đổi mới về kinh tế được Nhà nước Việt Nam định nghĩa là: Quá trình chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Giúp phát triển nền kinh tế vững mạnh và người dân có cuộc sống ấm no hoặc sai
lầm trong cuộc Đại nhảy vọt của Chính phủ Trung Quốc từ năm 1958 tới 1962. Thấy sự
thành công của công cuộc công nghiệp hóa của Liên Xơ, Nhà nước Trung Quốc muốn
chuyển hóa nền kinh tế cơng nơng thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách nhanh
chóng. Chủ tịch Mao đã đặt những mục tiêu không thực tế cho sự phát triển, chính quyền
địa phương do muốn đạt được mục tiêu đề ra đã vắt sạch toàn bộ lương thực và sức lao
động của nông dân, và để họ chết đói. Các quan chức cấp cao khơng dám đi ngược lại
chính sách này mà ngược lại đặt các lý do khách quan khác như khí hậu, mùa màng. Hàng
triệu người dân Trung Quốc khơng có lương thực và chết đói trong giai đoạn này. Tạo nên
cuộc khủng hoảng lương thực trầm trọng.
1.2.2. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Vì vật chất quyết định ý thức, sinh ra ý thức cho nên mọi chủ trương hoạt động nhận
thức, hoạt động con người đều phải xuất phát từ hiện thực khách quan và hoạt động tuân
theo quy luật khách quan, nghĩa là chúng ta phải có quan điểm khách quan trong nhận
thức hoạt động thực tiễn.
Xuất phát từ hiện thực khách quan, không phải từ những cái lẻ tẻ của hiện thực
khách quan, phải xuất phát từ cái chung nhất là quy luật khách quan.
Hoạt động tuân theo quy luật (quan điểm khách quan) là nhận thức sự vật phải
tơn trọng chính nó có, phải phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của sự vật.
Vì ý thức có tính độc lập tương đối, có tính năng động sáng tạo có thể tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động con người, cho nên cùng với xuất phát từ cái hiện thực
khách quan thì phải phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy mặt tích cực ý
thức, hạn chế mặt tiêu cực của ý thức.
Ví dụ: Sau những lần thất bại, khơng được nản lịng mà phải có trách nhiệm tự phê
bình bản thân, đánh giá và xem xét những sai lầm có thể tránh khỏi. Rút ra bài học kinh
nghiệm để từ đó cải thiện bản thân, khắc phục những mặt tiêu cực.
Tục ngữ: Thất bại là mẹ thành công.
Tiểu kết Chương 1
Ý thức và vật chất từ đầu đã được xác định là hai phạm trù cơ bản của Triết học. Tuy là
phạm trù cơ bản nhưng việc định nghĩa, đưa ra những quan niệm đúng đắn về nó lại lấy đi
rất nhiều thời gian của nhân loại, tạo ra những lập trường nhận thức trái ngược nhau, dẫn
đến sự “đấu tranh” lẫn nhau, và cũng nhờ sự “đấu tranh” qua lại đó, cùng với sự phát triển
về mặt khoa học vượt bậc của con người đã giúp chúng ta hiểu rõ được nguồn gốc, bản
chất của vật chất và ý thức. Đồng thời đưa ra nhận định đúng đắn về mối quan hệ giữa hai
phạm trù này. Đó là “Vật chất là thứ có trước, ý thức là thứ có sau, vật chất là nguồn gốc
của ý thức và quyết định ý thức và ý thức tác động lại vật chất qua hoạt động của con
người.
Chương 2
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những thành tựu và hạn chế của sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Những thành tựu của sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay
Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn
thiện và từng bước được hiện thực hố. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới.
Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay….
Thành tựu nổi bật trước hết là về phát triển kinh tế, khi bắt đầu vào công cuộc đổi
mới, tại Hội nghị Trung ương 3 đã xác định “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt” 21, đổi mới tư duy kinh tế, từ đó đổi mới cơ chế chính
sách về kinh tế, chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung hành chính bao cấp
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó, các hoạt động kinh tế giảm bớt
khó khăn và dần phát triển. Nếu như những năm đầu tiên của thời kỳ đổi mới (1986 1990) mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4.4% thì đến giai đoạn (1991 –
1995), GDP bình quân đã tăng gấp đôi đạt 8.2%/năm, giúp nước ta chấm dứt được khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Các giai đoạn sau đó đều đạt được mức tăng trưởng khá cao và đến
năm 2008 thì nước ta thốt khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành quốc gia
21
Văn kiện đại hội Đảng thời kì đổi mới phần I, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, tr.969
có thu nhập trung bình. “ Lần đầu tiên, mục tiêu đưa nước ta thốt khỏi nước kém phát
triển có thu nhập thấp được ấn định bằng mốc cụ thể: năm 2008. Đó là một mục tiêu
xuyên suốt trên 20 năm đổi mới, được vạch ra trong chiến lược phát triển kinh tế thập kỷ
đầu của thế kỷ XXI, nay ngưỡng lịch sử ấy đã cận kề”22. Năm 2020, hầu hết các nền kinh
tế trên thế giới đều tác động, ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid – 19 và Việt Nam
chúng ta cũng không ngoại lệ, tuy nhiên do có sự chuẩn bị, kế hoạch đối phó với đại dịch
từ trước nên GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng tăng trưởng cao
nhất khu vực và thế giới. Khơng chỉ GDP bình qn hằng năm tăng cao mà quy mơ và
trình độ nền kinh tế nước ta cũng được nâng lên đáng kể. “Năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ
USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/ năm”. 23Nổ lực đổi mới trong
35 năm qua của Đảng và Nhà nước đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải thiện,
ngày càng thu hút nhiều vốn đầu tư cho phát triển. “Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây”24. Bên
cạnh đó cách ngành nghề kinh tế có sự chuyển dịch tích cực và phát triển vượt bật góp
phần phát triển vào nền kinh tế của đất nước. “tỉ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản giảm, tỉ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên. Công nghiệp chế
biến, chế tạo phát triển nhanh; cơng nghiệp hỗ trợ có bước phát triển, góp phần nâng cao
tỉ lệ nội địa hoá và giá trị gia tăng của sản phẩm. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ tiếp tục tăng; du lịch phát triển nhanh. Nơng nghiệp có bước chuyển mạnh sang
sản xuất hàng hố, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tiếp tục là
trụ đỡ của nền kinh tế; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển”.25
22
Vượt “ải” nước nghèo thu nhập thấp, Công an nhân dân online, />23
Một số thành tựu nổi bật sau 35 năm đổi mới đất nước, Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Thọ,
/>24
Một số thành tựu nổi bật sau 35 năm đổi mới đất nước, Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Thọ,
/>25
Văn kiện Đại hội Đảng lần XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, tr.24
Bên cạnh sự phát triển về kinh tế thì giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tiếp
tục được đổi mới và có bước phát triển. Các chủ trương đổi mới về giáo dục bước đầu đều
có hiệu quả. Các cơ sở giáo dục và đào tạo được tiếp tục mở rộng quy mô. Chú trọng hơn
về giáo dục và đạo tạo ở những vùng sâu vùng xa, đồng bao dân tộc thiểu số. Các chương
trình giảng dạy, sách giáo khoa mới được ban hành và đẩy mạnh tích cực triển khai. Tiếp
tục mở rộng tăng cường hợp tác quốc tế vè giáo dục và đạo tạo, đồng thời nhân lực chất
lượng cao tăng cả về số lượng và chất lượng. Về khoa học và công nghệ đã từng bước
khẳng định vai trò động lực trong phát nền kinh tế và xã hội. Những thành tựu của khoa
học tự nhiên, cộng nghệ đã góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phầm,
bảo vệ môi trường,…Bên cạnh khoa học tự nhiên, thì khoa học xã hội và nhân văn, lý
luận chính trị đã góp phần trong sự phát triển của tư tưởng, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Về mặt phát triển văn hóa xã hội, con người đã đạt nhiều thành tựu, kết quả quan
trọng. Nhận thức ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn, sự đa dạng và phát triển về các lĩnh
vực, loại hình, sản phẩm văn hóa đã đáp ứng được những nhu cầu mới về nhiều mặt của
đời sống xã hội. Đi đơi với phát triển thì nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn
hóa được kế thừa và phát huy hiệu quả tích cực. Tích cực phê phán, đấu tranh và lên án
những quan điểm hành vi sai trái ảnh hưởng khơng tốt đến văn hóa, lối sống. “Việc phê
phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái
gây hại đến văn hoá, lối sống con người được chú trọng.”26. Các chính sách về dân tộc,
tơn giáo dần được hồn thiện và thực hiện có hiệu quả. Một số mặt khác như an sinh xã
hội, bảo hiểm, hệ thống y tế ngày càng được chú trọng, quan tâm và phát triển. Đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Về mặt quản lý tài nguyên, bảo vệ mơi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu
được chú trọng, bước đầu đạt kết quả tích cực. Các chính sách, các luật được tiếp tục hồn
thiện, tập trung chỉ đạo thực hiện hiệu quả.Kiểm soát chặt chẽ cách nguồn tài ngun và
hạn chế xuất khẩu khống sản thơ. Tập trung đầu tư nghiên cứu và phát triển các nguồn
26
Văn kiện Đại hội Đảng lần XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, tr.25
năng lượng tái tạo ít gây ơ nhiễm mơi trường. Các cơng tác ứng phó với biến đổi khí hậu
phịng và chống thiên tai được tăng cường và bước đầu có hiệu quả.
Về chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường;
quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật.
“Tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng;
sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và lực lượng
vũ trang”27. Từng bước hiện đại hóa các lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân.
Kiên quyết đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo
an ninh trật tự an tồn xã hội. “Vị thế, uy tín, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên
thế giới ngày càng được nâng cao”28.
Bên cạnh những thành tựu trên, sau 35 năm đổi mới toàn Đảng toàn dân ta đã đạt
được những thành tựu sau:
Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa
tiếp tục được phát huy.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức
bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm
thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh
tồn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt
2.1.2. Những hạn chế của sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất
cập. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách trên một
số lĩnh vực cịn thấp. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thơng thống, minh
bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực phát triển. Thể chế phát triển, điểu phổi kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm
được cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết vùng cịn lỏng lẻo.
27
Văn kiện Đại hội Đảng lần XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, tr.26
28
Văn kiện Đại hội Đảng lần XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, tr.27
Năng lực và trình độ cơng nghệ của nền kinh tế nhìn chung cịn thấp. Cơng nghiệp
vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao công nghiệp hỗ trợ phát triển
chạm, tỷ lệ nội địa hóa thấp, hiệu quả tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cịn hạn chế, tốc
độ tăng trưởng nơng nghiệp chậm lại, chịu ảnh hưởng lớn của thiên tai, dịch bệnh, biến
đổi khí hạn; chất lượng nhiều loại hình địch vụ còn thấp
Nhiều doanh nghiệp nhà nước chậm thực hiện cơ cấu lại và đổi mới cơ chế quản
trị; thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cịn gặp một số vướng mắc cả về thể
chế và tổ chức thực hiện; hiệu quả sản xuất kinh doanh cịn thấp; tình trạng nợ, thua lỗ,
lãng phí cịn lớn; việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp cịn hạn chế. Phần lớn doanh
nghiệp tư nhân có quy mơ nhỏ, trình độ cơng nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị
yếu. Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cơng nghệ trung bình, gia cơng, lắp
ráp, thiếu gắn kết, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển.
Đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác còn chậm, nhiều hợp tác xã chưa làm tốt vai trò liên
kết, hỗ trợ kinh tế hộ.
Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hóa, dịch vụ cơng còn lúng
túng. Một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình thành
và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các yếu tố
sản xuất. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển chưa đồng bộ.
Hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả có mặt chưa cao. Vốn vay nước ngồi giải ngân
chậm, sử dụng cịn dàn trải lãng phí Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi cịn thiếu chọn
lọc; sự kết nối và chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp
trong nước còn nhiều hạn chế. Xuất khẩu tăng nhanh nhưng giá trị gia tăng còn thấp; việc
bảo vệ thị trường trong nước, phòng ngừa, xử lý tranh chấp thương mại quốc tế còn bất
cập.
Đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động
lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới từ duy, hoạt động giáo dục và
đào tạo còn chậm, chưa quyết liệt, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; nứt số nhiệm vụ, giải
pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo
chưa cao. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa bảo đảm tính đồng bộ và liên thơng trưa các
trình độ, các phương thức giáo dục và đào tạo. Nội dung, chương trình giáo dục và đào
tạo cịn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo vẫn thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa
học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động. Chưa chú trọng đúng mức
đến phát triển phẩm chất và kỹ năng người học. Giáo dục “làm người", đạo đức, lối sống
còn bị xem nhẹ. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế, xã hội. Đội ngũ nhà giáo và căn bộ quản lý giáo dục, trên một số mặt vẫn
còn bất cập về chất lượng, số lượng, cơ cấu và chính sách đãi ngộ. Quản lý nhà nước và
quản lý - quản trị nhà trưởng còn nhiều hạn chế. Nguy cơ tái mù chữ có xu hướng tăng ở
miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính
sách về phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ cịn hạn chế, thiếu thế chế về tài
chính, chuyển giao, ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ. nhất là công nghệ cao;
thiếu giải pháp đồng bộ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và địa phương. Cơ
chế và chính sách cán bộ trong hoạt động khoa học và cơng nghệ cịn nặng về hành chính
hóa, chưa tạo được mơi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài Đầu tư
cho khoa học và cơng nghệ cịn thấp, hiệu quả chưa cao, năng lực sáng tạo của các nhà
khoa học chưa được phát huy. Chưa có chính sách hợp lý và vay vốn, thuế, hỗ trợ phát
triển, tạo động lực để doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ. Hệ thống thông tin, thống
kê khoa học và công nghệ chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phục vụ việc xây dựng các chiến
lược, chính sách. Bảo hộ sở hữu trí tuệ chưa đạt yêu cầu: chưa gắn kết chặt chẽ giữa khoa
học tự nhiên, khoa học - công nghệ và khoa học xã hội – nhân văn, khoa học lý luận chính
trị để phục vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Lĩnh vực văn hố, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao. Văn hóa chưa
được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực,
động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hóa trong xây
dựng con người chưa được xác định đúng tầm, cịn có chiều hướng coi trọng chức năng
giải trí đơn thuần. Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn phản ảnh sinh
động tầm vóc cơng cuộc đổi mới, có tác dụng tích cực đối với con người. Mỗi trưởng văn
hóa, xã hội tiếp tục bị ơ nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Chênh lệch về
hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền cịn lớn; đời sống văn hóa ở vùng dóng bào dân
tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa cịn nhiều khó khăn. Cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý
văn hóa cịn nhiều lúng túng, chậm trễ trong việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của
Đảng về văn hóa. Đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, cịn dàn trải, hiệu quả chưa cao.
Chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp nghiêm trọng về một số
mặt văn hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội. Hệ thống thơng tin đại chúng cịn
nhiều hạn chế, một số cơ quan báo chí xa rời tơn chỉ và có biểu hiện thương mại hóa;
quản lý mạng xã hội còn bất cập. Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ văn hóa chưa
đáp ứng được nhu cầu phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Việc giới thiệu, quảng bá văn
hóa Việt Nam ra nước ngồi chưa mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại có mặt còn
hạn chế.
Quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được quan tâm
đúng mức, chưa được kết hợp đồng bộ, chặt chế trong q trình phát triển kinh tế, văn
hóa; thể chế quản lý xã hội cịn nhiều hạn chế; tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu
cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội.. ở một số nơi chậm được khắc phục, gây bức xúc trong
dữ luận nhân dân. Giảm nghèo chưa bền vững, chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý vấn
đề phân hóa giàu - nghèo, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập, kiểm sốt và xử lý các mâu
thuẫn, xung đột xã hội. Chất lượng dịch vụ y tế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số cịn nhiều khó khăn, có mặt cịn bất cập. Chính sách tiền lương. thu
nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi xã hội có mặt cịn hạn chế thụ hưởng của
người dân từ thành tựu phát triển của đất nước chưa hài hịa.
Quản lý tài ngun, bảo vệ mơi trường và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu
cịn bất cập. Ý thức chấp hành pháp luật về quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ mơi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu còn thấp. Vai trò,
trách nhiệm các cấp, các ngành, cộng dồng và doanh nghiệp chưa được phát huy đầy đủ.
Văn để xảy ra một số sự cố môi trường gây hậu quả nghiêm trọng. Các chế tài để ngăn
ngừa, xử lý các hành vi vi phạm chưa đủ sức răn đe và thiếu hiệu quả. Quản lý nhà nước
về tài ngun, mơi trường. thích ứng với biến đổi khí hậu trên một số mặt còn lỏng lẻo.