Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

LUẬN VĂN: PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.24 KB, 67 trang )




LUẬN VĂN:

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
NÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG




Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài.
Đà Nẵng là một thành phố có những bước phát triển về kinh tế xã hội vượt bậc
trong những năm gần đây. Định hướng chung của thành phố trong những năm sắp tới là
hướng tới phát triển thành phố một cách bền vững cả về kinh tế và xã hội. Ngành nông
nghiệp của thành phố củng không nằm ngoài xu hướng đó, phát triển bền vững nông
nghiệp sẽ là hướng đi chính trong tương lai. Những năm gần đây, sản suất nông nghiệp
của thành phố đã có những bước tiến đáng kể, tuy nhiên, so với nhu cầu và tiềm năng
thì còn nhiều hạn chế, vì vậy việc xác định rõ những kết quả đã đạt được cũng như
những hạn chế là cần thiết để từ đó có những định hướng và đề ra những giải pháp phát
triển bền vững nền nông nghiệp thành phố nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và đời
sống của nhân dân. Xuất phát từ yêu cầu đó, em đã chọn đề tài “Phát triển bền vững
nông nghiệp Đà Nẵng”
II. Mục đích nghiên cứu.
Đánh giá khái quát thực trạng phát triển nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng.
Tìm hiểu các điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội tác động đến quá trình phát
triển nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng.
Phân tích các yếu tố tác động đến phát triển nông nghiệp thành phố đà nẵng một
cách bền vững.
Định hướng và đưa ra các giải pháp góp phẩn phát triển nông nghiệp thành phố


bền vững trong tương lai.
III. Bố cục đề tài nghiên cứu.
Bố cục của đề tài bao gồm:
- Phần 1: Cơ sở lý luận chung về nông nghiệp và phát triển bền vững
nông nghiệp
- Phần 2: Thực trạng phát triển của nông nghiệp thành phố Đà Nẵng.
- Phần 3: Những giải pháp và kiến nghị phát triển bền vững nông
nghiệp Đà Nẵng.
IV. Phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu: Áp dụng kết hợp nhiều phương pháp như: so sánh,
thống kê, phân tích đánh giá để làm rỏ vấn đề nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tập trung chủ yếu trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng. Bên cạnh đó có nêu thêm kinh nghiệm phát triển bền vững nông nghiệp của
một số địa phương .
Trong quá trình nghiên cứu dù đã tích cực tìn hiểu về lý luận củng như thâm
nhập thực tế để làm rỏ vấn đề nhưng với hiểu biết còn hạn chế của minh nên không
tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót, rất mong được sự quan tâm, góp ý của thầy cô và
các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đở của giáo viên hướng dẩn thạc sỉ Lê Bảo
đã tận tình hướng dẩn em hoàn thành đề tài trong suốt thời gian thực hiện để tài.
Em xin chân thành cảm ơn các cô (chú), anh (chị) tại phòng Xây dựng cơ bản,
Sở Kế hoạch – Đầu tư thành phố Đà Nẵng đã tạo điều kiện cho em tham gia thực tập và
tìm kiếm tài liệu, số liệu để hoàn thành đề tài nghiên cứu.
















Phần 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
NÔNG NGHIỆP.
I. Nông nghiệp.
1. Khái niệm.
Nông nghiệp là ngành có lịch sử phát triển lâu đời, các hoạt động nông
nghiệp đã có từ hàng ngàn năm nay kể từ khi con người từ bỏ nghề săn bắn và hái
lượm. Do lịch sử lâu đời này mà nông nghiệp thương được nói đến như là nền kinh
tế truyền thống. Ngày nay mặc dù với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật con người đã
sản xuất được những máy móc thiết bị hiện đại nhưng người nông dân vẩn thường
áp dụng những kỹ thuật đã phát triển từ hàng trăm nghìn năm trước để trồng trọt.
2. Đặc điểm vai trò của nông nghiệp.
Nông nghiệp là ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu nhất cho con người. Lương
thực thực phẩm chỉ có ngành nông nghiệp mới sản xuất ra. Trên thực tế phần lớn
các sản phẩm chế tạo có thể thay thế nhưng không có sản phẩm nào có thể thay thế
lương thực. Do đó nước nào củng phải sản xuất hoặc nhập khẩu lương thực để phục
vụ nhu cầu của mình.
Hoạt động sản xuât nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan.
Trước hết nông nghiệp khác cơ bản với các ngành khác ở chổ tư liệu sản xuất chủ
yếu là đất đai, điều kiện tự nhiên. Ngành nào tiến hành sản xuất kinh doanh củng
cần đất đai, nhưng không có ngành nào đất đai đóng vai trò chủ đạo như nông
nghiệp. Gắn liền với vai trò của đất đai là ảnh hưởng của thời tiết. Củng không có

ngành nào, ngoài nông nghiệp phụ thuộc vào sự biến động thất thường của thời tiết
như vậy. Cùng với sự biến động của thời thiết, điều kiện thổ nhưỡng, độ màu mở
của đất đai mổi nơi mổi khác nên việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi và kỹ
thuật canh tác củng khác nhau. Trong nông nghiệp sự khác nhau về chất lượng đất
trồng, khí hậu, nguồn nước sẳn có dẩn đến việc sản xuất chủng loại cây khác nhau
và sử dụng các biện pháp canh tác khác nhau.
Ngành nông nghiệp có đặc điểm là tỷ trọng lao động và sản phẩm trong nền
kinh tế có xu hướng giảm dần. Ở các nước đang phát triển nông nghiệp tập trung
nhiều lao động hơn hẳn với các ngành khác, trung bình thường chiếm từ 60% - 80%
lực lượng lao động xã hội. Ngược lại ở các nước phát triển tỷ lệ này không quá
10%. Về sản phẩm, giá trị sản lượng nông nghiệp ở các nước đang phát triển thường
chiếm từ 30 – 60%, trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ này thường dưới 10%. Sự
biến động này chịu sự tác động của quy luật tiêu dùng sản phẩm và quy luật tăng
năng suất lao động.
3. Tác động của nông nghiệp đến tăng trưởng và phát triển.
Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đặc biệt với các
nước đang phát triển
Khu vực nông nghiệp củng có thể là một nguồn cung cấp vốn cho phát triển
kinh tế. Ở các nước không giàu tài nguyên (như dầu hỏa) thì nông sản đóng vai trò
quan trọng trong xuất khẩu, và ngoại tệ thu được sẽ dùng để nhập khẩu máy móc,
trang thiết bị cơ bản và những sản phẩm trong nước chưa sản xuất được. Trừ một số
ít nước dựa vào nguồn tài nguyên phong phú (dầu mỏ, khoáng sản ) để xuất khẩu,
đổi lấy lương thực cho nhu cầu tiêu dùng của dân số nông thôn củng như thành thị.
Nông nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh tế. Với hơn 70%
dân số ở nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dự trử dồi dào cho khu vự thành thị.
Để đáp ứng nhu cầu lâu dài về mặt phát triển kinh tế, việc gia tăng dân số ở khu vực
thành thị sẽ không đủ khả năng đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hóa đất nước.
Là ngành cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Các sản phẩm của
ngành nông nghiệp là nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào quan trọng của công
nghiệp chế biến qua đó sẽ nâng cao giá trị của nông sản trên thị trường đặc biệt là

hướng vào sản phẩm xuất khẩu.
Tạo việc làm cho đa số lao động nông thôn. Nông nghiệp tạo ra thu nhập
chính cho bộ phận dân cư ở nông thôn.
4. Tác động môi trường của nông nghiệp.
Trong khi sử dụng (và thường sử dụng chưa hợp lý) các nguồn tài nguyên
thiên nhiên nông nghiệp có thể gây ra các tác động môi trường tích cực hoặc tiêu
cực. Đến nay, nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều nước nhất và làm cho nguồn
nước ngày càng khan hiếm. nông nghiệp là yếu tố chính làm suy kiệt nguồn nước
ngầm, ô nhiểm hóa chất nông nghiệp, bạc màu đất và thay đổi khí hậu toàn cầu khi
chiếm tới 30% lượng phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên nông nghiệp củng là nới
cung cấp chính các dịch vụ môi trường thường không được công nhận và không
được trả tiền như cố định cacbon, quản lý lưu vực sông và bảo tồn đa dạng sinh học.
Với tình trạng khan hiếm nguồn tài nguyên ngày càng gia tăng, thay đổi khí hậu dẩn
đến những quan ngại về sự biến đổi môi trường và cái giá phải trả trong tương lai,
kiểu nông nghiệp hiện nay không phải là một cách hay. Quản lý các mối quan hệ
giữa nông nghiệp, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường là một phần không
thể tách rời khỏi nông nghiệp vì sự phát triển.
II. Phát triển bền vững và phát triển bền vững nông nghiệp.
1. Khái niệm.
Để duy trì sự sống của bản thân và tiếp tục sự phát triển của nòi giống, ngay
từ thời kỳ nguyên thuỷ của lịch sử nhân loại, con người đã có những hoạt động khai
thác tài nguyên thiên nhiên, chế biến thành những vật phẩm cần thiết cho mình,
hoặc để cải thiện những điều kiện thiên nhiên, tạo nên môi trường sống thích hợp
với mình. Trong lúc tiến hành những hoạt động đó, con người ít nhiều đã biết rằng
mọi can thiệp vào tài nguyên thiên nhiên và môi trường luôn luôn có hai mặt lợi, hại
khác nhau đối với cuộc sống trước mắt và lâu dài của con người. Một số kiến thức
và biện pháp thiết thực để ngăn ngừa những tác động thái quá đối với môi trường đã
được đúc kết và truyền đạt từ thế hệ này qua thế hệ khác dưới dạng những tín
ngưỡng và phong tục. Trong các xã hội công nghiệp, với sự phát hiện những nguồn
năng lượng mới, vật liệu mới và kỹ thuật sản xuất tiến bộ hơn nhiều, con người đã

tác động mạnh mẽ vào tài nguyên thiên nhiên và môi trường, can thiệp một cách
trực tiếp và nhiều khi thô bạo vào các hệ thiên nhiên. Để “chế ngự” thiên nhiên, con
người nhiều khi đã tạo nên những mâu thuẫn sâu sắc giữa mục tiêu phát triển của xã
hội loài người với các quá trình diễn biến của tự nhiên. Để đạt tới những năng suất
cao trong sản xuất nông nghiệp, con người đã chuyển đổi các dòng năng lượng tự
nhiên, cắt nối các mắt xích thức ăn vốn có của thiên nhiên, đơn điệu hoá các hệ sinh
thái, sử dụng năng lượng bổ sung to lớn để duy trì những cân bằng nhân tạo mong
manh. Đặc biệt là trong nửa cuối thế kỷ 20, sau những năm hồi phục hậu quả của
thế chiến lần thứ hai, hàng loạt nước tư bản chủ nghĩa cũng như xã hội chủ nghĩa
tiếp tục đi sâu vào công nghiệp hoá, nhiều nước mới được giải phóng khỏi chế độ
thực dân cũng có điều kiện phát triển mạnh mẽ nền kinh tế của mình. Một số nhân
tố mới như cách mạng khoa học và kỹ thuật, sự bùng nổ dân số, sự phân hoá các
quốc gia về thu nhập đã tạo nên nhiều nhu cầu và khả năng mới về khai thác tài
nguyên thiên nhiên và can thiệp vào môi trường. Trật tự bất hợp lý về kinh tế thế
giới đã tạo nên hai loại ô nhiễm: “ô nhiễm do thừa thãi” tại các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển và: “ô nhiễm do đói nghèo” tại các nước chậm phát triển về kinh tế.
Có thể nói rằng mọi vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển.
Nhưng con người cũng như tất cả mọi sinh vật khác không thể ngừng tiến hoá và
ngừng sự phát triển của mình. Đó là qui luật của sự sống, của tạo hoá mà vạn vật
đều phải tuân theo một cách tự giác hay không tự giác. Con đường để giải quyết
mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển, nhưng giữ sao
cho phát triển không tác động một cách tiêu cực tới môi trường. Phát triển đương
nhiên sẽ biến đổi môi trường, nhưng làm sao cho môi trường vẫn làm đầy đủ các
chức năng: đảm bảo không gian sống với chất lượng tốt cho con người, cung cấp
cho con người các loại tài nguyên cần thiết, tái xử lý các phế thải của hoạt động của
con người, giảm nhẹ tác động bất lợi của thiên tai, duy trì các giá trị lịch sử văn hoá,
khoa học của loài người. Hay nói một cách khác đó là: phát triển bền vững (PTBV).
Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại
của con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ
tương lai. Phát triển bền vững là một phương hướng phát triển được các quốc gia

trên thế giới ngày nay hướng tới, đó là niềm hy vọng lớn của toàn thể loài người
PTBV có đặc điểm:
(1) - Sử dụng đúng cách nguồn tài nguyên thiên nhiên mà không làm tổn hại
hệ sinh thái và môi trường
(2) - Tạo ra các nguồn vật liệu và năng lượng mới
(3) - Ứng dụng công nghệ sạch, công nghệ phù hợp với hoàn cảnh địa
phương
(4) - Tăng sản lượng lương thực, thực phẩm
(5) - Cấu trúc và tổ chức lại các vùng sinh thái nhân văn để phong cách và
chất lượng cuộc sống của ngươì dân đều thay đổi theo hướng tích cực
Mục tiêu cuối cùng của PTBV là thỏa mãn yêu cầu căn bản của con người,
cải thiện cuộc sống, bảo tồn và quản lý hữu hiệu hệ sinh thái, bảo đảm tương lai ổn
định. PTBV thực hiện và đảm bảo sự liên đới giữa các thế hệ, giữa các quốc gia,
giữa hiện tại với tương lai. PTBV có tính chất đa diện, thống nhất, toàn bộ. Muốn
PTBV phải lồng ghép được 3 thành tố quan trọng của sự phát triển với nhau: phát
triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là nguyên lý chung để
hướng sự phát triển bền vững của các lĩnh vực trong nền kinh tế.
Cùng với định nghĩa về PTBV, khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững
cũng hình thành. Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, những vấn đề đặt ra chủ
yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp: bảo vệ môi trường đất, nước và khởi xuớng
một số hệ thống canh tác bền vững. Mục đích của nông nghiệp bền vững là kiến tạo
một hệ thống bền vững về sinh thái, có tiềm lực về kinh tế, có khả năng thoả mãn
những nhu cầu của con người mà không huỷ diệt đất đai, không làm ô nhiễm môi
trường. Thông tin về các mô hình canh tác tổng hợp, canh tác bền vững trên đất dốc,
phòng trừ sâu bệnh tổng hợp…
Phát triển Nông nghiệp và bền vững là quá trình đa chiều bao gồm: (i) tính
bền vững của chuỗi lương thực (từ người sản xuất đến tiêu thụ, liên quan trực tiếp
đến cung cấp đầu vào, chế biến và thị trường); (ii) tính bền vững trong sử dụng tài
nguyên đất và nước về không gian và thời gian; (iii) khả năng tương tác thương mại
trong tiến trình phát triển nông nghiệp và nông thôn để đảm bảo cuộc sống đủ, an

ninh lương thực trong vùng và giữa các vùng.
Các khái niệm về phát triển nông nghiệp bền vững
a. Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại nhưng vẫn đảm
bảo khả năng phát triển ấy trong tương lai.
b. Phát triển nông nghiệp bền vững là gia tăng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu
lương thực, thực phẩm càng cao và đảm bảo cho giá giảm dần.
c. Phát triển nông nghiệp bền vững là nên duy trì trình độ sản xuất cần thiết đáp
ứng nhu cầu tăng dân số mà không làm suy thoái môi trường.
d. Phát triển nông nghiệp bền vững là duy trì sự cân bằng giữa sự tăng trưởng
và cân bằng sinh thái.
e. Phát triển nông nghiệp bền vững được hiểu là tối đa hoá lợi ích kinh tế trên
cơ sở ràng buộc bởi duy trì chất lượng của nguồn lực tự nhiên theo thời gian
và tuân thủ các quy luật sau:
- Đối với tài nguyên tái sinh thì sử dụng ở mức thấp hơn hoặc bằng
- Đối với tài nguyên không tái sinh thì tối ưu hoá hiệu quả sử dụng chúng
bằng giải pháp hợp lý từ các yếu tố đầu vào ( phân bón, kỹ thật canh tác…)
f. Phát triển nông nghiệp bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu tăng trưởng
chung của nền kinh tế nhưng không làm suy thoái môi trường tự nhiên – con
người và đảm bảo trên mức nghèo đói của người dân nông thôn.
g. Phát triển nông nghiệp bền vững là đảm bảo an ninh lương thực, tăng cải tổ
kinh tế khắc phục nghèo đói và tạo điều kiện tăng tốc công nghiệp hoá.
h. Phát triển bền vững được hiểu là giữ vững tốc độ tăng trưởng về sản xuất lẫn
y tế và giáo dục qua nhiều năm hay thập kỷ.
i. Phát triển nông nghiệp bền vững là cực đại hoá phúc lợi hiện tại không làm
giảm thiểu các phúc lợi ấy trong tương lai.
j. Phát triển nông nghiệp bền vững là hướng phát triển mà trong đó giá trị của
vốn thiên nhiên không bị suy giảm qua thời gian.
2. Những nguyên lý của canh tác bền vững
2.1 Quản lý đất bền vững
Tài nguyên đất là điều kiện thiết yếu để trồng trọt. Nhu cầu ngày càng tăng

của con người về đất và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác đang làm nảy sinh
những cạnh tranh và mâu thuẫn. Nếu muốn làm thoả mãn nhu cầu đòi hỏi của con
người một cách lâu bền, chúng ta phải giải quyết những mâu thuẫn đó, và tìm cách
sử dụng đất và các tài nguyên thiên nhiên khác một cách có hiệu quả và hiệu suất
hơn.
Mục tiêu là để làm cho đất được sử dụng theo những cách đảm bảo thu được
những lợi ích lâu bền lớn nhất. Cách để làm giảm thiểu các mâu thuẫn và đạt được
kết quả tốt nhất và sự lựa chọn thích hợp nhất là phải liên kết để phát triển kinh tế
và xã hội với vấn đề củng cố và bảo vệ môi trường. Hơn nữa trong hoàn cảnh phải
thoả mãn nhu cầu nuôi sống số dân đang tăng nhanh mà quỹ đất trồng trọt, nguồn
nước ngày càng cạn kiệt và chúng ta không được quyền mở rộng trên những diện
tích không phù hợp.
Quản lý đất bền vững tuỳ thuộc vào từng loại đất cụ thể. Ở những nơi đất ổn
định, phì nhiêu thì việc trồng cấy và quản lý canh tác sẽ theo phương thức bền vững,
bù đủ lượng dinh dưỡng trong các sản phẩm thu hoạch và cây trồng mang theo. Còn
những vùng đất xấu cần xác định những phương thức quản lý và sản xuất thích hợp.
. Biện pháp quản lý đất bền vững nhằm tránh sự thoái hoá đất, duy trì độ phì chính
dựa vào Quy trình quản lý tốt nhất (Best Management Practice - BMP). Quy trình
này bao gồm :
- Bảo vệ cấu trúc đất và hàm lượng hữu cơ của đất
- Quản lý dinh dưỡng
- Bảo vệ đất bằng cây che phủ
- Trồng rừng
- Duy trì độ phì đất
Sử dụng những phương pháp canh tác tiến bộ (làm đất và sử dụng máy móc,
đặc biệt ở những vùng dễ bị tổn thương) và các quy trình gieo trồng thích hợp.
2.2 Quản lý sâu bệnh bền vững
Quản lý sâu bệnh bền vững và nông nghiệp bền vững cùng chung mục tiêu là
phát triển hệ thống nông nghiệp hoàn thiện về sinh thái và kinh tế. Quy trình phòng
trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM) có thể coi như cấu thành chủ đạo trong hệ thống phát

triển nông nghiệp bền vững.
Quản lý sâu bệnh là vấn đề sinh thái. Quy trình phòng trừ dịch hại tổng hợp
(IPM) là phương pháp dựa trên cơ sở sinh thái về mối quan hệ cây trồng/dịch hại để
kiểm soát côn trùng, cỏ dại; xây dựng ngưỡng chấp nhận kinh tế về quần thể gây hại
và hệ thống quan trắc ổn định để phát hiện dự báo dịch hại. Chương trình này gồm
nhiều kỹ thuật như: sử dụng các giống kháng/chống chịu; luân canh; các kỹ thuật
trồng trọt; tối ưu việc sử dụng phòng trừ sinh học; sử dụng hạt giống công nhận; xử
lý hạt giống; sử dụng hạt giống/vật liệu nhân giống sạch bệnh; điều chỉnh thời vụ
gieo trồng; hợp lý về thời gian sử dụng thuốc bảo vệ thực vật; làm vệ sinh đồng
ruộng khi bị nhiễm sâu bệnh
Những biểu hiện thay đổi về quy mô dịch bệnh, mức độ gây hại là sự phản
ánh chính xác phương thức thực hiện và quản lý sâu bệnh. Bước đầu tiên trong việc
phòng trừ dịch hại bền vững cần phải xem xét hệ sinh thái nông nghiệp, những điều
kiện để áp dụng phương thức quản lý phù hợp để phòng trừ sâu bệnh hiệu quả nhất,
bảo vệ thiên địch, những động vật ký sinh…Thực tế, côn trùng cỏ dại và sinh vật
hoang dã là những thành phần của tự nhiên của các hệ sinh thái với những vai trò
được quy định của chúng. Những loại hại này có vai trò cần được đánh giá đúng và
chỉ nên gọi là gây hỗn loạn khi chúng tranh chấp thức ăn hoặc gây hại đến mức con
người không chấp nhận được. Nguyên nhân gây hại theo nhiều tài liệu chính là quá
trình phá vỡ hệ thống sinh thái tự nhiên. Một ví dụ thể hiện rõ nhất sự khác nhau
giữa phương thức canh tác hiện tại và nông nghiệp bền vững là hiện tượng mất cân
bằng trong hệ thống côn trùng sâu hại mà hiện nay thế giới đang phải chịu hậu quả
nặng nề: như dịch châu chấu, dịch sâu róm, chuột hại…
Trong hệ thống sản xuất lương thực, việc thường sử dụng các hoá chất tổng
hợp chứng tỏ là dùng lượng đầu vào với năng lượng rất lớn cho hệ nông nghiệp, và
kèm theo cả những chi phí nhìn thấy và chi phí không thấy được của nông dân và xã
hội. Khái niệm phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM) truyền thống là quản lý sâu bệnh
dựa vào những tương tác giữa chúng với các cá thể khác và môi trường.
Nếu tất cả đều sử dụng rộng rãi thuốc trừ sâu tổng hợp để bảo vệ cây trồng
thì sẽ gây hậu quả không tốt với môi trường, khả năng hồi phục của công trùng, tính

kháng thuốc, tác động có tính gây chết và nửa chết đối với sinh vật, kể cả tác động
đến con người. Những tác động này đang là mối quan tâm của công chúng, mặt
khác với nhu cầu ngày càng tăng của môi sinh sạch (không khí sạch, nước sạch, các
tập tính sống của động vật hoang dã) và thiên nhiên đẹp. Rõ ràng xu hướng giảm sự
phụ thuộc vào hoá chất trong sản xuất nông nghiệp đang được xem là chiến lược đối
với nông dân.
Chiến lược phòng trừ thông qua hệ thống trồng trọt.
Tạo điều kiện cho hoạt tính đất tốt về sinh học và dinh dưỡng (tăng cường sự
đa dạng dưới mặt đất).
Tạo tập tính thuận lợi cho sinh vật có lợi (tăng sự đa dạng trên mặt đất)
Sử dụng các giống cây trồng thích hợp.
Phòng trừ thông qua hệ thống trồng trọt là điều khiển hệ sinh thái ít thuận lợi
cho sự hình thành và phát triển của quần thể côn trùng. Tuy nhiên, vẫn có thể có
những tác động bất lợi có thể do sự phụ thuộc vào biến động của thời tiết và sự
không tuân thủ nghiêm ngặt trong sản xuất.
Duy trì và tăng cường sự đa dạng sinh học của hệ thống canh tác là chiến
lược cơ bản của việc phòng trừ thông qua hệ thống trồng trọt. Nhiều thực tế cho
thấy giảm đa dạng sinh học trong hệ thống đã làm bùng phát sâu bệnh và nhiều vấn
đề khác
Có nhiều cách để quản lý và tăng cường sự đa dạng sinh học trên đồng
ruộng, cả trên và dưới đất.
Những yếu tố tác động đến đa dạng sinh học và độ phì đất bao gồm hàm
lượng chất hữu cơ tổng số, độ pH, sự cân bằng dinh dưỡng, ẩm độ và thành phần đá
mẹ của đất. Những yếu tố này giúp cây trồng đạt năng suất tối đa và duy trì độ phì
nhiêu của đất. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khi sử dụng quá chất dinh dưỡng
(ví dụ như quá nhiều đạm, hay lượng canxi quá gấp 2 lần Mg so với hàm lượng tổng
số cân bằng của chúng) trong đất sẽ tạo ra những phản ứng của côn trùng đối với
cây. Chính sự mất cân bằng trong đất cũng là những yếu tố hấp dẫn côn trùng, làm
cây khó có khả năng hồi phục sau khi bị hại và tăng sự mẫn cảm đối với các loại
côn trùng phụ từ các nguồn khác. Khi đất ở trạng thái giàu chất dinh dưỡng sẽ có xu

hướng ngăn cản nguồn bệnh. Ước tính có khoảng 75% các loại côn trùng sống trong
đất cũng như nhiều loại thiên địch. Nói chung đất tốt với sự đa dạng sinh học có thể
giúp duy trì quần thể côn trùng dưới ngưỡng kinh tế.
2.3 Quản lý công nghệ sinh học
Công nghệ sinh học là quá trình sử dụng các kiến thức truyền thống và công
nghệ hiện đại nhằm làm thay đổi vật chất gien trong thực vật, động vật, vi sinh vật
và tạo ra các sản phẩm mới.
Mặc dù nông dân đã tiến hành những kỹ thuật về công nghệ sinh học theo
nghĩa rất rộng (ví dụ như chọn tạo giống cây con để có những sản phẩm theo ý
muốn) từ hàng nghìn năm, và đến gần đây việc mở mã di truyền đã đưa ngành khoa
học này sang kỷ nguyên hoàn toàn mới. Công nghệ di truyền khác đáng kể so với
các kỹ thuật công nghệ sinh học truyền thống vì người ta có thể tổ hợp AND từ một
loài khác để tạo ra một cơ thể mới (gọi là sinh vật biến đổi di truyền – GMO). Liệu
rằng công nghệ này có tương thích với nền nông nghiệp bền vững không? Và nếu
tương hợp thì sẽ theo phương thức nào? liệu có khơi nguồn cho những cuộc tranh
luận dài trong tiến trình phát triển nông nghiệp bền vững. Sự chấp nhận sản phẩm
và những rủi ro công nghệ liên quan đến an toàn thực phẩm (ảnh hưởng đến sức
khoẻ con người, hàm lượng độc tố, ô nhiễm môi trường di truyền…).
Công nghệ sinh học đáp ứng các cơ hội mới cho sự đối tác mang tính toàn
cầu giữa các nước giàu về kiến thức công nghệ này với các nước đang phát triển
giàu về tài nguyên sinh vật nhưng thiếu vốn và kiến thức để sử dụng các tài nguyên
đó. Điều quan trọng là kỹ thuật mới phải không được làm phá vỡ tính tổng hoà về
môi trường hoặc làm tăng thêm các mối đe doạ cho sức khoẻ. Nhân dân phải nhận
thức được những lợi ích và những rủi ro của công nghệ sinh học. Ðó là một nhu cầu
đòi hỏi đối với những nguyên tắc đã được thoả thuận quốc tế về đánh giá rủi ro và
quản lý mọi khía cạnh của công nghệ sinh học.
Công nghệ sinh học cần phải được phát triển nhằm nâng cao năng suất và
chất lượng lương thực thực phẩm và các sản phẩm chăn nuôi. Phát triển các loại
vacxin và kỹ thuật phục vụ cho việc phòng chống sự lan truyền của bệnh tật và chất
độc. Nâng cao sức chống chịu trong các điều kiện bất thuận, áp dụng các kết quả

của công nghệ sinh học để giảm thiểu nhu cầu sử dụng hoá chất trong nông nghiệp.
Ðóng góp làm màu mỡ cho đất và làm tăng thêm hiệu suất cho những loài thực vật
sử dụng các chất dinh dưỡng của đất, để làm sao cho nền sản xuất nông nghiệp
không tháo đi mất các chất dinh dưỡng khỏi địa bàn hoạt động.
Cung cấp các nguồn năng lượng tái sinh và các nguyên liệu thô sơ từ các chất
thải hữu cơ và vật chất thực vật. Xử lý các chất thải hoá học hữu cơ theo cách rẻ
hơn và hiệu quả hơn so với các phương pháp truyền thống. Phát triển các giống cây
mọc nhanh có năng suất cao, đặc biệt là cây cho củi đốt. Khai thác tài nguyên
khoáng sản theo cách ít gây ra sự phá huỷ về môi trường.
2.4 Phát triển nông thôn bền vững
Thực tế là số dân nghèo trên thế giới hiện sống tập trung hầu hết ở vùng nông
thôn và phương kế sinh nhai của họ thường gắn với nông nghiệp. Như đã trình bày
ở trên, nông nghiệp là yếu tố tác động chính đến môi trường, gắn chặt với nguồn
nước, sức khoẻ, dinh dưỡng và giáo dục. Những năm gần đây, vai trò của nông
nghiệp đối với sự phát triển nông thôn và đóng góp vào ‘Mục tiêu phát triển trong
thiên niên kỷ mới của Liên hiệp Quốc’ngày càng được nhận thức rõ và đánh giá
cao.
Thúc đẩy sự phát triển nông thôn thông qua nông nghiêp được thể hiện qua
chính sách phát triển của nhiều quốc gia. Nhìn chung, những chính sách đều thể
hiện yêu cầu phải đảm bảo an ninh lương thực cho nông dân, tạo cơ hội cho họ vượt
qua đói nghèo và cân bằng giữa các mục tiêu môi trường, xã hội và kinh tế.
Tuy nhiên, những thách thức vô cùng lớn như những con số thống kê hiện
tại: khoảng 1,2 tỷ người sống thấp hơn 1 đôla mỗi ngày, hơn 800 triệu người trong
cảnh đói. Giảm đói nghèo cả khu vực nông thôn và ven đô tất nhiên sẽ phải dựa cơ
bản vào phát triển nông nghiệp bền vững, và đặc biệt lại trong bối cảnh dân số vẫn
tăng nhanh, quỹ đất trồng trọt giới hạn và khó có khă năng mở rộng diện tích.
Như vậy phát triển nông thôn là lĩnh vực đa ngành, đặt trong mối quan hệ
phức tạp giữa xã hội – tài nguyên thiên nhiên – môi trường bền vững. Không giải
quyết được tận gốc vấn đề an ninh lương thực thì không thể bảo tồn được tài nguyên
đất, bảo vệ được rừng, không thể có những hệ canh tác bền vững vì đó là những kế

sinh nhai của người dân gắn với rừng, với đồng ruộng. Vì thế, phương thức thực
hiện trong phát triển nông thôn của Tổ chức Phát triển Canada (CIDA) đặt ra theo 2
hướng: bền vững về phương kế sinh sống và sự lành mạnh của hệ sinh thái.
- Phương kế sinh sống bền vững: Có thể hiểu đây là tập hợp các hoạt động để
bảo tồn sự sống, tạo ra tài sản và những tiềm năng khác của con người.
- Hệ sinh thái lành mạnh: những tiêu chí của hệ sinh thái này tập trung vào
vấn đề sinh thái và xã hội nhằm tạo cho con người hoạt động theo phương thức bền
vững. Chính cách tiếp cận như vậy đã giúp xác định các chính sách nông nghiệp
đúng, thúc đẩy cộng đồng phát triển, bảo tồn hệ sinh thái.
Hai phương thức này là công cụ thúc đẩy phát triển nông thôn bền vững
thông qua nông nghiệp. Chính từ hoạt động của CIDA mà đã rút ra 5 nguyên tắc
chính trong phát triển nông thôn bền vững: (i) tạo ra những cơ hội cho người nghèo;
(ii) trao quyền cho các nước phát triển và dân của họ; (iii) xây dựng và chia sẻ kiến
thức, kinh nghiệm; (iv) tăng cường mối quan hệ liên kết lẫn nhau và (v) phải đạt
được sự bình đẳng giới.
Kế sinh nhai của dân cư nông thôn phụ thuộc vào sự giàu có của tài nguyên
thiên nhiên bao gồm nước, đất, đa dạng sinh học. Nếu tỷ lệ đói nghèo tăng lên cũng
đồng nghĩa với sự đe doạ tính bền vững của nguồn tài nguyên thiên nhiên có giới
hạn. Tổ chức CIDA khuyến cáo nên hướng dẫn dân thực hiện phương thức canh tác
giảm thoái hoá đất, sử dụng nguồn nước hiệu quả và bảo vệ đa dạng loài.
Tóm lại, tất cả những hoạt động trình bày trên đây tuy chưa đầy đủ và hệ
thống, song tất cả đều thoả mãn đồng thời 3 mục tiêu: kinh tế - môi trường – xã hội.
Ba mục tiêu này tương hỗ với nhau, bổ sung và điều khiển lẫn nhau, cũng chính vì
vậy mà phát triển bền vững là quá trình tổng hoà của nhiều quá trình tương tác và
gắn bó hữu cơ với nhau.
III. Xu hướng phát triển bền vững nông nghiệp.
Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, những vấn đề đặt ra chủ yếu tập
trung vào sản xuất nông nghiệp: bảo vệ môi trường đất, nước và khởi xướng một số
hệ thống canh tác bền vững
Phát triển bền vững đòi hỏi phải đảm bảo sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế,

phát triển xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển nông nghiệp sạch và
nông nghiệp hữu cơ là xu hướng phát triển nông nghiệp hiện đại có tác động tích
cực đến thực hiện yêu cầu phát triển bền vững nông nghiệp và nông thôn.
Nông nghiệp là ngành phải đáp ứng yêu cầu này trong điều kiện quỹ đất
trồng trọt đã khai thác cạn, và lại phải tránh sử dụng những đất ít hoặc không thích
hợp cho sản xuất nông nghiệp
Nền nông nghiệp bảo tồn, nông nghiệp hữu cơ và quản lý sinh học đất tổng
hợp là 3 mô hình đang được Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc thúc đẩy.

IV. Kinh nghiệm của một số địa phương về phát triển bền vững nông
nghiệp.
Tìm hiểu về kinh nghiệm phát triển bền vững nông nghiệp ở một số địa
phương trên sẽ giúp chúng ta nhận thức rỏ hơn về xu hướng củng như cách thức để
phát triển nền nông nghiệp bền vững hơn.
1. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của Đài Loan
Đài loan là một thành phố phát triển, là một trong các trung tâm kinh tế lớn
của Châu Á. Đài Loan và Đà Nẵng có những nét tương đồng, đều là đô thị có diện
tích nhỏ, diện tích đất cho nông nghiệp không lớn, giai đoạn đầu phát triển đều chú
trọng tới phát triển dịch vụ và công nghiệp. Tuy vậy hiên nay Đài loan đã phát triển
rất tốt nông nghiệp không những đáp ứng tốt nhu cầu của địa phương mà còn tạo ra
giá trị lớn phục vụ xuất khẩu.
Về dịch vụ nông nghiệp sinh thái, Đài Loan rất chú trọng phát triển và gọi là
“hưu nhàn nông nghiệp” tức là nông nghiệp nghỉ ngơi, thư giãn là rất cần thiết,
nhưng không nên xây dựng cơ ngơi đồ sộ, cao tầng theo kiểu kiến trúc đô thị. Xây
dựng các cơ sở nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn phải tôn trọng thiên nhiên, hài hòa thiên
nhiên và kiến trúc phù hợp với đặc điểm văn hóa, thẩm mỹ ở từng vùng, cho dù có
thiếu chút ít tiện nghi cũng là bình thường. Tại Đài Loan, các điạ phương và nhà
đầu tư đề xuất chính phủ sau khi duyệt đề án có thể cho vay vốn, xây dựng cơ sở hạ
tầng, hỗ trợ thông tin, tuyên truyền, quảng bá.
Về sản xuất giống và cung cấp các dịch vụ đầu vào, giải quyết tiêu thụ sản

phẩm là cần thiết. Nhưng không nên ôm đồm, tản mạn nhiều loại sản phẩm. Cần tập
trung chọn tạo, nhân giống, xây dựng thương hiệu một số cây giống, con giống mà
đô thị có ưu thế, có thể là các giống hoa, cây kiểng, các cảnh, phù hợp với trình độ
tay nghề, khí hậu, thổ nhưỡng và những đặc điểm sinh học để tránh lai tạp. Đài
Loan rất chú trọng sản xuất máy móc, công nghệ (dây chuyền), các công cụ chuyên
dùng, các loại dinh dưỡng, bảo vệ thực vật nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng và
thiếu nguồn lao động trong sản xuất nông nghiệp nói chung, ngành hoa kiểng nói
riêng. Trong lĩnh vực thu hoạch, bảo quản, sơ chế, vận chuyển cũng vậy, cần đi vào
chuyên môn hóa và tranh thủ thời gian một cách tối đa, nhất là việc tổ chức tiêu thụ
các loại hoa cắt cành (lily, cúc, hồng, layơn,….).
Đài Loan có khoảng 13.000 ha trồng các loại hoa, cây cảnh, tổng doanh thu
ước đạt 500 triệu USD; do điều kiện sống ngày càng được nâng cao, nhu cầu thưởng
ngoạn hoa, cây kiểng, du lịch sinh thái ngày càng tăng lên, nên các sản phẩm từ hoa,
cây kiểng có đến 90% là tiêu thụ trong nước, xuất khẩu chỉ khoảng 50 triệu USD
chủ yếu là hoa lan và một số loại hoa cắt cành. Đài Loan có nhiều trung tâm, chợ
đầu mối do chính phủ đầu tư, xây dựng cơ sở ban đầu và giao cho các tổ chức trong
hiệp hội hoa khai thác dưới hình thức công ty cổ phần. Chợ hoa Đài Bắc rộng 4,6
ha, là một doanh nghiệp cổ phần. Cổ đông bao gồm các nhà kinh doanh (60%), các
nhà vườn, cơ sở sản xuất (40%) và kích thích tiêu thụ nhiều sản phẩm bằng chính
sách ưu đãi cho người bán buôn, các nhà phân phối lớn. Nhờ tác động của hoạt động
kinh doanh, dịch vụ mà ngành hoa kiểng Đài Loan phát triển bền vững và ngày càng
đi vào năng suất, chất lượng, hiệu quả cao.
2. Bài học từ nông nghiệp Hà Lan
Hà Lan là một nước nghèo tài nguyên, diện tích nhỏ song đã xây dựng được
một nền nông nghiệp có tính cạnh tranh cao phát triển bền vững và có hiệu quả cao
nhất thế giới.
Đất đai Hà Lan hiếm hoi, diện tích đất canh tác 910.000ha, đất đồng cỏ
1.020.000ha, diện tích đất canh tác khoảng 0,058 ha/người, là mức thấp nhất của thế
giới. Trên đất lục địa, đất nông nghiệp và phi nông nghiệp có tỉ lệ 30/70. Trong đất
nông nghiệp, tỉ lệ sử dụng để trồng cỏ 51,4%, cây nông nghiệp 41,3%, cây hoa-rau-

cây cảnh 5,7%. Trong đất phi nông nghiệp, rừng chiếm 9,5%, đất ở 6,6%, đất bảo
hộ tự nhiên 4,1%, đất nghỉ 2,4%, đất đường xá 4,0%, đất công nghiệp và xây dựng
3,8%. Hà Lan đả đạt được những thành tựu vượt trội về phát triển nông nghiệp.
- Hiệu suất xuất khẩu nông sản đứng đầu thế giới
Có 9 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng đầu thế giới, 3 mặt hàng
đứng thứ hai thế giới.
- Mức xuất khẩu về nông sản cũng vượt nhiều cường quốc nông
nghiệp thế giới
- Theo cách tính của Bộ Nông nghiệp Mỹ dựa vào "đồng USD quốc
tế" của tổ chức FAO, thì hiệu suất sản xuất của đất ở Hà Lan năm 1991 đạt 2468
USD/ha, hiệu suất lao động đạt 44339 USD/người. Hiệu suất lao động tuy thấp hơn
Mỹ một chút, nhưng hiệu suất đất thì cao hơn hẳn mọi nước trên thế giới
Trên thị trường thế giới, các mặt hàng nông sản của Hà Lan có sức cạnh
tranh cao dựa vào những giải pháp chủ yếu sau đây:
- Dựa vào vốn và kỹ thuật cao, trong đó nổi bật nhất là hoa và cây cảnh là
những ngành sản xuất đòi hỏi nhiều vốn và kỹ thuật, đồng thời phải có một hệ thống
dịch vụ cao cấp mới có thể vận chuyển những mặt hàng này ra nước ngoài. Một thí
dụ khác là về khoai tây, vốn là một loại "thực phẩm bình dân" của thế giới, giá cả
bình thường, nhưng do Hà Lan tạo được giống khoai tây có kích cỡ đều đặn, vỏ
nhẵn bóng được coi là " lương thực thứ hai " được thế giới ưa chuộng, từ đó có thị
trường xuất khẩu ổn định, nhất là cung cấp cho nhu cầu chế biến thức ăn nhanh.
- Đổi mới phương thức sản xuất, để tăng sức cạnh tranh. Hà Lan dùng vốn
và công nghệ cao để thay thế có hiệu quả nguồn quỹ đất hiếm hoi, sử dụng nhà kính
để sản xuất cà chua, dưa, ớt quanh năm, tiết kiệm đất, tăng hiệu suất đất. Phương
thức sản xuất gà đẻ trứng, lợn thịt cũng được cải tiến để bảo vệ môi trường, đảm bảo
yêu cầu sức khoẻ động vật và và chất lượng quốc tế, có hiệu quả cao.
- Tăng giá trị gia tăng nhờ vào chế biến sâu.
Trải qua mấy trăm năm cải tiến các công nghệ truyền thống về chế biến pho
mát, bơ, sữa tạo được uy tín quốc tế. Công nghệ chế biến ca cao, ca phê từ thời kỳ
thực dân vẫn còn phát huy tác dụng trong công nghiệp chế biến hiện nay. Nhiều loại

nguyên liệu không sản xuất được hoặc thiếu thì dựa vào nhập khẩu, thông qua chế
biến sâu, đã vươn ra chiếm lĩnh thị trường thế giới với giá trị gia tăng rất lớn.
V. Những yêu cầu về phát triển nông nghiệp trong tương lai.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn theo hướng
hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn hiệu quả và bềnh vững, có năng suất, chất
lượng cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật công
nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Đưa năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp lên một mức cao hơn,
tăng mức thu nhập cho người nông dân,
- Phát triển mạnh công nghiệp trên địa bàn nông thôn
- Củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn trước hết là mở rộng hệ
thống đường sá, tạo điều kiện cung ứng hàng hóa về nông thôn và tiêu thụ sản
phẩm.
Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ trong nông nghiệp, nhất là công
nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin.
Hình thành các phương thức sản xuất mới có khã năng tận dụng tối đa các
nguồn tài nguyên, thân thiện với tự nhiên và đạt hiệu quả sản xuất cao nhất.


Phần 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

I. Giới thiệu về tình hình kinh tế xã hội Đà Nẵng.
1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên.
Đà nẵng nằm ở trung độ của đất nước, trên trục giao thông Bắc Nam về
đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Đà nẵng cách Thủ đô Hà
Nội 764 km về phía bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 964 km về phía Nam. Ngoài
ra, Đà Nẵng là trung tâm của ba di sản văn hóa thế giới nổi tiếng là cố đô Huế, Phố
cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn. Trong phạm vi quốc tế, Đà Nẵng là một trong

những cửa ngỏ quan trọng ra biển của Tây Nguyên và các nước Lào, Campuchia,
Thái Lan, Myanma Đến các nước vùng Đông Bắc Á thông qua hành lang kinh tế
Đông Tây với điểm kết thúc là cảng biển Tiên Sa. Nằm ngay trên một trong những
tuyến đường biển và đường hàng không quốc tế thành phố Đà Nẵng có một vị trí địa
lý đặc biệt thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững.
Đà Nẵng nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng gió mùa nhiệt đới, chia thành
hai mùa rỏ rệt: mùa khô từ tháng 1 đến tháng 9, còn lại là mùa mưa. Nhiệt độ trung
bình là 25,6
0
C, lượng mưa trung bình hằng năm là 1.992mm, số giờ nắng trung
bình hằng năm là 2.198 giờ, độ ẩm không khí trung bình hằng năm là 82%, hướng
gió thịnh hành là Đông bắc - Tây nam, bảo thường xuất hiện từ tháng 7 đến tháng
11 hàng nặm, cấp bảo lớn nhất lên đến 11, 12. Về sông ngòi có sông Hàn, sông Cẩm
Lệ, Túy Loan, Vĩnh Điện, Cu Đê. Tổng trử lượng nước trên 11 tỷ m
3
.
2. Tài nguyên thiên nhiên.
2.1 Tài nguyên đất
Thành phố có các loại đất khác nhau như: Đất xám bạc màu, đất xám, đất
đen, đất đỏ vàng, đất mùn đỏ vàng, đất cồn các ven biển, đất mặn, đất phèn, đất phù
sa Trong đó quan trọng nhất là nhóm đất phù sa ở đồng bằng ven biển thích hợp
với trồng lúa, trồng rau và hoa quả ven đô; đất đỏ vàng đồi núi thích hợp với trồng
các loại cây công nghiệp dài ngày, cây đặc sản, dược liệu, chăn nuôi gia súc và kết
cấu vững chắc phục vụ xây dựng các cơ sở công trình hạ tầng.
Tổng diện tích của thành phố là 125.654,37 ha, chia theo các loại đất có: đất
nông nghiệp 9.235,56 ha, đất lâm nghiệp 60.989,75 ha, đất chuyên dùng 42.909,38
ha, đất ở 5.561,35 ha, đất chưa sử dụng 6.958,33 ha
2.2 Tài nguyên nước.
* Biển, bờ biển: Đà Nẵng có bờ biển dài khoản 30 km, có vịnh đà nẵng nằm
chắn bởi sườn núi Hải Vân và Sơn Trà, mực nước sâu, thuận lợi cho việc xây dựng

các cảng biển lớn và các cảng chuyển dùng khác. Đà nẵng nằm trên tuyến đường
biển quốc tế nên rất thuận lợi cho việc giao thông đường thủy.
Vùng biển Đà Nẵng có ngư trường rộng trên 15.000 km
2
, có các loài động
vật biển phong phú trên 266 giống loài, trong đó hải sản có giá trị kinh tế cao gồm
16 loài (11 loài tôm, 02 loại mực và 03 loại rong biển) vời tổng trử lượng 1.136.000
tấn hải sản các loại (theo dự báo của bộ thủy sản) và được phân bố ở những vùng
nước có mực nước sâu từ 50-200m (chiếm 48%). Hàng năm có khả năng khai thác
trên 150.000 – 200.000 tấn hải sản các loại.
Đà Nẵng còn có một bờ biển dài với nhiều bải tắm đẹp như Non Nước, Mỹ
khê, Ngủ Hành Sơn, Nam Ô, Xuân Thiều với nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, ở
khu vực quanh bán đảo Sơn Trà có các bải san hô lớn thuận lợi cho việc phát triển
các loại hình kinh doanh du lịch dịch vụ biển.
* Sông ngòi, ao hồ: Sông ngòi của thành phố Đà nẵng đều bắt nguồn từ phía
tây, tây bắc thành phố và tỉnh Quảng Nam. Hầu hết các sông ở Đà Nẵng đều ngắn
và dốc. Có hai sông chính là sông Hàn (chiều dài khoảng 204 km, tổng diện tích lưu
vực khoảng 5.180 km
2
) và sông Cu Đê (chiều dài khoảng 38 km, lưu vực khoảng
426 km
2
). Ngoài ra còn có các con sông như: Sông Yên. Sông Chu Bái, sông Vỉnh
Điện, sông Túy Loan, sông Phú Lộc Thành phố còn có hơn 546 ha mặt nước có
khả năng nuôi trồng các loại thủy hải sả, Với tiềm năng về diện tích mặt nước, tạo
điều kiện tốt để xây dựng các cùng nuôi trồng thủy sản với các loại như: cá mú, cá
cam, tôm sú và tôm hùm.
2.3 Tài nguyên rừng.
Diện tích đất lâm nghiệp trên địa bàn thành phố là 60.989,75 ha, tập trung
chủ yếu ở phía tây và tây bắc thành phố, gồm 3 loại rừng: rừng đặc dụng (22.745

ha) trong đó đất có rừng 15.933 ha; rừng phòng hộ20.895 ha, trong đó đất có rừng
17.468 ha; rừng sản xuất 23.508 ha, trong đó đất có rừng là 18.176 ha.
Rừng ở Đà Nẵng tập trung chủ yếu ở phía tây huyện Hòa Vang, một số ít ở
quận Liên Chiểu, Sơn Trà, Ngủ Hành Sơn. Tỷ lệ che phủ là 49,6%, trữ lượng gổ
khoảng 3 triệu m
3
, phân bố chủ yếu ở nơi có độ dốc lớn, địa hình phức tạp.
Rừng của thành phố ngoài ý nghĩa về kinh tế còn có ý nghĩa nghiên cứu khoa
học, bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển du lịch. Thiên nhiên đã ban tặng cho
thành phố nhiều khu bảo tồn thiên nhiên đặc sắc như: Khu bảo tồn thiên nhiên Bà
Nà, khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà và khu văn hóa lịch sử môi trường Nam Hải
Vân
2.4 Tài nguyên khoáng sản.
Thành phố có các loại tài nguyên như:
 Cát trắng: Tập trung ở Nam Ô, trữ lượng khoảng 5 triệu m
3
.
 Đá hoa cương: ở Non Nước, nhưng để bảo vệ khu di tích nổi tiếng Ngũ
Hành Sơn nên loại đá này đã bị cấm khai thác.
 Đá xây dựng: đây là loại đá khoáng sản chủ yếu của thành phố, tập
trung chủ yếu ở khu vực phía tây, bắc và tây nam thành phố.
 Đá phiến lợp: tập trung chủ yếu ỏ thôn Phò Nam, xã Hòa Bắc. Đây là
loại đá filit màu xám đen, có thể tách ra từng tấm với kích thước (0.5x10)x0.3-0.5m.
Trữ lượng khoảng 500.000m
3
.
 Cát, cuội sỏi xây dựng: cát lòng sông Vĩnh Điện, Túy Loan, sông Yên,
Cầu Đỏ, Cẩm Lệ, Cu Đê, cuội sỏi Hòa Bắc, Hòa Liên.
3. Tình hình kinh tế - xã hội.
Cùng với sự phát triển đi lên của cả nước nói chung thì tình hình kinh tế xã

hội của thành phố Đà Nẵng củng đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ không
ngừng. Tuy chỉ mới thay da đổi thịt trong hơn mười năm trở lại đây nhưng Đà Nẵng
đã từng bước khẳng định được vị trí trung tâm của mình ở khu vực miền Trung -
Tây Nguyên. Với những lợi thế về mặt địa lý, tiềm năng kinh tế, năng lực cạnh
tranh trong thu hút đầu tư, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội. Toàn thể lành đạo
củng như nhân dân thành phố đã và đang hướng tới mục tiêu tự tin vững bước trong
quá trình phát triển chung của cả nước với mục tiêu chính là xây dựng thành phố trở
thành một đô thị văn minh, hiện đại nhưng vẫn bảo đảm được tính bền vững
3.1 Tình hình kinh tế.
Từ 1997 đến nay, cơ cấu ngành của thành phố đã có sự chuyển dịch mạnh
theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp-xây
dựng và dịch vụ. Sự chuyển dịch này là phù hợp với xu thế chuyển đổi cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên điều này chỉ là rất bình
thường do Đà Nẵng là một đô thị lớn, phát triển theo hướng là trung tâm công
nghiệp, dịch vụ của khu vực
Giai đoạn 1997-2000: năm 1997, năm đầu tiên trở thành đơn vị trực thuộc
trung ương, kinh tế thành phố đạt mức tăng trưởng kinh tế khá, ở mức 12,7%. Tuy
nhiên cuối năm 1997, cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á đả tác động xấu đến kinh tế
nước ta, bên cạnh đó do tác động của cơn lủ gây thiệt hại nặng nề nên tốc độ tăng
trưởng của thành phố giảm mạnh trong năm 1998 và tăng chậm trong 2 năm 1999-
2000 (9,5% và 9,9%). Kết quả cả giai đoạn 1997-2000, tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm quốc nội (GDP, giá cố đinh 1994) chỉ đạt bình quân 10,2%/năm, trong đó
thủy sản nông lâm tăng 3,1%, công nghiệp xây dựng tăng trong GDP tăng từ 35,2%
năm 1997 lên 41,3% năm 2000. GDP bình quân đầu người năm 2000 đạt trên 430
USD/người, tăng gấp 1,45 lần so với năm 1997. Giá trị săn xuất các ngành dịch vụ
tăng bình quân 8,47%/năm.
Giai đoạn 2001-2005: Từ năm 2001, thành phố từng bước phát huy nhân tố cơ
chế mới, huy động nguồn lực đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất, vượt qua ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính, khắc phục thiên tai đưa kinh tế tăng trưởng
mạnh trở lại với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên 12% vào năm 2001. Đến năm

2002 là 12,56% và năm 2003 trở thành đô thị loại 1. Thành phố Đà nẵng là trung
tâm của khu vực miền trung tây nguyên đã từng bước hoàn thiện môi trường đầu tư,
moi trường sản xuất kinh doanh theo hướng mở rộng và nâng cao năng lực cạnh
tranh trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh
(năm 2003 là 13,26% ; 2004 là 13,84%; năm 2005 là 14%)














Bảng 1. Một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội TP Đà nẵng (2001-2005)

Chỉ tiêu

ĐVT
Thực hiện 5 năm
T
ốc
đ

tăng

BQ
(%)
2001

2002

2003

2004

2005


1. GDP (giá cố định)

- Tốc độ tăng trưởng
Tỷ
đồng
%
3.804,
9

12,23

4.282,
9

12,56

4.823,

4

13,26

5.462,
8

13,84

6.224,
9

14

13,18
2.

GDP bình
quân đầu người

USD
493

565

687

796

950


3. Cơ cấu GDP
- Nông - lâm - thủy sản
- Công nghiệp - xây
%
100

27,18

28,76

100

24,54

36,73

100

23,45

38,25

100

22,18

39,78

100


2
0,6
41


×