Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MỤC TIÊU,
ĐỐI TƯỢNG CỦA MỞ RỘNG HỢP TÁC QUỐC TẾ
Tô Mạnh Cường, Nguyễn Như Quảng
Trường Đại học Thủy lợi, email:
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải
phóng dân tộc, kiến trúc sư vĩ đại của cách
mạng Việt Nam. Trên hành trình ra đi tìm
cứu nước giải phóng dân tộc và lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, Người đã thấy được sự cần
thiết của mở rộng hợp tác quốc tế với các
nước trên thế giới trên tất cả các lĩnh vực,
nhằm phá bỏ thế biệt lập, xây dựng nền kinh
tế mở, phát huy nội lực bên trong và ngoại lực
bên ngồi, củng cố hịa bình, tình đồn kết
quốc tế, tăng cường sức mạnh dân tộc nhằm
giành và giữ nền độc lập cho dân tộc Việt
Nam. Ngày nay, toàn cầu hóa, hội nhập quốc
tế và tự do hóa thương mại đang là xu thế chủ
đạo của đời sống kinh tế thế giới. Vì vậy, việc
kế thừa, vận dụng, phát triển quan điểm của
Hồ Chí Minh về mục tiêu, đối tượng của mở
rộng hợp tác quốc tế có ý nghĩa rất lớn đối với
quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của
Việt Nam vào nền kinh tế thế giới.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài báo sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng và phương pháp duy vật lịch sử;
phương pháp hệ thống; phương pháp lơgíc và
lịch sử…
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về
mục tiêu mở rộng hợp tác quốc tế
Hợp tác quốc tế là mối quan hệ qua lại
giữa các quốc gia bao gồm nhiều lĩnh vực,
các công việc, những vấn đề cụ thể, được tiến
hành theo những nguyên tắc đã thống nhất
trên cơ sở giúp đỡ lẫn nhau, đồng thuận về
mục đích và lợi ích. Hợp tác quốc tế, diễn ra
trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính trị,
văn hóa, giáo dục, an ninh quốc phịng…
nhưng lĩnh vực trọng tâm nhất là hợp tác về
kinh tế. Từ đó, chúng ta có thể thấy được mục
tiêu của mở rộng hợp tác quốc tế trong tư
tưởng Hồ Chí Minh được biểu hiện như sau:
Thứ nhất, là phá bỏ thế biệt lập, xây dựng
một nền kinh tế mở. Dưới sự cai trị của triều
đình nhà Nguyễn (1802-1945), với chính
sách “bế quan tỏa cảng”, khước từ mọi đề
nghị canh tân của các sĩ phu yêu nước đương
thời, làm cho đất nước ta rơi vào lạc hậu, biệt
lập so với thế giới bên ngoài và bị thực dân
Pháp xâm lược và đặt ách cai trị (1858). Trên
hành trình tìm đường cứu nước giải phóng
dân tộc, Hồ Chí Minh đi đến các nơi trên thế
giới, Người nhận thấy: “nguyên nhân đầu
tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc
phương Đông, đó là SỰ BIỆT LẬP”. Vì vậy,
Người chủ trương “làm cho các dân tộc…từ
trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết
nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho
một Liên minh phương Đông tương lai”.
Ngay sau khi, cách mạng Tháng Tám năm
1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc, Người nói:
“Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam
sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp
tác trong mọi lĩnh vực:… tiếp nhận thuận lợi
cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật
nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ
của mình… sẵn sàng mở rộng các cảng, sân
bay và đường sá giao thông cho việc buôn
bán và quá cảnh quốc tế… tham gia mọi tổ
chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo
của Liên hợp quốc”. Thứ hai, mở rộng hợp
tác quốc tế là thu hút ngoại lực, kết hợp với
nội lực bên trong tạo thành sức mạnh tổng
hợp để xây dựng, phát triển đất nước. Thứ ba,
mở rộng hợp tác quốc tế cũng là để thực hiện
phương châm “thêm bạn bớt thù”, đoàn kết
quốc tế, củng cố hịa bình thế giới, tranh thủ
276
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3
sự ủng hộ của quốc tế để giành và giữ vững
nền độc lập nước nhà, tăng cường tiềm lực,
sức mạnh dân tộc nhằm bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, có thể thấy rằng mục đích cuối
cùng của mở rộng hợp tác quốc tế trong tư
tưởng Hồ Chí Minh hướng tới không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân; bảo vệ và giữ vững độc lập cho Tổ
quốc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
3.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đối
tượng mở rộng hợp tác quốc tế
3.2.1. Đối với các nước tư bản chủ nghĩa
Xuất phát từ mục tiêu của mở rộng hợp tác
quốc tế. Vì vậy, đối tượng của mở rộng hợp
tác quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tất
cả các nước khơng phân biệt chế độ chính trị,
nhưng trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ
quyền, tồn vẹn lãnh thổ của Việt Nam,
không can thiệp vào công việc nội bộ, hợp
tác bình đẳng, cùng có lợi… Ngay sau khi
nước nhà giành được độc lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chủ trương “làm bạn với tất cả mọi
nước dân chủ và khơng gây thù ốn một ai”,
“một khi đã độc lập, Việt Nam sẽ đứng với
tất cả các nước bầu bạn” và “...tin chắc rằng
các nước dù chế độ xã hội khác nhau và hình
thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung
sống hồ bình được...”. Vì vậy, đối với các
nước tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh rất chú
trọng mở rộng hợp tác quốc tế, điều đó được
thể hiện rất rõ trong Thư gửi Bộ trưởng ngoại
giao Hoa Kỳ Giêm Biếcnơ, sau khi nước nhà
giành độc lập, Người nói: “tơi xin được bày
tỏ nguyện vọng… được gửi một phái đoàn
khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang
Mỹ với ý định một mặt thiết lập những mối
quan hệ văn hoá thân thiết với thanh niên
Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục
nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng
như các lĩnh vực chuyên môn khác” .
Khi trả lời phóng viên người Anh, R.
Xenxpơ của báo Tin nhanh hằng ngày về việc
liệu Việt Nam có định mở rộng quan hệ ngoại
giao và nhất là thương mại đối với phương
Tây khơng? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời
nhất quán với các chủ trương đối ngoại mở
rộng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa:
“Trên ngun tắc bình đẳng và hai bên cùng
có lợi, chúng tơi sẵn sàng đặt quan hệ ngoại
giao và thương mại với tất cả các nước”.
Đối với nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
bày tỏ một thái độ thiện chí và mong muốn
hợp tác trên tất cả các lĩnh vực. Người nói:
“Muốn có quan hệ ngoại giao về kinh tế và
văn hóa với chính phủ Pháp”. Khi trả lời
phỏng vấn của phóng viên hãng thơng tấn
Pháp, nhà báo hỏi: “Chủ tịch xét những quan
hệ kinh tế giữa hai nước tương lai sẽ như thế
nào? Nếu Chính phủ hoặc tư nhân Pháp cho
vay vốn, thì Chủ tịch có nhận khơng? Và nếu
nhận thì nhận với những điều kiện như thế
nào?”, Người trả lời: “Những quan hệ kinh tế
giữa hai nước phải dựa trên nguyên tắc bình
đẳng và hai bên đều có lợi”. Có thể thấy rằng,
đối với các nước tư bản, Hồ Chí Minh chủ yếu
nhấn mạnh mở rộng hợp tác trên lĩnh vực kinh
tế, trên ngun tắc bình đẳng, cùng có lợi,
Người nói: “Việt Nam có nhiều phụ ngun,
chúng tơi rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư
bản các nước cộng tác thật thà với chúng tôi”.
3.2.2. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt rất coi
trọng mở rộng hợp tác quốc tế sâu rộng, toàn
diện với các nước xã hội chủ nghĩa anh em
như: Liên Xô, Trung Quốc,… Điều đó được
thể hiện nhất qn trong q trình lãnh đạo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người khẳng
định: “Phát triển và củng cố thêm tình hữu
nghị giữa ta và các nước anh em…Góp phần
thắt chặt thêm tình đồn kết giữa các nước
trong đại gia đình xã hội chủ nghĩa. Tăng
cường sự hợp tác kinh tế và văn hóa giữa
nhân dân ta và nhân dân các nước anh em”.
Đối với Liên Xơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh cần phải tăng cường hợp tác hơn nữa,
bởi vì “Sức mua của khối dân chủ nhân dân
rất lớn. Buôn bán với khối dân chủ có thể
dùng lối lấy hàng đổi hàng. Thấy rõ lợi ích
bn bán với Liên Xơ và các nước dân chủ
nhân dân, nhiều chính phủ tư bản và nhiều
giới kinh doanh phương Tây bất chấp sự
ngăn cấm của đế quốc Mỹ đã ký nhiều hiệp
ước và hợp đồng thương mại với Liên Xơ”.
Đối với Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Trung - Việt khác nào môi với
răng. Môi hở thì răng buốt, cứu Trung Quốc
là tự cứu mình”. Có thể thấy rằng, trong q
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh đặc biệt chú trọng trong việc mở rộng
hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa anh
em, từ đó, tăng cường tình hữu ái vơ sản,
đồn kết quốc tế, tương trợ lẫn nhau trong
277
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người
rất trân trọng sự giúp đỡ về vật chất và tinh
thần mà các nước xã hội chủ nghĩa anh em
giúp đỡ, Người nói: “Liên Xơ và nước Cộng
hồ Nhân dân Trung Hoa đã quyết định giúp
đỡ nước chúng tôi tổng cộng là 1.530 tỷ đồng
Việt Nam…Các nước dân chủ khác cũng có
sự giúp đỡ q báu đối với cơng cuộc khơi
phục của chúng tơi. Sự giúp đỡ đó được tiến
hành dưới hình thức trao cho chúng tơi dụng
cụ, máy móc và nhân viên kỹ thuật; nhiều
khu vực kinh tế và văn hố Việt Nam được
hưởng sự giúp đỡ đó...”.
3.2.3. Đối với các nước khác, nhân dân
và lực lượng tiến bộ thế giới u chuộng
hịa bình
Với các nước ở châu Á, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thể hiện quan điểm của mình rất rõ
trong Trả lời phỏng vẫn hãng thông tấn
Ăngtara (Inđônêxia), Người khẳng định:
“Nước Việt Nam độc lập muốn hợp tác thân
thiện với tất cả các nước anh em ở châu Á và
giữ mối giao hảo với tồn thế giới”. Trong
đó, Người rất quan tâm trong đặt quan hệ hợp
tác với Ấn Độ và Nhật Bản. Đối với Nhật
Bản, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “...là phi lý
nếu nghĩ rằng hai dân tộc láng giềng như dân
tộc An Nam và dân tộc Nhật Bản lại có thể
cứ tồn tại biệt lập đối với nhau...”. Sau này
khi nước nhà giành được độc lập, Người
khẳng định: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hồ sẵn sàng buôn bán với Nhật Bản
cũng như với các nước khác, trên ngun tắc
bình đẳng và hai bên cùng có lợi”. Đối với
Ấn Độ, trong cách nhìn của Bác “là một nước
lớn và u chuộng hịa bình ở Đơng Nam Á.
Hai nước chúng ta ở gần nhau, quen thuộc
nhau và hiểu biết nhau”. Trong khu vực
Đơng Nam Á, Hồ Chí Minh quan tâm xây
dựng mối quan hệ đặc biệt ba nước Việt
Nam, Lào và Campuchia. Người nhiều lần
khẳng định: “Ba nước sẽ bang giao với nhau
trên nguyên tắc bình đẳng hồn tồn và tơn
trọng độc lập quốc gia của nhau”.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Hồ
Chí Minh rất chú trọng với việc mở rộng hợp
tác, đoàn kết quốc tế với các lực lượng, nhân
dân tiến bộ thế giới yêu chuộng hịa bình. Sự
ủng hộ, giúp đỡ đó góp phần không nhỏ vào
sự thành công của cách mạng Việt Nam,
Người khẳng định: “được sự đồng tình và
ủng hộ ngày càng rộng rãi và mạnh mẽ của
các nước anh em và của nhân dân tồn thế
giới đối với cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, đối với sự nghiệp đấu tranh
giải phóng của đồng bào miền Nam và cuộc
đấu tranh của nhân dân cả nước ta để thực
hiện hịa bình thống nhất nước nhà”. Đặc
biệt, Người rất chú ý tới việc mở rộng hợp
tác, đoàn kết với nhân dân tiến bộ nước đối
phương. Trong kháng chiến chống Pháp và
Mỹ, Người ln đánh giá cao vai trị đấu
tranh phản đối chiến tranh của nhân dân tiến
bộ Mỹ, Người nói: “Nhân dân Mỹ đánh từ
trong ra, nhân dân ta đánh từ ngồi vào. Hai
bên giáp cơng mạnh mẽ, thì đế quốc Mỹ nhất
định sẽ thua, nhân dân Việt - Mỹ nhất định sẽ
thắng…là thắng lợi chung của loài người yêu
chuộng chính nghĩa và hịa bình.”.
Như vậy, đối tượng của mở rộng hợp tác
quốc tế là tất cả các nước không phân biệt thể
chế chính trị, có thể nhận thấy rằng Hồ Chí
Minh đã vượt qua giới hạn của tình hình
chính trị đương đại lúc bấy giờ, khi quan hệ
quốc tế bị chi phối bởi cuộc chiến tranh lạnh
giữa Mỹ - Liên Xô, thế giới chia làm hai phe
tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội. Đây
chính là điểm độc đáo và giá trị của tư tưởng
Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế.
4. KẾT LUẬN
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
mục tiêu, đối tượng của mở rộng hợp tác
quốc tế có ý nghĩa và giá trị rất lớn. Thực tế,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã từng bước phá bỏ thế
biệt lập, đặt Việt Nam trong mối liên hệ với
thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại,... để giành và giữ nền độc lập
dân tộc; không ngừng nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho nhân dân và xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phạm Ngọc Anh (chủ biên) (2003), Bước
đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh
tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[2] Phan Ngọc Liên (2010), Hồ Chí Minh hoạt
động thực tiễn và lý luận cách mạng, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
278