Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

CÁC BỆNH lý LOẠN THẦN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.28 KB, 22 trang )

CÁC BỆNH LÝ LOẠN THẦN NỘI SINH
ThS. BS. Trần Trung Nghĩa
Loạn thần (psychoses) là tình trạng mất khả năng kiểm định với thực tế khách
quan. Đây là một nhóm bệnh lý nặng nề nhất trong các rối loạn tâm thần, thể hiện
những thay đổi chủ yếu đến tư duy (suy nghĩ, phán đoán), cảm xúc, hành vi và tri giác.
Bệnh lý làm cho người bệnh mất khả năng hòa hợp với xã hội, ảnh hưởng đến sự
tương tác của họ với mơi trường xã hội. Từ đó, bệnh lý làm ảnh hưởng đến chất lượng
cuộc sống của họ.
Dù vẫn chỉ là những giả thuyết về cơ chế bệnh sinh nhưng càng ngày càng có
nhiều bằng chứng khẳng định nguyên nhân thực thể về chất dẫn truyền thần kinh gây
ra bệnh lý. Các phương pháp điều trị hóa dược là điều trị bắt buộc đối với nhóm bệnh lý
này nhưng việc tuân thủ vẫn còn là vấn đề lớn với người bệnh và gia đình họ. Điều này
cùng với nguyên nhân về thời gian khuyến cáo dành cho việc điều trị, cũng như những
tiên lượng mãn tính của bệnh, làm cho việc quản lý tình trạng loạn thần vẫn cịn là
thách thức với ngành Tâm Thần và xã hội.
I.

Các biểu hiện loạn thần:
Năm nhóm triệu chứng trong tâm thần phân liệt:
Mặc dù không được công nhận như một tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân

liệt, một số nghiên cứu phân loại dưới nhóm các triệu chứng thành năm nhóm: triệu
chứng dương tính, triệu chứng âm tính, triệu chứng nhận thức, triệu chứng gây hấn/thù
nghịch và triệu chứng trầm cảm/lo âu.
Triệu chứng dương tính: dường như phản ánh một tình trạng q mức của
một chức năng bình thường, điển hình là hoang tưởng, ảo giác; cũng bao gồm tình
trạng bóp méo và cường điệu về ngôn ngữ, truyền thông (ngôn ngữ vô tổ chức), cũng
như trong giám sát hành vi (hành vi kích động, căng trương lực, vơ tổ chức). Cùng với
tâm thần phân liệt, có các bệnh lý khác có triệu chứng dương tính, như: rối loạn lưỡng
cực, rối loạn cảm xúc phân liệt, trầm cảm loạn thần, bệnh Alzheimer và các bệnh lý sa
sút tâm thần thực thể khác, bệnh lý loạn thần trẻ em, loạn thần do chất.


Triệu chứng âm tính: bao gồm ít nhất 5 dạng triệu chứng (tất cả đều bắt đầu
bằng chữ a). (1) cảm xúc phẳng lặng (affective flattening), là hạn chế cường độ của
diễn đạt cảm xúc. (2) chứng mất nói (alogia), là hạn chế về tính lưu lốt và khả năng


tạo suy nghĩ, lời nói. (3) mất động lực (avolition), là tình trạng hạn chế về khả năng khởi
phát những hành vi có mục đích. (4) tình trạng thờ ơ (anhedonia). (5) suy giảm chú ý
(attentional impairment).
Triệu chứng âm tính thường được xem như sự giảm sút các chức năng bình
thường trong tâm thần phân liệt, như cảm xúc cùn mịn, thu rút về cảm xúc, ngơn ngữ
nghèo nàn, tính thụ động, thu rút – thờ ơ với xã hội. Gặp khó khăn về tư duy trừu
tượng, suy nghĩ lặp đi lặp lại, thiếu tính tự phát, liên quan đến việc nhận viện kéo dài,
hoạt động xã hội nghèo nàn.
Triệu chứng âm tính trong tâm thần phân liệt có thể là nguyên phát hoặc thứ
phát. Triệu chứng nguyên phát có thể xem như là triệu chứng trung tâm của sự suy
giảm nguyên phát trong tâm thần phân liệt. Những suy giảm chú chốt khác trong tâm
thần phân liệt có thể là thứ phát sau triệu chứng dương tính. Những triệu chứng âm
tính khác được cho là xuất hiện sau hội chứng ngoại tháp, nhất là khi hội chứng này do
thuốc chống loạn thần. Triệu chứng âm tính cũng có thể thứ phát sau triệu chứng trầm
cảm hay do bị tách khỏi môi trường.
Triệu chứng nhận thức: triệu chứng nhận thức của tâm thần phân liệt và
những bệnh lý khác có thể là sự chồng chéo với triệu chứng âm tính. Đặc biệt, các triệu
chứng này bao gồm các rối loạn tư duy trong tâm thần phân liệt và cách sử dụng ngơn
ngữ kì quặt khơng thường xun, bao gồm tính khơng phù hợp, nói lạc đề (loose
association) và sáng tạo ngơn ngữ. Chú ý bị suy giảm và q trình truyền thông suy
giảm là những suy giảm nhận thức chuyên biệt khác có liên quan với bệnh lý tâm thần
phân liệt. Trên thực tế, suy giảm nhận thức nặng nề nhất và thường gặp nhất trong tâm
thần phân liệt bao gồm: tính lưu tốt của từ ngữ bị suy giảm (khả năng nói tự phát), gặp
vấn đề với việc học hỏi có trình tự (trình tự các đề mục, hoặc chuỗi các sự kiện), và suy
giảm trong việc chú ý đến chức năng chấp hành (gặp vấn đề với việc duy trì và tập

trung chú ý, sắp xếp ưu tiên, và điều chỉnh hành vi dựa vào những gợi ý của xã hội).
Tâm thần phân liệt thường không phải là bệnh lý duy nhất có suy giảm nhận
thức. Chứng tự kỷ, sa sút tâm thần sau chấn thương, bệnh Alzheimer và nhiều bệnh lý
sa sút tâm thần thực thể khác (sa sút tâm thần do Parkinson/thể Lewy, sa sút tâm thần
thùy trán – thái dương/bệnh Pick, …) cũng có liên quan đến một số suy giảm chức
năng nhận thức tương tự trong tâm thần phân liệt.
Triệu chứng dương tính trong loạn thần
Hoang tưởng


Ảo giác
Tình trạng bóp méo/cường điệu q mức về ngơn ngữ và truyền
thông
Ngôn ngữ vô tổ chức.
Hành vi vô tổ chức.
Hành vi căng trương lực
Kích động
Triệu chứng âm tính
Cảm xúc cùn mịn
Thu rút về cảm xúc
Ngơn ngữ nghèo nàn
Tính thụ động.
Thu rút – thờ ơ về mặt xã hội
Khó khăn với tư duy trừu tượng.
Thiếu tính tự phát
Suy nghĩ lặp đi lặp lại.
Chứng mất nói: hạn chế sự lưu lốt và khả năng suy nghĩ, ngôn
ngữ.
Mất động lực: hạn chế khả năng bắt đầu thực hiện hành vi có
mục đích

Mất hứng thú.
Suy giảm chú ý.
Triệu chứng gây hấn và thù nghịch: triệu chứng này có thể gối chồng lên các
triệu chứng dương tính nhưng khác biệt được nhấn mạnh đến tính kềm chế xung động.
Các triệu chứng này thể hiện cơng khai tính thù địch, lạm dụng lời nói hoặc hành vi,
ngay cả có thể tấn cơng. Các triệu chứng còn bao hàm cả hành vi tự gây tổn thương,
như tự sát, gây hỏa hoạn hay gây nguy hiểm về mặt tài sản. Các hình thức khác của
tính xung động, như khơng kềm chế về tình dục, cũng được xếp vào triệu chứng gây
hấn và thù nghịch.
Mặc dù triệu chứng gây hấn thường gặp trong tâm thần phân liệt nhưng chúng
khơng chỉ giới hạn trong bệnh lý này. Do đó, những triệu chứng tương tự thường có thể


gặp trong rối loạn lưỡng cực, loạn thần trẻ em, rối loạn nhân cách ranh giới, lạm dụng
ma túy, sa sút tâm thần Alzheimer và sa sút tâm thần khác, rối loạn tăng động giảm chú
ý (ADHD), rối loạn ứng xử ở trẻ em và nhiều bệnh lý khác.
Triệu chứng trầm cảm và lo âu: các triệu chứng này thường liên quan với bệnh
tâm thần phân liệt, nhưng khơng có nghĩa là đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh lý
cảm xúc hoặc lo âu kèm theo. Tuy nhiên, khí sắc trầm, khí sắc lo âu, ý nghĩ bị tội, căng
thẳng, cáu kỉnh và lo hãi thường đi kèm với bệnh tâm thần phân liệt. Những triệu chứng
khác nhau này cũng là những nét nổi bật của rối loạn trầm cảm nặng, trầm cảm loạn
thần, rối loạn lưỡng cực, rối loạn cảm xúc phân liệt, sa sút tâm thần thực thể và ở thời
niên thiếu.
II.

Các bệnh lý loạn thần:
Phổ TTPL và các rối loạn loạn thần khác bao gồm: tâm thần phân liệt, rối loạn

loạn thần khác, và chứng rối loạn nhân cách kiểu phân liệt). Chúng được định nghĩa
bởi các bất thường trong một hoặc hơn trong năm lĩnh vực sau đây: hoang tưởng, ảo

giác, tư duy vô tổ chức, hành vi vận động vô tổ chưa hoặc bất thường (kể cả căng
trương lực) và các triệu chứng âm tính. Các triệu chứng loạn thần cịn có thể gặp trong
nhiều bệnh lý khác nhau như: loạn thần do sử dụng ma túy (rượu, amphetamine, cần
sa – cannabis, chất gây ảo giác, …), trong các bệnh lý y khoa (động kinh, chấn thương
sọ não, …), sa sút tâm thần tuổi già (Alzheimer, sa sút tâm thần do bệnh lý mạch máu
não, …), nhưng sẽ không liệt kê trong bài này.
1. Tâm thần phân liệt:
Đặc điểm chung của bệnh TTPL là:
 Các rối loạn về tư duy và tri giác.
 Cảm xúc cùn mịn và khơng phù hợp.
Ý thức và năng lực trí tuệ thường vẫn duy trì.
Người bệnh co rằng các ý nghĩ, cảm xúc và hành vi sâu kín nhấn của họ bị
người khác biết hoặc chia sẻ, và có những sức mạnh tự nhiêu hoặc siêu nhiên chi phối
các ý nghĩ và hành vi của họ theo những phương cách thường là kỳ quái.
Người bệnh cảm thấy mình là trung tâm của tất cả mọi việc đang xãy ra. Các ảo
giác, đặc biệt là ảo thanh rất thường gặp, bình phẩm các hành vi và ý nghĩ của người
bệnh. Tri giác cũng thường bị rối loạn theo một cách khác: màu sắc hoặc âm thanh trở
nên sống động một cách khác thường hoặc bị biến đổi về chất, và các nét thứ yếu của
các sự vật thơng thường có thể trở nên rất quan trọng hơn toàn bộ sự vật hoặc tình
huống.


Bối rối thường xuất hiện sớm và đưa đến sự tin chắc là các tình huống thường
ngày đều có ý nghĩa đặc biệt, thường là xấu, nhắm đến bệnh nhân.
Rối loạn tư duy đặc trưng: các nét thứ yếu và không quan trọng vốn bị ức chế
trong hoạt động tâm thần bình thường lại trở nên nổi bật. Vì thế tư duy trở nên mơ hồ,
khó hiểu.
Cảm xúc thường nơng cạn, thất thường hoặc khơng phù hợp.
Tính hai chiều và rối loạn ý chí có thể đưa đến sự trì trệ, phủ định hoặc sửng sờ.
căng trương lực cũng có thể gặp.

Khởi bệnh có thể cấp tính với rối loạn nặng nề về hành vi hoặc âm ỉ với sự phát
triển dần dần các ý nghĩ và hành vi kỳ dị.
Tiến triển của bệnh thường rất thay đổi và không nhất thiết trở nên mãn tính
hoặc xấu đi. Mặc dù bệnh cảnh lâm sàng rất đa dạng và khơng có triệu chứng đặc hiệu
nhưng nhìn chung trong quá trình tiến triển, bệnh tTPL có các biểu hiện sau đây:
1.1. Tính thiếu hòa hợp và tự kỷ:
Thiếu hòa hợp: thể hiện sự thiếu thống nhất giữa các hoạt động tâm thần của
người bệnh cũng như giữa người bệnh và môi trường xung quanh. Sự thiếu hòa hợp
thường thể hiện rõ nhất giữa tư duy, cảm xúc, hành vi tác phong. VD: người bệnh cười
vui vẻ khi nói chuyện buồn, gặp chuyện vui thì tỏ vẻ buồn rầu, gặp chuyện đau khổ thì
lại vui mừng. Họ thường thể hiện tính hai chiều như vừa u vừa ghét, vừa thích vừa
khơng thích, có các hành vi kì dị như cười nói một mình, có lúc kích động, phủ định,
căng trương lực …
Tự kỷ: người bệnh dần dần tách rời khỏi thực tại, ngày càng thu mình vào thế
giới nội tâm. Họ vơ cớ bỏ nghề nghiệp đang làm, bỏ học tập, ít chịu tiếp xúc với người
than, không quan tâm đến ngoại cảnh, có những ý nghĩ, hành vi, lời nói mà chỉ riêng họ
hiểu được. Chính tình trạng thu rút của tính tự kỷ mà nhiều người, kể cả các bác sĩ,
cũng lầm lẫn với tình trạng trầm cảm, và gây ra những chỉ định điều trị sai lầm bằng
thuốc chống trầm cảm.
1.2. Giảm sút thế năng tâm thần:
Được biểu hiện rõ rệt nhất ở giai đoạn di chứng của bệnh. Khác với trạng thái sa
sút tâm thần gặp trong các bệnh lý tổn thương thực thể não, giảm sút thế năng tâm
thần trong bệnh TTPL khơng có các rối loạn nặng nề về trí nhớ, trí năng mà lien quan
chủ yếu đến sự giảm sút hoạt động trong các lĩnh vực như học tập, công tác, quan hệ
xã hội và chăm sóc bản than. Phần lớn bệnh nhân TTPL khơng có khả năng lập gia
đình và duy trì khả năng nghề nghiệp trong thời gian dài. Trường hợp nặng, bệnh nhân


mất khả năng tự lập, khơng cịn quan tâm đến vệ sinh cá nhận và phải dựa hoàn toàn
vào sự chăm sóc của gia đình và xã hội; một số khác trở thành những kẻ lang thang vô

gia cư.
1.3. Các rối loạn tư duy:
Rối loạn hình thức tư duy: thể hiện rõ nhất qua ngơn ngữ nói và viết của bệnh
nhân. Các rối loạn thường gặp gồm: tư duy nghèo nàn, tư duy ngắt quảng, tư duy
không lien quan, trả lời bên cạnh, sang tạo ngơn ngữ, nói hổ lốn, nói một mình hoặc
khơng nói.
Rối loạn nội dung tư duy: chủ yếu là các hoang tưởng paranoid khơng có hệ
thống với các chủ đề và cơ chế đa dạng. Các hoang tưởng hay gặp là hoang tưởng bị
hại, bị theo dõi, lien hệ, tự cao, phát minh … Hoang tưởng bị chi phối kết hợp với ảo
thanh giả hình thành hội chứng tâm thần tự độn Kanndinski-Clerambault. Có thể có các
hiện tượng tư duy vang thành tiếng, tư duy bị phát thanh, tư duy bị áp đặt hoặc bị đánh
cắp. Một số bệnh nhân khác có các hoang tưởng với nội dung kỳ quái như; có khả
năng điều khiển thời tiết, lien lạc với người ngoài hành tinh … Các hoang tưởng kỳ qi
có giá trị cao trong chẩn đốn xác định bệnh TTPL.
1.4. Các rối loạn tri giác:
Người bệnh có thể có mọi loại ảo giác nhưng hay gặp nhất là ảo thanh. Người
bệnh nghe tiếng nói, có thể là quen biết hoặc xa lạ, của một hoặc nhiều người với nội
dung chửi bới, đe dọa, ra mệnh lệnh, bàn tán về bệnh nhân hoặc phê bình các ý nghĩ
và hành vi của họ. Các ảo thanh mệnh lệnh có thể gây nguy hiểm vì người bệnh có thể
có hành vi tự sát hoặc tấn công người xung quanh. Ảo thị cũng hay gặp nhưng ảo xúc,
ảo khứu và ảo vị hiếm gặp. Sự hiện diện của các ảo thanh khác này gợi ý khả năng
một bệnh lý thực thể nội- ngoại khoa hoặc thần kinh là nguyên nhân của rối loạn tâm
thần.
1.5. Các rối loạn cảm xúc:
Đặc trưng nhất là cảm xúc cùn mịn, bang quan hoặc vơ cảm. các cảm xúc khác
như cảm xúc trái ngược, cảm xúc hai chiều hoặc cảm xúc thiếu hòa hợp cũng hay gặp.
Một số bệnh nhân cũng có thể có các biểu hiện trầm cảm, đặc biệt sau giai đoạn loạn
thần.
1.6. Các rối loạn hành vi:
Hành vi của người bệnh thường bị rối loạn nặng nề, gây trở ngại cho việc tự

chăm sóc bản than, cũng như trong các sinh hoạt hang ngày. Bệnh nhân thường tỏ ra
trì trệ, chậm chạp, thờ ơ với mọi việc, ăn mặc lơi thơi, có hành vi kỳ dị, căng trương lực


hoặc có cơn xung động đập phá, tấn cơng người xung quanh, tự gây thương tích cho
bản than hoặc tự sát.
1.7. Chẩn đoán xác định:
Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM – 5 của Hội Tâm Thần Học Mỹ:
A. Có 2 hoặc nhiều hơn các triệu chứng sau đây, mỗi triệu chứng biểu hiện trong phần
lớn thời gian trong khoảng 1 tháng (hoặc ít hơn nếu điều trị thành cơng). Ít nhất một
trong số đó phải là (1), (2), hoặc (3):
(1) Hoang tưởng.
(2) Ảo giác.
(3) Ngôn ngữ vô tổ chức (thường xun nói lạc đề, nói khơng liên quan).
(4) Hành vi vô tổ chức hoặc căng trương lực.
(5) Các triệu chứng âm tính như: cảm xúc bang quan, tư duy nghèo nàn hoặc mất ý
chí.
B. Đối với một phần đáng kể thời gian từ lúc phát bệnh, mức độ hoạt động trong một

hoặc nhiều lĩnh vực như công việc, mối quan hệ với người khác, chăm sóc bản
thân, thấp hơn rõ ràng so với mức độ trước khi phát bệnh (hoặc khi phát bệnh ở
thiếu niên hoặc vị thành niên, sẽ không đạt được mức độ mong đợi trong các hoạt
động học tập, nghề nghiệp, mối quan hệ).
C. Dấu hiện của rối loạn tồn tại liên tục ít nhất 6 tháng. Giai đoạn 6 tháng này bao gồm:
ít nhất 1 tháng các triệu chứng (hoặc ít hơn nếu điều trị thành công) đáp ứng tiêu
chuẩn A (giai đoạn hoạt động) và có thể bao gồm các giai đoạn của các triệu chứng
tiền triệu hoặc di chứng. Trong suốt giai đoạn tiền triệu hoặc di chứng, các dấu hiệu
của rối loạn có thể chỉ biểu hiện bằng triệu chứng âm tính hoặc biểu hiện hai hoặc
nhiều triệu chứng của tiêu chuẩn A dưới dạng suy yếu (VD: niềm tin kỳ lạ, trãi
nghiệm tri giác bất thường).

D. Rối loạn cảm xúc phân liệt, rối loạn trầm cảm hoặc lưỡng cực với các triệu chứng
loạn thần phải được loại trừ vì: 1) khơng có giai đoạn trầm cảm hoặc hưng cảm
nặng xảy ra đồng thời với các triệu chứng giai đoạn hoạt động, hoặc 2) nếu các giai
đoạn khí sắc cùng với triệu chứng giai đoạn hoạt động thì giai đoạn khí sắc cũng
biểu hiện tối thiểu trong tổng thời gian của giai đoạn hoạt động và giai đoạn di
chứng của bệnh.
E. Rối loạn không phải do ảnh hưởng sinh lý của một chất (VD: ma túy, thuốc) hoặc
một tình trạng bệnh lý khác.
F. Nếu tiền sử có rối loạn phổ tự kỷ hoặc rối loạn giao tiếp khởi phát thời niên thiếu, thì
chẩn đoán thêm về TTPL chỉ được thực hiện khi các hoang tưởng hay ảo giác nổi


bật, kèm theo các triệu chứng đòi hỏi khác của TTPL cũng phải có mặt ít nhất 1
tháng (hoặc ít hơn nếu điều trị thành công).
1.8. Tiến triển và tiên lượng:
Tỷ lệ hiện mắc của bệnh tâm thần phân liệt khoảng 0,3% - 0,7%, mặc dù có sự
khác biệt về chủng tộc, giữa các quốc gia và theo nguồn gốc địa lý của người nhập cư
và con của người nhập cư. Tỷ số giới tính khác nhau giữa các mẫu và quần thể nhưng
tỷ lệ mắc tương đương cho cả hai giới tính.
Các đặc điểm loạn thần của tâm thần phân liệt thường xuất hiện cuối giai đoạn
thanh thiếu niên (vị thành niên) và giữa giai đoạn tuổi 3x; khởi phát trước tuổi vị thành
niên là rất hiếm. Đỉnh điểm của tuổi khởi phát của bệnh là nữa đầu của tuổi 20 ở nam
giới và cuối những năm 20 ở phụ nữ. Khởi phát có thể là đột ngột hoặc tiềm ẩn, nhưng
đa số các cá nhân biểu hiện sự phát triển chậm và dần dần của một loạt các dấu hiệu
và triệu chứng lâm sàng đáng kể. Một nửa trong số những người này phàn nàn về các
triệu chứng trầm cảm. Tuổi phát bệnh càng sớm được xem như là tiên đoán về tiên
lượng xấu hơn.
Các dự báo về tiến triển và kết quả phần lớn là không giải thích được, và tiến
triển có thể khơng được dự đốn đáng tin cậy. Tiến triển dường như là thuận lợi ở
khoảng 20% người bị tâm thần phân liệt, và một số lượng nhỏ các cá nhân được báo

cáo có phục hồi hoàn toàn. Tuy nhiên, hầu hết các cá nhân bị tâm thần phân liệt vẫn
cần được hỗ trợ sinh hoạt chính thức hoặc khơng chính thức, và nhiều người vẫn bị
bệnh mãn tính, với sự gia tăng và triệu chứng các triệu chứng dương tính, trong khi
những người khác có một tiến triển suy giảm dần. Các triệu chứng về tâm thần có
khuynh hướng giảm trong suốt cuộc đời, có lẽ liên quan đến sự suy giảm hoạt động
dopamine bình thường liên quan đến tuổi tác. Các triệu chứng âm tính có liên quan
chặt chẽ hơn đến tiên lượng, so với các triệu chứng dương tính và có khuynh hướng
liên tục nhất. Hơn nữa, sự thiếu hụt nhận thức liên quan đến bệnh tật có thể khơng cải
thiện trong quá trình bệnh. Các đặc điểm cơ bản của bệnh tâm thần phân liệt giống
nhau ở trẻ em, nhưng rất khó để chẩn đốn. Ở trẻ em, hoang tưởng và ảo giác có thể ít
phức tạp hơn ở người lớn, và ảo giác thị giác là phổ biến hơn và nên được phân biệt
với cách vui chơi thông thường. Tư duy vô tổ chức xảy ra trong nhiều rối loạn khởi phát
ở trẻ em (VD: rối loạn phổ tự kỷ), cũng như hành vi vô tổ chức (VD: rối loạn tăng động).
Những triệu chứng này không nên qui kết là do bệnh tâm thần phân liệt mà không xem


xét đến các rối loạn phổ biến hơn của thời thơ ấu. Các trường hợp khởi phát ở trẻ em
có xu hướng giống với các trường hợp người lớn có kết quả xấu, với các triệu chứng
âm tính xuất hiện dần dần. Trẻ em được chẩn đoán tâm thần phân liệt trễ hơn có nhiều
khả năng bị rối loạn hành vi - cảm xúc, thay đổi trí tuệ và ngơn ngữ bệnh lý, và trì hỗn
các vận động tinh vi.
Các trường hợp khởi phát muộn (bắt đầu sau 40 tuổi) thường hay xuất hiện ở
nữ, có thể đã kết hơn. Thông thường, tiến triển với đặc trưng bởi sự rõ rệt của các triệu
chứng tâm thần nhưng vẫn duy trì được cảm xúc và hoạt động xã hội.
Khoảng 5-6% bệnh nhân TTPL tử vong do tự tử, khoảng 20% tự tử một lần hoặc
nhiều lần, và có nhiều bệnh nhân có ý tưởng tự tử. Hành vi tự sát có thể do ảo thanh
chỉ huy BN gây tổn thương bản thân hoặc người khác. Nguy cơ tự tử còn tăng cao hơn
ở người trẻ có lạm dụng ma túy. Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm: có triệu chứng trầm
cảm, thất nghiệp, giai đoạn sau khi xuất viện do giai đoạn tồn phát.
Hậu quả chức năng của TTPL có liên quan đến rối loạn chức năng nghề nghiệp,

xã hội. Khả năng tiến bộ tri thức và duy trì việc làm thường suy giảm do rối loạn hành
vi. Hầu hết các bệnh nhân được tuyển vào các vị trí làm việc thấp hơn so với người
khác, nhất là nam giới. Họ thường khơng kết hơn, ít có mối liên hệ xã hội ngồi gia
đình.
2. Rối loạn loạn thần cấp (rối loạn loạn thần ngắn – brief psychotic disorder):
Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM – 5:
A. Sự hiện diện của một (hoặc nhiều hơn) các triệu chứng sau đây. Ít nhất trong số này
phải là (1), (2) hoặc (3):
(1) Hoang tưởng.
(2) Ảo giác.
(3) Ngôn ngữ vô tổ chức (VD: thường xuyên nói năng khơng liên quan, nói lạc đề).
(4) Hành vi vô tổ chức hoặc căng trương lực.
Ghi chú: không xem là triệu chứng nếu nó là một phản ứng bị ảnh hưởng bởi văn hóa.
B. Thời gian của đợt rối loạn ít nhất 1 ngày nhưng ít hơn 1 tháng, và hoàn toàn trở lại
mức hoạt động ban đầu.
C. Rối loạn này khơng thể giải thích rõ ràng hơn bằng rối loạn trầm cảm chủ yếu hoặc
lưỡng cực, hoặc rối loạn tâm thần khác như TTPL hoặc căng trương lực, và không
phải do ảnh hưởng sinh lý của một chất (VD: lạm dụng ma túy, thuốc), hoặc một
bệnh lý y khoa.
Ở Hoa Kỳ, rối loạn loạn thần ngắn có thể chiếm tới 9% số ca bệnh tâm thần đầu
tiên. Các rối loạn tâm thần đáp ứng tiêu chí A và C, nhưng khơng đáp ứng tiêu chí B,


đối với rối loạn tâm thần ngắn (nghĩa là: thời gian các triệu chứng chủ yếu là 1-6 tháng
so với sự thuyên giảm trong vòng 1 tháng) thường gặp ở các nước đang phát triển hơn
ở các nước phát triển. Rối loạn rối loạn loạn thần ngắn gấp đôi ở nữ giới hơn nam giới.
Tiến triển và tiên lượng: rối loạn loạn thần ngắn có thể xuất hiện ở thanh thiếu
niên hoặc ở tuổi trưởng thành sớm, và bắt đầu có thể xảy ra trong suốt tuổi thọ, với tuổi
trung bình bắt đầu là giữa những năm 30 tuổi. Theo định nghĩa, chẩn đốn rối loạn loạn
thần ngắn địi hỏi phải thuyên giảm hoàn toàn tất cả các triệu chứng và hoàn toàn trở

về sớm ở mức trước bệnh trong vòng 1 tháng kể từ khi bắt đầu rối loạn. Ở một số
người, thời lượng các triệu chứng tâm thần có thể khá ngắn (ví dụ: vài ngày).
3. Rối loạn dạng phân liệt (Schizophreniform disorder):
Tiêu chuẩn chẩn đoán DSM – 5:
A. Hai (hoặc nhiều hơn) những triệu chứng sau đây, mỗi triệu chứng hiện diện trong
một khoảng thời gian đáng kể trong khoảng thời gian 1 tháng (hoặc ít hơn nếu được
điều trị thành cơng). Ít nhất một trong số này phải là (1), (2), hoặc (3):
(1) Hoang tưởng.
(2) Ảo giác.
(3) Ngơn ngữ vơ tổ chức (nói lạc đề, nói không liên quan).
(4) Hành vi vô tổ chức hoặc căng trương lực.
(5) Các triệu chứng âm tính (cảm xúc cùn mịn hoặc thiếu hịa hợp)
B. Rối loạn kéo dài ít nhất 1 tháng nhưng ít hơn 6 tháng.
C. Rối loạn cảm xúc phân liệt và rối loạn trầm cảm hoặc lưỡng cực với các nét loạn
thần phải được loại trừ vì 1) khơng có các giai đoạn trầm cảm chủ yếu hoặc hưng
cảm xảy ra cùng lúc với các triệu chứng giai đoạn hoạt động, hoặc 2) nếu các giai
đoạn khí sắc xảy ra trong giai đoạn triệu chứng giai đoạn hoạt động, chúng phải
xuất hiện tối thiểu trong toàn bộ thời gian toàn phát và di chứng của bệnh.
D. Rối loạn không phải do ảnh hưởng sinh lý của một chất (VD: lạm dụng ma túy,
thuốc) hoặc một bệnh lý y khoa khác.
Ghi rõ nếu:
Với các đặc điểm tiên lượng tốt: Chỉ định này địi hỏi phải có ít nhất hai đặc điểm
sau: khởi phát các triệu chứng loạn thần nổi bật trong vòng 4 tuần sau sự thay đổi đáng
chú ý đầu tiên về hành vi hoặc hoạt động thông thường; lú lẫn hoặc lúng túng: hoạt
động xã hội và nghề nghiệp tốt trước khi bệnh; và không có cảm xúc cùn mịn, phẳng
lặng.
Khơng có các đặc điểm tiên lượng tốt: Chỉ định này được áp dụng nếu hai hoặc
nhiều đặc điểm trên khơng có mặt.



Các triệu chứng đặc trưng của rối loạn dạng phân liệt giống hệt với bệnh tâm
thần phân liệt (tiêu chuẩn A). Rối loạn dạng phân liệt được phân biệt bởi sự khác biệt
về thời gian: tổng thời gian của căn bệnh, trong đó giai đoạn tiền triệu, hoạt động, và
giai đoạn di chứng, ít nhất là 1 tháng nhưng ít hơn 6 tháng (tiêu chuẩn B). Yêu cầu thời
gian cho rối loạn dạng phân liệt là trung gian giữa rối loạn loạn thần ngắn (kéo dài hơn
1 ngày và khỏi hẳn trong 1 tháng), và tâm thần phân liệt (kéo dài trong ít nhất 6 tháng).
Chẩn đốn rối loạn dạng phân liệt được thực hiện dưới hai điều kiện. 1) khi một cơn
bệnh kéo dài từ 1 đến 6 tháng và bệnh nhân đã bình phục, và 2) khi một bệnh nhân có
triệu chứng ít hơn thời gian 6 tháng, chưa hồi phục, có thể chẩn đốn tâm thần phân
liệt. Trong trường hợp này, chẩn đoán nên được ghi nhận là "rối loạn dạng phân liệt
(tạm thời)" bởi vì khơng chắc chắn về việc bệnh nhân sẽ hồi phục sau rối loạn trong
khoảng thời gian 6 tháng hay không. Nếu rối loạn kéo dài hơn 6 tháng, nên chẩn đoán
bệnh tâm thần phân liệt.
Một điểm khác biệt của rối loạn dạng phân liệt là thiếu một tiêu chí địi hỏi hoạt
động xã hội và nghề nghiệp suy giảm. Ngoài năm triệu chứng được xác định trong các
tiêu chuẩn chẩn đoán, việc đánh giá nhận thức, trầm cảm, và hưng cảm là rất quan
trọng để phân biệt quan trọng giữa phổ tâm thần phân liệt khác nhau và rối loạn loạn
thần khác.
Tỷ lệ mắc rối loạn dạng phân liệt cũng tương tự như ở bệnh tâm thần phân liệt.
Ở Hoa Kỳ và các nước phát triển khác, tỷ lệ mắc thấp, có thể ít hơn 5 lần so với bệnh
tâm thần phân liệt. Ở các nước đang phát triển, tỷ lệ này có thể cao hơn, đặc biệt đối
với người xác định "có đặc điểm tiên đốn tốt".
Sự tiến triển của rối loạn dạng phân liệt cũng tương tự như của bệnh tâm thần
phân liệt. Khoảng 1/3 số bệnh nhân có chẩn đoán ban đầu rối loạn dạng phân liệt (tạm
thời) hồi phục trong khoảng thời gian 6 tháng và rối loạn dạng phân liệt là chẩn đoán
cuối cùng của họ. Khoảng 2/3 còn lại cuối cùng sẽ nhận được một chẩn đoán tâm thần
phân liệt hoặc rối loạn cảm xúc phân liệt.
4. Rối loạn hoang tưởng (delusional disorder):
Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM – 5:
A. Sự hiện diện của một (hoặc nhiều hơn) hoang tưởng với thời gian từ 1 tháng trở

lên.
B. Tiêu chuẩn A cho TTPL chưa bao giờ đáp ứng.
Ghi chú: ảo giác nếu có, thì khơng nổi bật và có liên quan với chủ đề hoang tưởng
(VD: cảm giác bị nhiễm trùng có liên quan với hoang tưởng bị xâm hại.


C. Ngoài tác động hay hậu quả của hoang tưởng, các hoạt động không bị suy giảm
đáng kể, và hành vi khơng kỳ quặc một cách rõ ràng.
D. Nếu có xuất hiện trầm cảm hay hung cảm, thì những rối loạn này phải ngắn ngủi và
có liên quan với giai đoạn xuất hiện các hoang tưởng.
E. Rối loạn không phải do ảnh hưởng sinh lý của một chất hay một bệnh lý y khoa
khác, và khơng được giải thích bằng rối loạn tâm thần khác như: rối loạn biến hình
cơ thể, ám ảnh cưỡng chế.
Xác định thêm:
Thể được yêu (erotomania): áp dụng cho những bệnh nhân có hoang tưởng được
người khác yêu.
Thể tự cao (grandiose): áp dụng cho những bệnh nhân có hoang tưởng có tài năng,
hiểu biết tuyệt vời (nhưng không được công nhận), hoặc đã thực hiện những phát minh
quan trọng.
Thể ghen tuông (jealous): áp dụng cho bệnh nhân có hoang tưởng rằng người phối
ngẫu hoặc người yêu không chung thủy.
Thể bị hại (persecutory): áp dụng cho bệnh nhân có hoang tưởng bị người nào đó đang
âm mưu, lừa dối, theo dõi, đầu độc hoặc dùng ma túy gây rối hoặc cản trở bệnh nhân
theo đuổi những mục tiêu dài hạn.
Thể cơ thể (somatic): áp dụng cho hoang tưởng có chủ đề liên quan đến chức năng cơ
thể hoặc cảm giác.
Thể hổn hợp: áp dụng khi khơng có chủ đề hoang tưởng nào vượt trội.
Thể không xác định: áp dụng khi hoang tưởng bị lừa đảo chiếm ưu thế nhưng không
xác định cụ thể (VD: hoang tưởng liên hệ mà khơng có yếu tố bị hại hoặc tự cao).
Có nội dung kì qi: hoang tưởng được coi là kỳ quái nêu chúng không rõ ràng, không

dễ hiểu và khơng có nguồn gốc từ những trãi nghiệm trong cuộc sống bình thường (VD:
niềm tin rằng có người lạ lấy đi nội tạng bản thân và thay thế bằng cơ quan của người
khác, không để lại sẹo hoặc vết thương).
Mô tả lâm sàng: bệnh nhân thường ăn mặc sạch sẽ, gọn gàng, khơng có biến
đổi nhân cách hoặc giảm sút trong các hoạt động hàng ngày mặc dù họ có thể kỳ dị, đa
nghi, gây hấn, hay kiện cáo. Điểm nổi bật ở những bệnh nhân này là khám tâm thần,
khơng gi nhận gì khác thường , ngoại trừ hệ thống hoang tưởng bất thường rõ rệt.
Hoang tưởng thường có tính chất hệ thống hóa (paranoia) với đặc trưng là có thể xảy
ra trong đời sống (như hoang tưởng ghen tuông, bị hại, bị nhiễm trùng, được yêu). Nội
dung hoang tưởng này trái ngược với nội dung kỳ quái và không thể xãy ra như ở BN
TTPL. Cảm xúc của bệnh nhân phù hợp với khí sắc; VD: BN có hoang tưởng tự cao sẽ


hưng phấn, BN hoang tưởng bị hại sẽ đa nghi. Mặc dù khơng có các ảo giác nổi bật
nhưng ảo xúc, ảo khứu có thể hiện diện nếu chúng phù hợp với nội dung hoang tưởng.
Về hành vi, do sự chi phối của hoang tưởng, bệnh nhân có thể có hành vi tự sát, giết
người hoặc có hành vi bạo lực khác. Cần hỏi thăm về những vấn đề này và nhập viện
nếu bệnh nhân khơng thể kiểm sốt được các xung động này.
Tần suất của rối loạn tâm thần đã được ước tính khoảng 0,2% và thể thường
gặp nhất là hoang tưởng bị hại. Rối loạn hoang tưởng thể ghen tng có thể phổ biến ở
nam hơn so với nữ, nhưng khơng có sự khác biệt lớn về giới tính trong tổng số tần số
rối loạn hoang tưởng.
Tiến triển và tiên lượng: nhìn chung, hoạt động chức năng thường tốt hơn so
với quan sát thấy ở bệnh tâm thần phân liệt. Mặc dù chẩn đoán thường ổn định, nhưng
một tỷ lệ cá nhân tiếp tục phát triển thành tâm thần phân liệt. Rối loạn hoang tưởng có
mối quan hệ gần gủi đáng kể với cả tâm thần phân liệt và rối loạn nhân cách phân liệt.
Mặc dù nó có thể xảy ra ở các nhóm tuổi trẻ hơn, nhưng tình trạng này có thể phổ biến
hơn ở những người cao tuổi.
5. Rối loạn cảm xúc phân liệt:
Tiêu chuẩn chẩn đoán DSM – 5:

A. Một giai đoạn bệnh liên tục trong đó có một giai đoạn khí sắc chủ yếu (trầm cảm
hoặc hưng cảm) đồng thời với tiêu chuẩn A của tâm thần phân liệt.
Lưu ý: giai đoạn trầm cảm chủ yếu phải bao gồm tiêu chuẩn A1: khí sắc trầm cảm.
B. Hoang tưởng hay ảo giác trong 2 tuần hoặc nhiều hơn khi khơng có một giai đoạn
khí sắc chủ yếu (trầm cảm hoặc hung cảm) trong suốt thời gian bệnh.
C. Triệu chứng đáp ứng các tiêu chuẩn cho một giai đoạn khí sắc chủ yếu hiện diện
trong phần lớn thời gian của các giai đoạn hoạt động và di chứng của bệnh.
D. Rối loạn không phải do ảnh hưởng của chất (VD: lạm dụng ma túy, thuốc) hoặc một
bệnh lý y khoa khác.
Ghi rõ nếu:
Mã 295.70 (F25.0) thể lưỡng cực: tiểu thể này áp dụng nếu có một giai đoạn hưng
phấn là một phần của biểu hiện lâm sàng. Các giai đoạn trầm cảm chủ yếu cũng có thể
xảy ra.
Mã 295.70 (F25.1) thể trầm cảm: tiểu thể này áp dụng nếu chỉ có các giai đoạn trầm
cảm chủ yếu là một phần của của biểu hiện lâm sàng.
Chẩn đoán rối loạn cảm xúc phân liệt được dựa trên việc đánh giá giai đoạn
bệnh liên tục trong suốt thời gian mà bệnh nhân tiếp tục biểu hiện các triệu chứng
dương tính hoặc di chứng của bệnh loạn thần. Chẩn đốn thường, nhưng khơng nhất


thiết, được thực hiện trong giai đoạn loạn thần. Thỉnh thoảng trong thời kỳ này, tiêu
chuẩn A cho bệnh tâm thần phân liệt cũng đáp ứng. Tiêu chuẩn B (rối loạn xã hội) và F
(loại trừ rối loạn phổ tự kỷ hoặc rối loạn vận động khác khởi phát thời niên thiếu) của
bệnh tâm thần phân liệt phải không đáp ứng. Ngồi việc đáp ứng tiêu chí A đối với bệnh
tâm thần phân liệt, có một giai đoạn khí sắc chủ yếu (trầm cảm chủ yếu hoặc hưng
cảm) (tiêu chuẩn A cho rối loạn cảm xúc phân liệt). Bởi vì mất hứng thú hoặc khoái cảm
là cũng phổ biến ở bệnh tâm thần phân liệt, nên để đáp ứng tiêu chuẩn A đối với rối
loạn cảm xúc phân liệt, giai đoạn trầm cảm chủ yếu phải bao gồm tâm trạng chán nản
lan rộng (nghĩa là, sự hiện diện của sự giảm sút rõ rệt sự quan tâm hoặc niềm vui là
không đủ). Các giai đoạn trầm cảm hoặc hưng cảm có mặt trong phần lớn thời gian của

bệnh (nghĩa là sau khi tiêu chí A đã được đáp ứng) (tiêu chuẩn C cho rối loạn cảm xúc
phân liệt). Để phân biệt rối loạn cảm xúc phân liệt với rối loạn trầm cảm hoặc lưỡng cực
có các triệu chứng loạn thần, hoang tưởng hoặc ảo giác phải có mặt ít nhất 2 giờ khi
khơng có giai đoạn khí sắc nặng (trầm cảm hoặc hưng cảm) ở một thời điểm nào đó
trong suốt thời gian bệnh (tiêu chuẩn B cho rối loạn cảm xúc phân liệt). Các triệu chứng
không phải do ảnh hưởng của chất hoặc tình trạng bệnh lý khác (tiêu chuẩn D đối với
rối loạn cảm xúc phân liệt). Tiêu chuẩn C cho rối loạn cảm xúc phân liệt quy định rằng
các triệu chứng khí sắc đáp ứng các tiêu chí cho một giai đoạn khí sắc chủ yếu phải có
mặt trong phần lớn thời gian của giai đoạn hoạt động và giai đoạn di chứng của bệnh.
Tiêu chuẩn C yêu cầu việc đánh giá các triệu chứng khí sắc trong suốt q trình
bệnh tâm thần, khác với tiêu chí trong DSM-IV, chỉ cần đánh giá giai đoạn hiện tại của
bệnh. Nếu các triệu chứng khí sắc chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian tương đối
ngắn, chẩn đoán là tâm thần phân liệt, không phải rối loạn cảm xúc phân liệt. Khi quyết
định rằng biểu hiện lâm sàng của một bệnh nhân có đáp ứng tiêu chuẩn C hay khơng,
bác sĩ lâm sàng nên xem xét tồn bộ thời gian của bệnh tâm thần (tức là cả triệu chứng
giai đoạn hoạt động và các triệu chứng di chứng) và xác định các triệu chứng khí sắc
đáng kể (khơng điều trị hoặc cần điều trị bằng thuốc chống trầm cảm và/hoặc thuốc
điều hịa khí sắc) kèm theo các triệu chứng tâm thần. Sự xác định này địi hỏi phải có
đầy đủ thông tin bệnh sử và đánh giá lâm sàng. Ví dụ: một cá nhân có bệnh sử 4 năm
về các triệu chứng hoạt động và di chứng của bệnh tâm thần phân liệt, xuất hiện các


giai đoạn trầm cảm và hưng cảm, cùng lúc với nhau, không chiếm quá 1 năm trong
suốt 4 năm bệnh tâm thần.
Bên cạnh năm triệu chứng được xác định trong các tiêu chuẩn chẩn đoán, đánh
giá các lĩnh vực triệu chứng nhận thức, trầm cảm, và hưng cảm là điều quan trọng để
tạo ra những khác biệt quan trọng giữa phổ tâm thần phân liệt khác nhau và các rối
loạn tâm thần khác.
Rối loạn cảm xúc phân liệt dường như chỉ chiếm khoảng 1/3 tỷ lệ của tâm thần
phân liệt. Tần suất cả đời của rối loạn cảm xúc phân liệt được ước tính là 0,3%. Tỷ lệ

rối loạn cảm xúc phân liệt cao hơn ở nữ giới so với ở nam giới, chủ yếu là do tỷ lệ trầm
cảm gia tăng ở phụ nữ.
Tiến triển và tiên lượng: tuổi khởi phát rối loạn cảm xúc phân liệt thường là giai
đoạn trưởng thành sớm, mặc dù khởi phát có thể xảy ra ở bất cứ đâu từ tuổi vị thành
niên đến cuối đời. Một số lượng đáng kể các cá nhân được chẩn đoán với bệnh tâm
thần khác ban đầu sẽ nhận được các chẩn đoán rối loạn cảm xúc phân liệt sau đó khi
mơ hình của bệnh cảnh khí sắc đã trở nên rõ ràng hơn. Với tiêu chuẩn C hiện tại, hy
vọng rằng chẩn đoán cho một số cá nhân sẽ chuyển đổi từ rối loạn cảm xúc phân liệt
sang rối loạn khác vì các triệu chứng khí sắc trở nên không nổi bật. Tiên lượng của rối
loạn cảm xúc phân liệt khá tốt so với tiên lượng cho bệnh tâm thần phân liệt, nhưng
xấu hơn tiên lượng của rối loạn khí sắc.
Rối loạn cảm xúc phân liệt có thể xảy ra trong nhiều hồn cảnh. Sau đây là một
mơ hình điển hình: một cá nhân có thể đã phát hiện ảo giác thính giác và hoang tưởng
bị hại trong 2 tháng trước khi bắt đầu của một giai đoạn trầm cảm chủ yếu nổi bật. Các
triệu chứng loạn thần và giai đoạn trầm cảm chủ yếu đầy đủ sau đó sẽ xuất hiện trong 3
tháng. Sau đó, bệnh nhân hồi phục hoàn toàn khỏi giai đoạn trầm cảm chủ yếu, nhưng
các triệu chứng bệnh loạn thần vẫn tồn tại trong một tháng trước khi chúng biến mất.
Trong giai đoạn bệnh này, các triệu chứng của từng cá nhân đồng thời đáp ứng các tiêu
chuẩn cho một giai đoạn trầm cảm chủ yếu và tiêu chuẩn A cho bệnh tâm thần phân liệt
và trong cùng thời gian này, có ảo thanh và hoang tưởng trước và sau giai đoạn trầm
cảm. Tổng thời gian bệnh kéo dài khoảng 6 tháng, với các triệu chứng loạn thần xuất
hiện đơn độc trong suốt 2 tháng đầu, cả triệu chứng trầm cảm và loạn thần hiện diện
trong 3 tháng tới, và các triệu chứng loạn thần chỉ có trong tháng cuối cùng. Trong
trường hợp này, thời gian của giai đoạn trầm cảm không ngắn so với tổng thời gian của


rối loạn tâm thần, và do đó biểu hiện lâm sàng này đủ điều kiện để chẩn đoán rối loạn
cảm xúc phân liệt.
Biểu hiện của các triệu chứng loạn thần theo tuổi thọ là rất khác nhau. Triệu
chứng trầm cảm hoặc hưng cảm có thể xảy ra trước khi bắt đầu chứng loạn tâm thần,

trong giai đoạn loạn thần cấp, trong giai đoạn di chứng, và sau khi ngừng loạn tâm
thần. Ví dụ: một cá nhân có thể xuất hiện với các triệu chứng khí sắc nổi bật trong giai
đoạn tiền thân của tâm thần phân liệt. Mơ hình này không nhất thiết chỉ ra là rối loạn
cảm xúc phân liệt, cho đến khi có sự xuất hiện đồng thời các triệu chứng loạn thần và
khí sắc được chẩn đốn. Đối với một cá nhân có các triệu chứng rõ ràng đáp ứng các
tiêu chí cho rối loạn cảm xúc phân liệt, nhưng các triệu chứng sau đó chỉ biểu hiện với
các triệu chứng loạn thần di chứng (như loạn thần dưới ngưỡng và/hoặc triệu chứng
âm tính nổi bật), chẩn đốn có thể được thay đổi thành tâm thần phân liệt khi tỷ lệ biểu
hiện loạn thần so với các triệu chứng khí sắc trở nên nổi bật hơn. Rối loạn cảm xúc
phân liệt, thể lưỡng cực, có thể phổ biến hơn ở thanh thiếu niên, trong khi rối loạn cảm
xúc phân liệt, thể trầm cảm, có thể phổ biến hơn ở người lớn tuổi.
6. Rối loạn loạn thần chia sẻ:
Bệnh rối loạn loạn thần chia sẻ (cũng gọi là rối loạn hoang tưởng chia sẻ, rối
loạn loạn thần bị ảnh hưởng, điên tay đôi - folie de laux, điên áp đặt, và chứng điên đôi)
lần đầu tiên được mô tả bởi hai bác sĩ tâm thần học Pháp, Lasegue và Falret năm
1877. Có lẽ hiếm, nhưng tỷ lệ mắc và tỷ lệ hiện nhiễm đang thiếu, và các tài liệu gần
như chỉ là báo cáo trường hợp bệnh.
Rối loạn này được đặc trưng bởi sự chuyển giao các hoang tưởng từ người này
sang người khác. Cả hai người có liên quan chặt chẽ trong một thời gian dài và điển
hình là sống chung với nhau trong sự cơ lập xã hội tương đối. Trong hình thức phổ biến
nhất (được bao gồm trong các tiêu chí DSM-IV-TR), cá nhân có hoang tưởng đầu tiên
(trường hợp chính) thường bị bệnh mãn tính và thường là thành viên có ảnh hưởng
của mối quan hệ gần gũi với một người gợi ý hơn (trường hợp thứ yếu) mà người này
cũng phát triển hoang tưởng. Người trong trường hợp thứ hai thường kém thông minh
hơn, dễ tin hơn, thụ động hơn hoặc thiếu tự tin hơn người trong trường hợp chính. Nếu
tách rời ra, người thứ yếu có thể từ bỏ hoang tưởng, nhưng kết quả này khơng được
nhìn nhận một cách thống nhất. Sự xuất hiện của hoang tưởng là do ảnh hưởng mạnh
mẽ của thành viên chi phối. Tuổi già, trí thơng minh thấp, suy giảm cảm giác, bệnh



mạch não và lạm dụng rượu là những yếu tố liên quan đến dạng rối loạn loạn thần đặc
biệt này. Một khuynh hướng di truyền cho các rối loạn tự phát cũng đã được gợi ý như
là một yếu tố nguy cơ có thể xảy ra.
Các hình thức đặc biệt khác đã được báo cáo, chẳng hạn như “điên bị kích
thích” (folie simultanée), trong đó có hai người trở nên loạn thần đồng thời và chia sẻ
cùng hoang tưởng. Thỉnh thoảng có nhiều hơn hai người tham gia vào hoang tưởng
(VD: điên tay ba - folie à trois, quatre, cinq, hoặc điên gia đình - folie à famille), nhưng
những trường hợp như vậy rất hiếm. Các mối quan hệ phổ biến nhất trong loạn thần
chia sẻ là chị em gái, vợ chồng, và mẹ - con, nhưng sự kết hợp khác cũng đã được mô
tả. Hầu như tất cả các trường hợp đều liên quan đến thành viên của một gia đình.
Đặc điểm quan trọng nhất là: sự chấp nhận không nghi vấn các hoang tưởng
của người khác. Hoang tưởng này thường có tính thực tế và khơng kỳ qi như ở
TTPL. Chủ đề thường là bị hại, tự cao, nghi bệnh.
Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM – IV – TR:
A. Một hoang tưởng phát triển ở một cá nhân trong bối cảnh một quan hệ thân thiết với
một người khác, mà người này có một hoang tưởng đã được xác lập.
B. Hoang tưởng có nội dung tương tự với hoang tưởng của người có hoang tưởng đã
xác lập.
C. Rối loạn không phải do một rối loạn loạn thần khác (VD: TTPL) hoặc một rối loạn khí
sắc với nét loạn thần, và không phải do các tác động sinh lý trực tiếp của một chất
(VD: lạm dụng ma túy, thuốc) hoặc một bệnh lý y khoa.
Trong DSM-5, bệnh lý này được gọi là các triệu chứng hoang tưởng ở đối tác
của cá nhân bị rối loạn hoang tưởng: Trong bối cảnh mối quan hệ, chất liệu về hoang
tưởng từ đối tác chiếm ưu thế cung cấp nội dung cho niềm tin hoang tưởng của cá
nhân, nhưng cá nhân thứ phát này khơng hồn tồn đáp ứng các tiêu chuẩn cho rối
loạn hoang tưởng.
III.
Điều trị hóa dược với loạn thần:
Do căn nguyên chưa được biết rõ, nên cho đến nay, việc điều trị TTPL và các
bệnh lý loạn thần vẫn còn là điều trị triệu chứng. Việc điều trị nhằm mục đích khắc phục

các trạng thái rối loạn tâm thần cấp tính, củng cố và duy trì giai đoạn bệnh thun giảm,
phịng chống tái phát, tái thích ứng tâm lý – xã hội, và phục hồi chức năng lao động cho
người bệnh.
Muốn đạt kết quả tốt, bệnh cần được điều trị sớm và toàn diện với sự kết hợp
nhiều liệu pháp, được theo dõi lâu dài và liên tục tại cơ sở chuyên khoa.


Trong những năm gần đây, sự ra đời của nhiều thuốc chống loạn thần thế hệ
mới và sự quan tâm nhiều hơn đến yếu tố tâm lý – xã hội, bệnh TTPL và các bệnh lý
loạn thần đã được điều trị an toàn và hiệu quả hơn, giảm đáng kể những trường hợp
cần nhập viện, và giảm chi phí điều trị, đem lại hy vọng cho người bệnh và gia đình họ.
1. Nhập viện:
Hiện nay, phần lớn bệnh nhân TTPL được điều trị ngoại trú. Việc điều trị nội trú,
nếu cần thiết, chỉ giới hạn trong 4 – 6 tuần và chỉ định trong trường hợp sau:
 Lúc mới khởi phát giai đoạn loạn thần đầu tiên: việc nhập viện nhằm tạo
điều kiện cho chẩn đốn chính xác, đảm bảo an tồn cho BN, tiến hành
các liệu pháp hóa dược và tâm lý dưới sự theo dõi chặt chẽ. Các điều trị


này sẽ được tiếp tục sau khi xuất viện.
Khi BN có hành vi kích động, gây nguy hiểm cho bản than và người xung



quanh, khi BN có ý định hoặc hành vi tự sát, hoặc bỏ ăn uống.
Khi BN có hành vi vơ tổ chức rõ rệt, ảnh hưởng đến khả năng tự chăm

sóc.
Việc tái nhập viện rất hay gặp trong TTPL và bệnh loạn thần, chiếm khoảng 70%
tổng số lần nhập viện. Một khủng hoảng trong cuộc sống cũng có thể làm bệnh tái phát,

VD: tang chế, mâu thuẫn gia đình … và cần được nhập viện trở lại.
2. Điều trị bằng thuốc:
2.1. Thuốc chống loạn thần cổ điển (thuốc đối vận dopamine – DRA):
Các thuốc đầu tiên như: chlorpromazine, haloperidol, thioridazine … được gọi là
thuốc chống loạn thần cổ điển, có tác dụng đối vận, chủ yếu trên thụ thể dopamine. Các
thuốc này chỉ có hiệu quả tốt trên 25% bệnh nhân TTPL. Hiệu quả của nhóm thuốc này
chủ yếu trên triệu chứng dương tính như hoang tưởng, ảo giác, hành vi vơ tổ chức,
kích động, nhưng ít có hiệu quả trên các triệu chứng âm tính, di chứng. Các tác dụng
phụ chính là tác dụng phụ ngoại tháp, nặng nhất là rối loạn vận động muộn và hội
chứng ác tính.
Chia thành nhóm thuốc chống loạn thần yếu (low potency) như chlorpromazine,
thioridazine, mesoridazine và nhóm chống loạn thần mạnh (high potency) như
haloperidol, fluphenazine. Các thuốc chống loạn thần cổ điển có hiệu quả ngang nhau
ở liều tương đương, chỉ khác nhau ở tác dụng phụ. Liều thay đổi theo tuổi, tình trạng
sức khỏe tổng quát, cân nặng cơ thể, giai đoạn bệnh, sự dung nạp thuốc và đáp ứng
thuốc của từng bệnh nhân. Để đạt hiệu quả tốt nhất, thuốc cần được cho liều tối ưu và
trong khoảng thời gian thích hợp.


Ở BN TTPL cấp tính, thuốc thường khởi đầu liều tương đương 300 – 500mg
chlorpromazine/ngày (hoặc 5 – 10mg haloperidol/ngày). Sau đó tăng hoặc giảm liều tùy
đáp ứng của bệnh nhân hoặc sự xuất hiện của tác dụng phụ. Các triệu chứng kích
động, lo âu, mất ngủ thường cải thiện nhanh chóng sau khi bắt đầu điều trị. Các triệu
chứng hoang tưởng, ảo giác thường thuyên giảm trong 1 – 2 tuần, nhưng cũng có thể
cần đến 6 tuần. Thời gian 6 tuần là thời gian cần thiết để đánh giá hiệu quả của một liều
thuốc trước khi tăng hoặc chuyển sang một thuốc khác.
Khi các triệu chứng đã ổn định, có thể chuyển sang điều trị duy trì với liều tương
đương 150 – 200mg chlorpromazine/ngày, thường vào buổi tối, giúp BN dễ ngủ, giảm
bớt các tác dụng phụ. Thời gian duy trì bằng thuốc chống loạn thần thường kéo dài 1 –
2 năm sau giai đoạn loạn thần đầu tiên, 5 năm sau giai đoạn loạn thần thứ hai và có thể

kéo dài suốt đời sau giai đoạn loạn thần thứ ba trở đi mặc dù cố gắng giảm liều thuốc
mỗi 6 – 12 tháng.
2.2. Thuốc chống loạn thần thế hệ mới:
Còn được gọi là thuốc chống loạn thần khơng điển hình (atypical) hoặc thuốc đối
vận serotonine-dopamine (SDA). Theo các nghiên cứu, thuốc này vừa có hiệu quả ít
nhất ngang haloperidol trên các triệu chứng dương tính của TTPL, mà cịn tác dụng lên
triệu chứng âm tính, được dung nạp tốt hơn do ít có hoặc khơng có tác dụng phụ ngoại
tháp. Do đó, hiện nay, nhóm thuốc này (trừ clozapine) được chọn lựa đầu tiên trong
điều trị TTPL.
Clozapine: có hiệu quả ở TTPL, nhưng khơng được chọn lựa hàng đầu do tác
dụng gây giảm bạch cầu hạt (granulocytosis), gây động kinh, viêm cơ tim, hạ huyết áp
tư thế, tăng cân, buồn ngủ, mệt mỏi, tăng tiết nước bọt, khơ miệng, táo bón, …
Risperidone: là thuốc chống loạn thần thế hệ mới có hiệu quả với ít tác dụng
phụ nên được xem là chọn lựa hàng đầu trong TTPL. Liều tốt nhất 2 – 6mg/ngày chia 2
lần., liều trên 6mg có thể gây tác dụng phụ ngoại tháp.
Olanzapine: là thuốc chống loạn thần với ít tác dụng phụ ngoại tháp so với
risperidone. Tuy nhiên, thuốc này gây buồn ngủ, tăng cân, rối loạn dung nạp glucose,
và chuyển hóa lipid, hạ huyết áp tư thế, táo bón. Thường dùng liều 5 – 20mg/ngày, có
thể sử dụng 1 lần vào buổi tối. Liều trên 20mg có thể gây tác dụng phụ ngoại tháp.
Quetiapine: ít gây tác dụng phụ ngoại tháp, khơng có tác dụng anticholinergic,
khơng gây tăng tiết prolactine. Tác dụng phụ chủ yếu là buồn nôn, hạ huyết áp tư thế,


tim nhanh, bức rức, khơ miệng, táo bón, tăng cân, tăng men gan tạm thời. Liều thường
dùng 150 – 600mg/ngày chia 2 lần.
Ziprasidone: ngồi hiệu quả trong TTPL, thuốc cịn hiệu quả lên triệu chứng
cảm xúc giống như quetiapine, do tác dụng ngăn chặn tái hấp thu serotonine và
norepinephrine, và trên bệnh nhân lo âu, có tác dụng đồng vận thụ thể 5-HT1A.
Ziprasidone là thuốc chống loạn thần không điển hình duy nhất khơng có tác dụng gây
tăng cân. Tác dụng phụ chủ yếu là buồn ngủ, chóng mặt, buồn nơn, chống váng.

Thuốc cịn tác dụng kéo dài khoảng QTc kết hợp gây loạn nhịp thất, có thể dẫn đến
rung thất và tử vong, nên trước, trong khi đang dùng zirpasidone, cần theo dõi điện tim.
Nên bắt đầu bằng liều 40mg/ngày. Liều hiệu quả 80 – 160mg/ngày chia 2 lần.
Sertindole: tác dụng phụ thường là tim đập nhanh, sung huyết mũi, hạ huyết áp
tư thế, chóng mặt, tăng cân, buồn nơn, kéo dài khoảng QTc. Rất ít hoặc khơng gây tác
dụng phụ ngoại tháp, không gây buồn ngủ hoặc tăng tiết prolactine, khơng cóc dụng
anticholinergic. Thường khởi đầu liều 4mg/ngày, tăng dần đến 12 – 24mg/ngày dùng 1
lần trong ngày.
IV.
Chăm sóc BN loạn thần:
1. Chăm sóc về cơ thể:
2. Chăm sóc về tâm lý – tâm thần:
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Văn Nuôi. Tâm thần phân liệt và các rối loạn loạn thần khác. Tâm thần học,
Bộ Môn Tâm Thần – ĐHYD TP.HCM, Nhà Xuất Bản Y Học, 2005.
2. American Psychiatric Association. Schizophrenia spectrum and other psychotic
disorders. Section 2: Diagnostic criteria and codes. In: Diagnostic and statistical
manual of mental disorders, fifth edition, Arlington, VA, 2013, p87-122.
3. Sadock, Benjamin James; Sadock, Virginia Alcott. Chapter 13: Schizophrenia. In:

Title: Kaplan & Sadock's Synopsis of Psychiatry: Behavioral Sciences/Clinical
Psychiatry, 10th Edition, 2007 Lippincott Williams & Wilkins, p468-498, p499-527.
4. Sadock, Benjamin James; Sadock, Virginia Alcott. Chapter 14: Other psychotic

disorders. In: Title: Kaplan & Sadock's Synopsis of Psychiatry: Behavioral
Sciences/Clinical Psychiatry, 10th Edition, 2007 Lippincott Williams & Wilkins, p499527.
5. Stephen M. Stahl. Chapter 4: Psychosis and schizophrenia. In: Stahl’s Essential
Psychopharmacology – Neuroscientific Basis and Practical Application, fourth



edition, Cambridge University Press The Edinburgh Building, Cambridge CB2 8RU,
UK, p79-128.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×