Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

MÔ HÌNH TINH TINH NHIỄM HIV AIDS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.2 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

TINH TINH NHIỄM HIV/AIDS

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 05 năm 2021


LÊ NGUYỄN ANH TÚ

MỤC LỤC

MỤC LỤC.........................................................................................2
I. TÌNH HUỐNG:............................................................................3
II. VẤN ĐỀ:.....................................................................................4
1.

Nếu tinh tinh khơng phải là lồi có nguy cơ tuyệt chủng, liệu

sự tương đồng của chúng với con người có mang lại cho chúng ưu
đãi đặc biệt không?.........................................................................4
2.

Nếu tinh tinh khơng giống con người như vậy, tình trạng nguy

cấp có khiến chúng được miễn khỏi các dự án nghiên cứu?............6
3.

Có phải AIDS là một căn bệnh nguy hiểm của con người

không?.............................................................................................7


4.

Với tất cả các kinh nghiệm sinh học tế bào cho phép chúng ta

nghiên cứu tương tác tế bào - virus trực tiếp, nghiên cứu động vật
có lỗi thời khơng?.............................................................................9
5.

Chúng ta có mang nợ đặc biệt gì đối với những động vật đã

“nghỉ hưu” bởi nghiên cứu như vậy không?...................................10
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................12

2


LÊ NGUYỄN ANH TÚ

I.

TÌNH HUỐNG:

Tình huống 5 - Tinh tinh nhiễm AIDS
Virus gây suy giảm miễn dịch ở người (AIDS) được biết đến như
một trong những cuộc khủng hoảng sức khỏe hàng đầu trong thời
đại chúng ta. Cách tiếp cận cổ điển để nghiên cứu bệnh truyền
nhiễm là lây nhiễm ở động vật không phải ở người, nghiên cứu
diễn biến của bệnh trong mơ hình này và, khi diễn biến tự nhiên
của nó đã được xác định rõ, tiếp tục sử dụng mơ hình này để phát
triển vắc xin và phương pháp điều trị. Khi virus HIV lần đầu tiên

được phát hiện, đã có một loạt hoạt động nhằm tìm kiếm một
động vật khơng phải con người có thể bị nhiễm bệnh và phát triển
một căn bệnh tương tự. Những nỗ lực ban đầu ở chó, khỉ và lồi
gặm nhấm đã khơng thành cơng. Một số virus ở người, ví dụ, viêm
gan B, chỉ phát triển ở người và họ hàng gần nhất, tinh tinh. Điều
thú vị là viêm gan B khơng làm cho tinh tinh bị bệnh, vì vậy chúng
có thể được sử dụng để sàng lọc vắc-xin mà khơng khiến chúng bị
bệnh. Vì vậy, bước hợp lý tiếp theo là cố gắng lây nhiễm cho tinh
tinh.
Những người ủng hộ hy vọng rằng tinh tinh sẽ ủ virus thành công.
Nếu chúng bị bệnh, chúng sẽ giúp chúng ta nghiên cứu về đặc
điểm sinh học cơ bản của virus và phân tích các khả năng điều trị
khác nhau. Nếu chúng khơng bị bệnh, chúng vẫn có thể được ứng
dụng để điều tra các kỹ thuật, đặc biệt là vắc-xin, để ngăn chặn sự
lây nhiễm xảy ra. Nếu chúng mắc bệnh nghiêm trọng, chúng có
thể được chết một cách nhân đạo khi chúng ta đã xác định đầy đủ
về quá trình bệnh tật liên tục ở lồi này. Nếu chúng khơng bao giờ
bị bệnh, chúng có thể ln là vật mang mầm bệnh cho người,
nhưng chúng có thể sống cuộc sống thoải mái trong điều kiện nuôi
3


LÊ NGUYỄN ANH TÚ

nhốt, thậm chí có thể nhân giống nhiều tinh tinh hơn để nghiên
cứu (giả sử việc lây nhiễm từ tinh tinh sang tinh tinh là rất ít).
Những người phản đối nói rằng tinh tinh là con người đủ hoàn
chỉnh theo nhiều cách để khiến chúng mắc phải căn bệnh quái ác
này. Một số người cho rằng sự lây nhiễm này là một điều nguy
hiểm của con người, việc lây nhiễm cho động vật vô tội trở nên

đặc biệt vơ đạo đức.
Hơn nữa, tinh tinh là một lồi có nguy cơ tuyệt chủng, và số lượng
của chúng sẽ nhanh chóng bị suy giảm điều này, bất kể các
chương trình nhân giống ni nhốt. Một số người phản đối bất kỳ
thử nghiệm nào trên động vật, trong khi những người khác chỉ ra
rằng các loại virus tương tự của cừu, khỉ và mèo là đủ phù hợp để
phục vụ tốt như những mơ hình tự nhiên.
Một số sự thật, như ta biết là:
1. Một vài con tinh tinh đã bị nhiễm, nhưng không con nào bị bệnh.
Tuy nhiên, thời gian ủ bệnh ở người có thể trên một thập kỷ từ
khi nhiễm bệnh đến khi phát bệnh. Chúng có là một bản sao
hoàn hảo?
2. Hầu hết các nghiên cứu quan trọng cho đến nay đều được thực
hiện với tế bào và virus trong ống nghiệm, khơng phải nghiên
cứu tồn bộ trên động vật.
II. VẤN ĐỀ:
1.

Nếu tinh tinh không phải là lồi có nguy cơ tuyệt

chủng, liệu sự tương đồng của chúng với con người có
mang lại cho chúng ưu đãi đặc biệt không?

4


LÊ NGUYỄN ANH TÚ

Tinh tinh và con người có mối quan hệ gần gũi về mặt tiến hóa
cũng như bộ gen cả hai loài giống nhau gần 99% [8]. Nhưng việc

sử dụng tinh tinh làm mơ hình thí nghiệm vẫn còn đáng tranh cãi.
Viện Y học Hoa Kỳ đã đưa ra một vài khuyến nghị cho việc sử dụng
tinh tinh trong nghiên cứu [8]:
Khuyến nghị 1: Viện Y tế Quốc gia nên hạn chế sử dụng tinh tinh
trong nghiên cứu y sinh đối với những nghiên cứu đáp ứng ba tiêu
chí sau:


Khơng có mơ hình phù hợp nào khác, chẳng hạn như invitro,
invivo không trên con người, hoặc các mô hình khác, cho
nghiên cứu được đề cập.



Nghiên cứu được đề cập không thể được thực hiện về mặt
đạo đức đối với các đối tượng con người.



Từ bỏ việc sử dụng tinh tinh cho nghiên cứu được đề cập sẽ
làm chậm hoặc ngăn cản đáng kể những tiến bộ quan trọng để
ngăn ngừa, kiểm sốt hoặc điều trị các tình trạng suy nhược
hoặc đe dọa tính mạng.

Khuyến nghị 2: Viện Y tế Quốc gia nên hạn chế sử dụng tinh tinh
trong nghiên cứu hệ gen và hành vi so sánh đối với những nghiên
cứu đáp ứng hai tiêu chí sau:
 Các nghiên cứu cung cấp cái nhìn sâu sắc khơng thể đạt được
về bộ gen so sánh, hành vi bình thường và bất thường, sức
khỏe tâm thần, cảm xúc hoặc nhận thức; và

 Tất cả các thí nghiệm đều được thực hiện trên những con vật bị
mắc bệnh, theo cách giảm thiểu đau đớn và đau đớn, và ít xâm
lấn.
Những nghiên cứu về gen tinh tinh để áp dụng trên người sẽ gần
như vơ nghĩa vì trình tự nucleotide chỉ là một yếu tố xác định chức

5


LÊ NGUYỄN ANH TÚ

năng thực sự của gen và thời gian và thời gian nó thực hiện chức
năng này. Một gen phải được đặt trong bối cảnh của các gen khác,
mạng lưới gen, gen điều hòa, gen sửa đổi và protein trước khi mơ
tả đầy đủ có thể được thiết lập. Bên cạnh đó tinh tinh và con người
có nhiều sự gần gũi hơn chúng ta tưởng. Hiện nay tinh tinh vẫn là
lồi có trí thơng minh vượt trội so với tất cả các loài động vật bậc
cao khác. Nghiên cứu quan sát hành động của chúng cho thấy
rằng sự thơng minh của chúng được hình thành thơng qua vài yếu
tố như: (1) hệ thống vận động vượt trội (2) được huấn luyện (3) tư
thế bán đứng và hai chân của chúng (4) sự bắt chước thơng minh
được hình thành trong não và (5) hình thức lập luận thấp hoặc
những ý tưởng chưa hoàn thiện [21]. Hơn nữa tinh tinh cịn có các
biểu hiện của những cảm xúc giống con người hơn nhất là sự cảm
thơng. Tinh tinh có khả năng thông cảm và hiểu cho những người
thân quen hơn cả động vật cùng lồi với nó là khỉ đầu chó [10].
Biểu cảm khn mặt là một phương thức giao tiếp khơng giọng nói
quan trọng và ở tinh tinh có rất nhiều tín hiệu trên khn mặt,
nhưng người ta vẫn biết rất ít về biểu hiện trên khn mặt (tức là
bắt chước) cơ bắp của những chuyển động này, đặc biệt là khi so

sánh với một số loài Catarrhine khác [9]. Chính những cơ chuyển
động trên khn mặt khiến chúng ta cảm giác chúng có cảm xúc
như con người và tạo ra tâm lý gần gũi với con người. Ở một
nghiên cứu về âm thanh đau đớn giữa trẻ sơ sinh, tinh tinh và
Bonobo (tinh tinh lùn) cho kết luận rằng âm thanh khi phải chịu
đau (trong thí nghiệm là khi tiêm vacxin) của tinh tinh và trẻ sơ
sinh có âm độ khá giống nhau. Điều này cho thấy các nhà khoa
học sẽ gặp khó khăn trong việc sử dụng tinh tinh trong nghiên cứu
[17]. Dù tinh tinh không phải là lồi nguy cấp, thì việc chúng là họ
hàng gần gũi với con người và có những phát triển thể chất, trí
6


LÊ NGUYỄN ANH TÚ

não, khả năng bộc lộ cảm xúc cũng là những khó khăn khi sử dụng
tinh tinh làm mơ hình động vật trong nghiên cứu y sinh. Trải qua
thời gian thí nghiệm dài nhất là dùng tinh tinh làm mơ hình nghiên
cứu sinh lý bệnh sẽ dần dần tạo cho các nhà nghiên cứu cảm giác
gần gũi và khi chúng chết sẽ gây ra những tổn thương tâm lý với
họ.
2.

Nếu tinh tinh không giống con người như vậy, tình

trạng nguy cấp có khiến chúng được miễn khỏi các dự án
nghiên cứu?
Tình trạng của tinh tinh hiện nay đang ở mức báo động, chúng
hiện đang đối diện với rất nhiều mối đe dọa, mà nghiêm trọng nhất
là tình trạng phá rừng và săn bắt chúng bất hợp pháp là thức ăn và

để bán làm thú cảnh. Tuy đã có một số khu vực được quy hoạch
thành khu bảo tồn và thực hiện nhân giống nhưng không mấy hiệu
quả. Tinh tinh có tác động đáng kể đến mơi trường xung quanh
chúng, và nhiều sinh vật khác cũng đang phụ thuộc vào sự tồn tại
của tinh tinh. Chẳng hạn như khi tinh tinh di chuyển trong rừng
rậm, chúng có thể tạo ra các khoảng trống giữa những tán cây tạo
điều kiện chiếu sáng cho các sinh vật sinh sống phía dưới, hoặc
chúng phát tán hạt của trái cây thông qua chất thải hoặc các hạt
dính trên bộ lơng rậm của chúng. Khi tinh tinh thật sự tuyệt chủng,
rất nhiều loài khác nhau trong hệ sinh thái có tinh tinh cũng bị ảnh
hưởng. Cuối cùng là sẽ ảnh hưởng đến con người chúng ta. Dùng
tinh tinh để làm mơ hình bệnh lý, hoặc chúng sẽ không sao nhưng
vẫn mang mầm bệnh cho người, hoặc sẽ biểu hiện bệnh có thể
mang tính lây lan cao cho những cá thể khác và đặc biệt là cho cả
con người, nghiêm trọng hơn nữa là bệnh có nguy cơ gây tử vong.
Có một nghiên cứu về SIV ở tinh tinh (tương tự HIV ở người) cho

7


LÊ NGUYỄN ANH TÚ

rằng, nhưng con tinh tinh bị nhiễm SIV có tỷ lệ tử vong cao hơn
nhưng con khơng bị nhiễm từ 10 đến 16 lần, những con cái thì bị
giảm khả năng sinh sản và con con có tỷ lệ tử vong cao (thường
không sống quá một năm) [22]. Bên cạnh đó, việc sử dụng động
vật để nghiên cứu các bệnh cho y học một phần nào đó sẽ liên
quan đến vấn đề đạo đức trong sinh học. Nếu tinh tinh không
tương đồng với con người, việc sử dụng tinh tinh trong các dự án
nghiên cứu không mang lại kết quả thực sự có ý nghĩa về mặt

thống kê mà còn gia tăng nguy cơ tuyệt chủng của lồi. Tóm lại,
tinh tinh cần được nhân giống, bảo tồn và hạn chế các dự án làm
mơ hình nghiên cứu.
3.

Có phải AIDS là một căn bệnh nguy hiểm của con

người không?
Mức độ nguy hiểm mà AIDS luôn thu hút được sự quan tâm của
mọi người. Acquired Immunodeficiency Syndrome được viết tắt là
AIDS được biết với tên gọi khác là Hội chứng Suy giảm Miễn dịch
mắc phải. AIDS là một trong những bệnh truyền nhiễm tàn khốc
nhất ảnh hưởng đến nhân loại, ước tính có khoảng 36,7 triệu người
sống với tình trạng suy giảm miễn dịch ở người nhiễm virus (HIV)
và khoảng 2,1 triệu trường hợp nhiễm mới đã được ghi nhận vào
năm 2015 [3]. Lạm dụng ma túy, quan hệ tình dục khơng an tồn,
mơi trường bệnh viện, lây từ mẹ sang con là những phương thức
lây truyền với mẫu số chung là chất dịch lỏng trong cơ thể [5].
Đồng nghĩa virus có thể lây lan thơng qua các dịch cơ thể như
máu, dịch âm đạo, tinh dịch và sữa mẹ [11]. 90% số người bị
nhiễm thông qua quan hệ tình dục khơng an tồn [11]. Nếu xét về
khía cạnh quan hệ tình dục, trong xã hội lúc bấy giờ đã xuất hiện
vài tư duy mới về vấn đề này. Giữa những năm 1960 và 1980, có

8


LÊ NGUYỄN ANH TÚ

một sự thay đổi văn hóa và thái độ sự tự do tình dục giữa những

người khác giới và đồng tính luyến ái [15]. Việc này dẫn đến sự gia
tăng bạn tình và thoải mái trong quan hệ tình dục. Về khía cạnh
chính trị trong việc tun truyền HIV trong cuộc chiến chống lại ma
túy. Cụ thể, với những người bị giam giữ vì sử dụng ma túy, tỷ lệ
nhiễm HIV trong nhà tù lớn hơn 10% [14]. Từ đó, cho ta thấy được
sự tương quan giữa tỷ lệ nhiễm HIV so với xu hướng quan hệ tình
dục và trong cơng cuộc phịng chống ma túy. Mục tiêu của HIV là
phá hủy hệ thống miễn dịch. Sau đó chúng xâm nhập và đưa chuỗi
đơn RNA vào bên trong tế bào. Reverse transcriptase sẽ phiên mã
ngược chuỗi RNA đơn này thành DNA tiền virus. DNA này xâm
nhập vào nhân và tham gia vào vào DNA của tế bào [2]. Khi tế bào
được hoạt hóa, chúng phiên mã và dịch mã tạo ra protein cần thiết
cho hệ miễn dịch, đồng thời chúng cũng vơ tình tạo ra những virus
HIV mới. Những virus này sẽ phá vỡ tế bào TCD 4 và lây nhiễm các
tế bào khác, gây giảm số lượng tế bào TCD 4 trong hệ miễn dịch. Sự
suy giảm số lượng tế bào TCD 4 dẫn đến sự suy giảm hệ miễn dịch
và tăng tính nhạy cảm với các bệnh nhiễm trùng cơ hội [20]. Từ
đó, tạo thời cơ cho các bệnh cơ hội nguy hiểm tấn công cơ thể, có
thể dẫn đến nguy cơ tử vong. Sự nguy hiểm còn được thể hiện qua
sự lẩn trốn của HIV đối với hệ miễn dịch. Chúng lẩn trốn hệ miễn
dịch thơng qua hai vị trí: trong hệ thống thần kinh trung ương – nơi
các phản ứng trung gian tế bào giảm và tế bào T nghỉ ngơi [6]. Tại
não virus có thể thốt khỏi hệ thống miễn dịch và thuốc kháng
virus. Dưới ảnh hưởng của thuốc kháng retrovirus, HIV trong não
có thể tiến hóa để trở nên dễ thích nghi hơn với não và trở nên độc
hơn đối với thần kinh [13]. Một trong những phương thức điều trị
căn bệnh này là điều trị bằng thuốc kháng retrovirus - ART. ART
nhằm mục đích giảm mức RNA của HIV trong huyết tương xuống
9



LÊ NGUYỄN ANH TÚ

mức nhất định và khôi phục lượng TCD 4. Nhưng liệu pháp này cũng
mang lại vài tác dụng phụ và buộc bệnh nhân phải sử dụng trong
suốt cuộc đời. Ví dụ như tác dụng phụ của ART có thể ảnh hưởng
đến nhiều khía cạnh của cuộc sống hàng ngày của những người
nhiễm HIV ở Trung Quốc, nên trầm cảm có thể là một hậu quả
nguy hiểm khác của tác dụng phụ ART [12]. Thuốc kháng virus có
liên quan đến nhiều tác dụng phụ trên hệ thần kinh trung ương và
ngoại vi [1]. Bên cạnh đó, liệu pháp tế bào gốc cũng được ứng
dụng trong việc điều trị HIV/AIDS. Khi virus HIV-1 lần trốn trong các
tế bào TCD4 nghỉ ngơi, việc loại trừ bằng liệu pháp ART là không
thể và không được đạt hiệu quả [16]. Liệu pháp tế bào gốc được
hướng dến. Hiện tại, hiệu quả lâm sàng đáng kể của phương pháp
tiếp cận liệu pháp gen dựa trên tế bào gốc tạo máu đối với các
bệnh HIV vẫn chưa đạt được; tuy nhiên, cách tiếp cận này có khả
năng kiểm sốt lâu dài HIV thơng qua một lần điều trị duy nhất
[18]. Chính những hạn chế trong các liệu pháp điều trị này chính là
khó khăn mà giới khoa học đang tìm cách vượt qua. Tóm lại, AIDS
vẫn là căn bệnh nguy hiểm đối với con người nhưng chúng ta có đủ
cơ sở để đặt niềm tin về một tương lai mà HIV/AIDS có thể được
kiểm sốt và điều trị khỏi hồn tồn.

10


LÊ NGUYỄN ANH TÚ

4.


Với tất cả các kinh nghiệm sinh học tế bào cho phép

chúng ta nghiên cứu tương tác tế bào - virus trực tiếp,
nghiên cứu động vật có lỗi thời không?
Với tất cả các sinh học tế bào phức tạp cho phép chúng ta nghiên
cứu trực tiếp các tương tác giữa tế bào và virut, các nghiên cứu
trên động vật cũng sẽ khơng bị lỗi thời. Bởi vì con người và các lồi
động vật có vú khác là những sinh vật rất phức tạp, trong đó các
cơ quan đạt được các chức năng sinh lý riêng biệt theo kiểu tích
hợp và điều chỉnh cao. Các mối quan hệ liên quan đến một mạng
lưới phức tạp của các hormone, các yếu tố tuần hoàn và tế bào và
sự trao đổi chéo giữa các tế bào trong tất cả các ngăn. Các nhà
sinh vật học nghiên cứu các sinh vật ở nhiều cấp độ: phân tử, tế
bào, cơ quan và chức năng sinh lý, trong tình trạng khỏe mạnh hay
bị bệnh để có được mơ tả đầy đủ và hiểu biết về các cơ chế. Hai
trường hợp đầu tiên và trong một số trường hợp ba, các cấp độ tổ
chức có thể được nghiên cứu bằng cách sử dụng in vitro, phương
pháp tiếp cận (ví dụ, ni cấy tế bào). Những kỹ thuật này đã trở
nên rất tinh vi để bắt chước các cấu trúc 3D và phức tạp của các
mô. Chúng đại diện cho những tiến bộ khoa học lớn và chúng đã
thay thế việc sử dụng động vật. Mặt khác, việc khám phá các chức
năng sinh lý và sự tương tác mang tính hệ thống giữa các cơ quan
địi hỏi cả một cơ thể sinh vật. Ví dụ, nó là trường hợp đối với hầu
hết các quy định về nội tiết tố, đối với sự phổ biến của vi sinh vật
trong các bệnh truyền nhiễm hoặc ảnh hưởng của vi sinh vật
đường ruột lên khả năng bảo vệ miễn dịch hoặc sự phát triển của
các chức năng não. Trong nhiều trường hợp, khơng có mơ hình in
vitro nào hiện có sẵn để tổng hợp đầy đủ các tương tác này, và các
nghiên cứu trên người và động vật vẫn cần thiết. Các giả thuyết và


11


LÊ NGUYỄN ANH TÚ

mơ hình có thể xuất hiện từ in vitro, các nghiên cứu nhưng chúng
phải được thử nghiệm và xác nhận trên tồn bộ sinh vật, nếu
khơng chúng vẫn chỉ là suy đốn. Các nhà khoa học cịn khá mới lạ
để có thể dự đốn được hoạt động của một sinh vật phức tạp từ
việc nghiên cứu các tế bào, mơ và cơ quan riêng biệt. Do đó, bất
chấp những lập luận được đưa ra bởi những người ủng hộ ECI, các
nghiên cứu trên động vật không thể thay thế hồn tồn
bằng phương pháp in vitro và cịn lâu chúng mới có thể thực hiện
được [4]. Tuy nhiên, hầu hết các công việc quan trọng cho đến nay
đều được thực hiện với tế bào và virus trong ống nghiệm, khơng
phải nghiên cứu tồn bộ động vật. Điều này cho thấy rằng mơ hình
động vật thực sự chỉ là mơ hình. Chúng thường khơng thể đại diện
đầy đủ hoặc sao chép tình trạng con người. Nhưng mơ hình động
vật sẽ cung cấp thông tin liên quan nơi di truyền và con đường
phân tử tương tự nhau. Người ta cũng nên nhận ra rằng các lựa
chọn thay thế dưới dạng nuôi cấy tế bào hoặc các lựa chọn thay
thế phức tạp hơn như các chất hữu cơ hoặc các cơ quan trên một
con chip cũng chỉ là mơ hình. Việc sử dụng động vật thí nghiệm
được giảm thiểu bằng cách áp dụng Three Rs:



Thay thế : Nguyên tắc này có nghĩa là - bất cứ khi nào có thể


- một thí nghiệm trên động vật phải ln được thay thế bằng một
thí nghiệm thay thế khơng u cầu động vật.


Giảm: Nguyên tắc này đòi hỏi rằng khi bạn thực hiện một thí

nghiệm trên động vật, bạn phải ln sử dụng số lượng động vật
thấp nhất có thể mà vẫn cho bạn kết quả phù hợp về mặt thống kê
và khoa học.


Sàng lọc: Nguyên tắc này đòi hỏi rằng đối với mỗi hành động

mà bạn muốn thực hiện với động vật trong phịng thí nghiệm, bạn

12


LÊ NGUYỄN ANH TÚ

nên xác định xem có cách nào khác để thực hiện hành động này
để động vật ít bị cản trở hoặc đau đớn hơn không.
5. Chúng ta có mang nợ đặc biệt gì đối với những động
vật đã “nghỉ hưu” khỏi nghiên cứu như vậy không? Giữ cho
một con tinh tinh thoải mái cho đến khi dưỡng lão có thể
tốn hơn 20.000 đơ la một năm.
Chắc chắn rằng chúng ta có mang nợ đối với những động vật này,
một món nợ đặc biệt, kể cả khi chúng được nuôi dưỡng cho đến
già. Tinh tinh nên được “nghỉ hưu” sau các cuộc nghiên cứu y sinh
học, trở về khu bảo tồn trở lại với cuộc sống tự nhiên [19]. Những

động vật được nuôi nhốt để phục vụ cho nghiên cứu chắc chắn
luôn phải chịu những đau đớn, khiếm khuyết về thể chất, những
tổn hại về tinh thần gấp rất nhiều lần so với đồng loại của chúng ở
tự nhiên, những cá thể được tự do sinh sống trong mơi trường của
mình. Những điều đánh đổi đó tất cả là để phục vụ cho sức khỏe
con người, từ tìm hiểu cơ chế bệnh, tìm phương pháp chữa trị cho
tới thử nghiệm thuốc, đó là những vai trị khơng thể chối bỏ. Chi
phí 20.000 đơ la hằng năm khơng là gì khi vai trị đóng góp của
chúng cho thành cơng của nghiên cứu là rất lớn. Vì vậy, cần nỗ lực
cải thiện phúc lợi cho loài tinh tinh và cung cấp dịch vụ chăm sóc
suốt đời cho những chú tinh tinh này [7].

13


LÊ NGUYỄN ANH TÚ

III.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]

M. S. Abers, W. X. Shandera, and J. S. Kass, "Neurological and
psychiatric adverse effects of antiretroviral drugs," CNS
drugs, vol. 28, no. 2, pp. 131-145, 2014.

[2]

E. F. Arruda, C. M. Dias, C. V. de Magalhães, D. H. Pastore, R.

C. Thomé, and H. M. Yang, "An optimal control approach to
HIV immunology," Applied Mathematics, vol. 6, no. 06, p.
1115, 2015.

[3]

L. E. Bain, C. Nkoke, and J. J. N. Noubiap, "UNAIDS 90–90–90
targets to end the AIDS epidemic by 2020 are not realistic:
comment on “Can the UNAIDS 90–90–90 target be achieved?
A systematic analysis of national HIV treatment cascades”,"
BMJ global health, vol. 2, no. 2, 2017.

[4]

F. Barré-Sinoussi and X. Montagutelli, "Animal models are
essential to biological research: issues and perspectives,"
Future science OA, vol. 1, no. 4, 2015.

[5]

C. Baucom et al., "The Epidemiology of the AIDS Pandemic:
Historical,

Cultural,

Political,

Societal

Perspectives


and

Knowledge of HIV," Journal of Student Research, vol. 8, no. 2,
2019.
[6]

J. N. Blankson, D. Persaud, and R. F. Siliciano, "The challenge
of viral reservoirs in HIV-1 infection," Annual review of
medicine, vol. 53, no. 1, pp. 557-593, 2002.

[7]

L. Brent, "Solutions for research chimpanzees," Lab animal,
vol. 33, no. 1, pp. 37-43, 2004.

[8]

D. E. P. Bruce M Altevogt, Marilee K Shelton-Davenport, and
Jeffrey P Kahn, Institute of Medicine (US) and National
Research

Council

(US)

Committee

on


the

Use

of

14


LÊ NGUYỄN ANH TÚ

Chimpanzees in Biomedical and Behavioral Research. The
National Academies Press.
, 2011.
[9]

A. M. Burrows, B. M. Waller, L. A. Parr, and C. J. Bonar,
"Muscles of facial expression in the chimpanzee (Pan
troglodytes):

descriptive,

comparative

and

phylogenetic

contexts," Journal of anatomy, vol. 208, no. 2, pp. 153-167,
2006.

[10] M. W. Campbell and F. B. de Waal, "Chimpanzees empathize
with group mates and humans, but not with baboons or
unfamiliar chimpanzees," Proceedings of the Royal Society B:
Biological Sciences, vol. 281, no. 1782, p. 20140013, 2014.
[11] C. f. D. Control and Prevention, "HIV Surveillance Report,
2016. Vol. 28. 2017," ed, 2018.
[12] W.-T. Chen, C.-S. Shiu, J. P. Yang, and J. M. Simoni,
"Antiretroviral therapy (ART) side effect impacted on quality
of life, and depressive symptomatology: a mixed-method
study," Journal of AIDS & clinical research, vol. 4, p. 218,
2013.
[13] M. Churchill and A. Nath, "Where does HIV hide? A focus on
the central nervous system," Current opinion in HIV and
AIDS, vol. 8, no. 3, p. 165, 2013.
[14] K. Dolan, B. Kite, E. Black, C. Aceijas, and G. V. Stimson, "HIV
in prison in low-income and middle-income countries," The
Lancet infectious diseases, vol. 7, no. 1, pp. 32-41, 2007.
[15] J. Escoffier, "The sexual revolution, 1960-1980," GLBTQ.
Encyclopedia Copyright, 2015.

15


LÊ NGUYỄN ANH TÚ

[16] G. Hütter, "Stem cell transplantation in strategies for curing
HIV/AIDS," AIDS research and therapy, vol. 13, no. 1, pp. 1-8,
2016.
[17] T. Kelly et al., "Adult human perception of distress in the cries
of bonobo, chimpanzee, and human infants," Biological

Journal of the Linnean Society, vol. 120, no. 4, pp. 919-930,
2017.
[18] S. G. Kitchen, S. Shimizu, and D. S. An, "Stem cell-based antiHIV gene therapy," Virology, vol. 411, no. 2, pp. 260-272,
2011.
[19] A. Knight, "The beginning of the end for chimpanzee
experiments?,"

Philosophy,

Ethics,

and

Humanities

in

Medicine, vol. 3, no. 1, pp. 1-14, 2008.
[20] A. A. Okoye and L. J. Picker, "CD 4+ T‐cell depletion in HIV
infection:

mechanisms

of

immunological

failure,"

Immunological reviews, vol. 254, no. 1, pp. 54-64, 2013.

[21] W. Shepherd, "Some observations on the intelligence of the
chimpanzee," Journal of Animal Behavior, vol. 5, no. 5, p.
391, 1915.
[22] R. A. Weiss and J. L. Heeney, "An ill wind for wild chimps?,"
Nature, vol. 460, no. 7254, pp. 470-471, 2009.

16



×