Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

khoá luận Di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN THÚY ANH

DI CHÚC CỦA NGƯỜI KHƠNG BIẾT CHỮ,
NGƯỜI BỊ HẠN CHẾ VỀ THỂ CHẤT

KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN THÚY ANH

DI CHÚC CỦA NGƯỜI KHƠNG BIẾT CHỮ, NGƯỜI BỊ
HẠN CHẾ VỀ THỂ CHẤT

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS. NGƠ THỊ ANH VÂN

TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – NĂM 2021


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp là kết quả từ quá trình học tập, nghiên cứu tại Trường
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh cùng với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân tôi.
Đề tài “Di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất” là nội dung
tơi lựa chọn để hồn thành khóa luận này.


Lời đầu tiên tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành tới ThS. Ngô Thị Anh
Vân. Cô đã tận tình hướng dẫn nghiên cứu đề tài, nhận xét những thiếu sót và chỉ
bảo cho tơi nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô trong Khoa Luật Dân sự và bạn bè
đã giúp đỡ tơi trong q trình học tập cũng như trong q trình hồn thành luận văn
này. Tơi xin cảm ơn gia đình đã ln tạo điều kiện tốt nhất cho tơi trong suốt q
trình học cũng như thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Mặc dù tơi đã thực hiện bằng tồn bộ nỗ lực của mình, khóa luận tốt nghiệp
khơng tránh khỏi thiếu sót. Tơi mong nhận được sự góp ý từ Q Thầy, Cơ để khóa
luận được hồn thiện hơn.
Tác giả khóa luận

Trần Thúy Anh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Từ được viết tắt

BLDS

Bộ luật Dân sự

TAND

Tòa án nhân dân

UBND


Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI CHÚC CỦA NGƯỜI
KHÔNG BIẾT CHỮ, NGƯỜI BỊ HẠN CHẾ VỀ THỂ CHẤT .............................. 7
1.1. Khái niệm về di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể
chất................................................................................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm di chúc ..................................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm về người không biết chữ .......................................................... 8
1.1.3. Khái niệm người bị hạn chế về thể chất.................................................. 11
1.2. Đặc điểm di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất... 12
1.2.1. Di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất có các
đặc điểm chung của một di chúc ....................................................................... 12
1.2.2. Các đặc điểm riêng của di chúc của người không biết chữ, người bị
hạn chế về thể chất ............................................................................................ 16
1.3. Ý nghĩa của quy định về di chúc của người không biết chữ, người bị hạn
chế về thể chất ............................................................................................................. 18
1.4. Quy định chung về di chúc ................................................................................. 20
1.4.1. Điều kiện có hiệu lực của di chúc ........................................................... 20
1.4.2 Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc .............................................. 26
1.4.3 Hiệu lực của di chúc ................................................................................ 27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................... 30
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ DI CHÚC CỦA NGƯỜI
KHÔNG BIẾT CHỮ, NGƯỜI BỊ HẠN CHẾ VỀ THỂ CHẤT VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN ............................................................................................................ 31
2.1. Xác định người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất ........................ 31
2.1.1. Quy định về xác định người lập di chúc là người không biết chữ, người
bị hạn chế về thể chất ........................................................................................ 31

2.1.2. Thực tiễn về việc xác định người lập di chúc là người không biết chữ,
người bị hạn chế về thể chất và kiến nghị hoàn thiện pháp luật ...................... 33
2.2. Hình thức di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất . 37
2.2.1. Quy định về hình thức di chúc của người không biết chữ, người bị hạn
chế về thể chất ................................................................................................... 37


2.2.2. Thực tiễn về hình thức di chúc của người không biết chữ, người bị hạn
chế về thể chất và kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................ 42
2.3. Các chủ thể liên quan đến việc lập di chúc của người không biết chữ, người
bị hạn chế về thể chất ................................................................................................. 48
2.3.1. Người làm chứng cho việc lập di chúc của người không biết chữ,
người bị hạn chế về thể chất ............................................................................. 49
2.3.2. Cơng chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực di chúc của người
không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất ................................................... 52
2.3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về người làm chứng cho di chúc của
người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất ......................................... 56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................... 59
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Thừa kế từ lâu đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của
mỗi cá nhân và có vị trí đặc biệt quan trọng trong chế định pháp luật. Đây là một
quan hệ pháp luật dân sự vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính truyền thống đạo lý.
Khi những tranh chấp về thừa kế xảy ra, việc xác định đúng khối tài sản thừa kế và

phân chia di sản theo đúng phần mà người thừa kế được hưởng là yếu tố quan trọng
hàng đầu. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, những vấn đề liên quan đến thừa kế
ngày một phức tạp và đa dạng. Một trong số đó là vấn đề về di chúc của người
không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất.
Di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất là loại di
chúc được pháp luật dân sự Việt Nam điều chỉnh từ rất sớm. Loại di chúc này lần
đầu được quy định tại khoản 3 Điều 655 BLDS năm 1995 với nội dung “di chúc của
người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm
chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực”. Kế thừa trọn vẹn quy
định trên, khoản 3 Điều 652 BLDS năm 2005 và khoản 3 BLDS năm 2015 cũng có
cách ghi nhận tương tự. Việc loại di chúc này được quy định từ BLDS năm 1995 và
tiếp tục duy trì cho đến BLDS hiện hành đã thể hiện sự nhận thức sớm của pháp luật
Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của người không biết chữ và người bị hạn chế
về thể chất.
Mặc dù đã có quy định nhưng việc hiểu và áp dụng quy định pháp luật trong
giải quyết tranh chấp liên quan đến loại di chúc này cịn nhiều vướng mắc. Những
bất cập có thể kể đến như cơ sở xác định người lập di chúc là người không biết chữ,
người bị hạn chế về thể chất của các Tịa án cịn chưa hồn thiện. Điều này xuất
phát từ nguyên nhân chính là khái niệm về người không biết chữ và người bị hạn
chế về thể chất chưa được quy định cụ thể.
Ngoài ra, hình thức, thủ tục lập di chúc của người khơng biết chữ, người bị
hạn chế về thể chất còn chưa được quy định rõ ràng. Pháp luật đặt ra yêu cầu về loại
di chúc này phải được người làm chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc
chứng thực. Nhưng không đề cập cụ thể về việc người làm chứng lập thành văn bản
bằng cách nào, q trình đó có cần được thực hiện trước sự chứng kiến của cơng
chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực hay khơng và cịn nhiều vấn đề
khác chưa được làm rõ. Tất cả điều này đều dẫn đến sự khó khăn trong áp dụng
pháp luật khi giải quyết tranh chấp liên quan đến loại di chúc này.
1



Một vấn đề khác dường như ít được quan tâm tới chính là người lập di chúc
vừa khơng biết chữ, vừa bị hạn chế về thể chất gây ảnh hưởng đến khả năng nghe,
dẫn đến chỉ giao tiếp bằng việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu. Trong trường hợp này,
quy định về việc lập di chúc lúc có nên được bổ sung nội dung nào không? Chẳng
hạn, người làm chứng phải có hiểu biết thơng thạo về ngơn ngữ ký hiệu.
Chính vì những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Di chúc của người không
biết chữ, người bị hạn chế về thể chất”. Trong đề tài này, tác giả nghiên cứu, tìm
hiểu về các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án, kết
hợp đối chiếu với pháp luật nước ngoài. Qua đó rút ra kiến nghị hồn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người không biết chữ,
người bị hạn chế về thể chất trong việc lập di chúc.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Cơng trình nghiên cứu về di chúc nói chung ở Việt Nam tính đến thời điểm
hiện nay tương đối nhiều, các cơng trình này được thực hiện dưới nhiều dạng như
sách chuyên khảo, luận văn, giáo trình hoặc bài viết trên tạp chí. Tuy nhiên, cơng
trình nghiên cứu về di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất
lại không nhiều, mặc dù quy định điều chỉnh cho loại di chúc này đã tồn tại từ lâu.
Một số cơng trình tiêu biểu về di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế
về thể chất có thể kể đến như sau:
Đỗ Văn Đại (2019), Luật Thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận án, Tập 1,
Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam. Đây là một cơng trình mang tính chun
sâu, nghiên cứu một cách toàn diện các quy định của pháp luật Việt Nam về di chúc
của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất trên cơ sở tuyển chọn, trích
dẫn những bản án, quyết định có tính điển hình trong phạm vi cả nước. Tác giả đã
phân tích, đánh giá, đối chiếu văn bản quy phạm pháp luật với thực tiễn xét xử.
Trên cơ sở đó chỉ ra một số bất cập như quy định liên quan đến loại di chúc này cịn
sơ sài, khó hiểu; giữa ý tưởng bảo vệ người không biết chữ, người bị hạn chế về thể
chất và vận dụng ý tưởng cịn có nhiều khoảng cách.

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình pháp luật về tài sản,
quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế, Lê Minh Hùng (Chủ biên), Nxb. Hồng Đức
– Hội Luật gia Việt Nam. Giáo trình đã đề cập đến vấn đề phân biệt giữa người
không tự viết di chúc và người không thể tự viết di chúc do không biết chữ hoặc bị
hạn chế về thể chất. Qua đó, giáo trình nhấn mạnh về hình thức lập di chúc của

2


người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất là phải được lập thành văn bản,
có người làm chứng và có cơng chứng hoặc chứng thực.
Hồng Thị Loan (2019), “Người lập di chúc và điều kiện luật định đối với
người lập di chúc”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 17. Trong bài viết này, tác giả
đã đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ
hành vi và người bị hạn chế về thể chất. Từ đó, tác giả cho rằng hai chủ thể trên có
bản chất giống nhau nên đề xuất thay thế cụm từ “người bị hạn chế về thể chất”
thành “người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi”.
Tuấn Đạo Thanh, Hoàng Văn Hữu (2018), “Bàn về vai trò của người làm
chứng trong lĩnh vực cơng chứng”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số 12. Trong
phạm vi của một bài tạp chí, tác giả đã làm nổi bật vai trị của người làm chứng
trong việc trợ giúp công chứng viên nhằm đảm bảo “tính xác thực, hợp pháp” cho
giao dịch. Vai trị của người làm chứng trong hoạt động cơng chứng không chỉ dừng
lại ở việc trợ giúp cho người lập di chúc hiểu rõ nội dung văn bản công chứng hay
khi người lập di chúc gặp trở ngại trong việc biểu đạt ý chí. Người làm chứng trong
một số trường hợp cịn có nhiệm vụ lập di chúc thành văn bản.
Phạm Văn Tuyết (2007), Thừa kế - Quy định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng, Nxb. Chính trị Quốc gia. Trong nội dung bài viết, tác giả đã khẳng định ý
nghĩa của việc làm chứng di chúc và công chứng hoặc chứng thực di chúc. Cụ thể,
nếu việc chứng nhận, chứng thực di chúc nhằm mục đích tạo cơ sở pháp lý để ghi
nhận một sự kiện thực tế thì làm chứng trong di chúc cũng là việc nhằm góp phần

nâng cao tính khách quan của di chúc. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ quan điểm
quy định chặt chẽ hình thức và thủ tục lập di chúc để tạo ra tính xác thực cho những
di chúc đã lập, bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế.
William Fenton Myers (1918), “The last will and testament”, Woman and the
Law, Including Rights and Duties of Citizenship. Tác giả đề cập về những trường
hợp người lập di chúc là người bị hạn chế về thị lực và thính lực. Tác giả thực hiện
so sánh hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa trong giai đoạn trước đây và giai đoạn
hiện nay, từ đó cho thấy sự tiến bộ của pháp luật trong việc bảo đảm quyền lập di
chúc của những người bị hạn chế về thị lực, thính lực.
Ngồi những cơng trình trên, những cơng trình khác có giá trị tham khảo cao
có thể kể đến như: Trần Đại Dương (2014), “Bảo đảm quyền tiếp cận công lý,
quyền được trợ giúp pháp lý của người khuyết tật. Sự tương tích giữa pháp luật Việt
Nam với pháp luật quốc tế”, Tạp chí Luật học, Số 10; Đặng Thị Thơm, Nguyễn
3


Đình Phong (2017), “Bàn về nội dung di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự
2015”, Tạp chí Tịa án nhân dân, Số 3; Phan Thị Lan Hương (2020), “Đánh giá
Luật Người khuyết tật – So sánh với công ước quốc tế về quyền của người khuyết
tật và khuyến nghị cho Việt Nam”, Tạp chí Luật học, Số 2.
Đây là những nguồn tài liệu có giá trị tham khảo, nhất là về mặt lý luận đối
với việc thực hiện đề tài của tác giả. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, từ khi di
chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất được pháp luật ghi
nhận, chưa có một cơng trình khoa học nghiên cứu một cách độc lập, tập trung làm
rõ các vấn đề liên quan đến loại di chúc này. Vì vậy, việc tác giả nghiên cứu đề tài
“Di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất” là yêu cầu cấp
thiết, mang tính lý luận và giá trị thực tiễn sâu sắc.
3.
Mục tiêu, phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Tác giả thực hiện nghiên cứu các đề tài này nhằm hướng đến những mục tiêu
cụ thể sau:
Thứ nhất, thông qua việc nghiên cứu, tác giả mong muốn tìm hiểu các quy
định của pháp luật hiện hành và từ đó làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản liên quan
đến di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất.
Thứ hai, từ việc nghiên cứu tác giả có thể tiếp cận, phân tích, học hỏi kinh
nghiệm từ các quy định tương đồng trong pháp luật của một số quốc gia tiêu biểu
trên thế giới.
Thứ ba, tác giả khi nghiên cứu có thể đánh giá được thực trạng pháp luật điều
chỉnh vấn đề về di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất,
đồng thời tìm ra những bất cập còn tồn tại trong pháp luật hiện hành (nếu có).
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả đưa ra đề xuất nhằm hoàn thiện
các quy định của pháp luật hoặc các giải pháp tương ứng về vấn đề này.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi không gian, tác giả sẽ tập trung thực hiện nghiên cứu, phân tích
và làm rõ các vấn đề tồn tại ở Việt Nam.
Về phạm vi nội dung, trong đề tài nghiên cứu này tác giả tập trung chủ yếu
trong việc tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về di chúc của
người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất. Trong đó, tác giả tập trung
nghiên cứu các đặc trưng của loại di chúc này so với những di chúc khác được pháp
luật dân sự Việt Nam thừa nhận.
4


4.
Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện Khóa luận một cách hiệu quả, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
Thứ nhất, phương pháp phân tích và tổng hợp: Trong quá trình thực hiện đề
tài, tác giả đã sử dụng phương pháp này với mục đích nhằm phân tích các khái

niệm, cũng như tìm hiểu, đánh giá quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến
di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất. Phương pháp này
chủ yếu được sử dụng ở Chương 1. Những vấn đề chung về di chúc của người
không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất; 1.1. Khái niệm về di chúc của người
không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất; 1.2. Đặc điểm di chúc của người
không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất; 1.3. Ý nghĩa của quy định di chúc của
người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất; 1.4. Quy định chung về di chúc;
và Chương 2. Pháp luật hiện hành về di chúc của người không biết chữ, người bị
hạn chế về thể chất và kiến nghị hoàn thiện; 2.1.1. Quy định về xác định người lập
di chúc là người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất; 2.2.1. Quy định về
hình thức di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất; 2.3.1.
Người làm chứng cho việc lập di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế
về thể chất; 2.3.2. Cơng chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực di chúc của
người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất.
Thứ hai, phương pháp so sánh, đối chiếu: Tác giả đã thực hiện việc so sánh,
đối chiếu nội dung của pháp luật Việt Nam với pháp luật các quốc gia như: Hoa Kỳ,
Cộng hòa Pháp, Thái Lan cũng như các kinh nghiệm thực tế. Từ đó tác giả có thể
đánh giá các nội dung phân tích của đề tài một cách khách quan và hoàn thiện hơn.
Phương pháp này được nhóm tác giả sử dụng ở Chương 2. Pháp luật hiện hành về di
chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất và kiến nghị hoàn
thiện; 2.1.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về người lập di chúc là người không
biết chữ, người bị hạn chế về thể chất; 2.2.1. Quy định về hình thức di chúc của
người khơng biết chữ, người bị hạn chế về thể chất; 2.3.3. Kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về người làm chứng cho di chúc của người không biết chữ, người bị hạn
chế về thể chất.
5.
Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của đề tài mang đến kiến thức nền tảng
về di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất. Đề tài cũng làm


5


rõ các vấn đề về xác định người lập di chúc là người không biết chữ, người bị hạn
chế về thể chất và hình thức của di chúc do những chủ thể này lập.
Về mặt thực tiễn, đề tài nghiên cứu có giá trị là một nguồn tài liệu tham khảo
trong lĩnh vực Dân sự nói chung và các hoạt động mang tính khoa học khác. Thơng
qua đề tài, nhóm tác giả đưa ra một số đề xuất để hoàn thiện quy định của pháp luật
Việt Nam. Từ đó, góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người khơng biết chữ, người bị hạn chế về thể chất.
6.
Bố cục của đề tài
Đề tài được chia thành hai chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về di chúc của người không biết chữ, người
bị hạn chế về thể chất
Chương 2. Pháp luật hiện hành về di chúc của người không biết chữ, người
bị hạn chế về thể chất và kiến nghị hoàn thiện

6


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI CHÚC CỦA NGƯỜI
KHÔNG BIẾT CHỮ, NGƯỜI BỊ HẠN CHẾ VỀ THỂ CHẤT
1.1. Khái niệm về di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể
chất
1.1.1. Khái niệm di chúc
Thuật ngữ “di chúc” xuất hiện phổ biến trong đời sống hằng ngày và khơng
cịn xa lạ đối với mỗi cá nhân trong xã hội. Theo cách hiểu thông thường, “di chúc”
được định nghĩa là “lời dặn lại những điều cần thiết trước khi chết”1 hoặc “lời dặn
lại của một người trước lúc chết với những người khác về những việc cần làm, nên

làm”2. Cách hiểu trên cho thấy di chúc là sự truyền đạt ý nguyện về những vấn đề
mà một người trước lúc chết mong muốn người còn sống sẽ tiếp tục thực hiện. Trên
thực tế, nội dung của lời dặn có thể về mối quan hệ tình cảm giữa những thành viên
trong gia đình hoặc việc phân chia tài sản cho người cịn sống hoặc thậm chí là sự
kỳ vọng về những điều mà người còn sống sẽ thực hiện.
Theo quan điểm của một chuyên gia về thừa kế, khái niệm di chúc được hiểu
là “sự thể hiện ý chí đơn phương của cá nhân lúc cịn sống về việc định đoạt tài sản
của mình sau khi chết một cách tự nguyện, theo một hình thức, thể thức luật định,
có thể bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ bất cứ lúc nào bởi người lập di chúc khi
người đó cịn sống, và di chúc chỉ có hiệu lực sau khi người lập di chúc ấy chết”3.
Một quan niệm khác cho rằng: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của một người khi cịn
sống nhằm định đoạt tồn bộ hoặc một phần tài sản của mình cho cá nhân, cơ quan,
tổ chức sau khi chết một cách tự nguyện, theo đúng hình thức, thể thức luật định và
chỉ phát sinh hiệu lực khi người để lại di chúc chết”4. Nhìn chung, các khái niệm
trên được xây dựng dựa trên bản chất và mục đích của di chúc. Đó là hành vi pháp
lý đơn phương của người lập di chúc, nhằm định đoạt tài sản của chính mình sau
khi chết một cách tự nguyện, khơng phải là sản phẩm của sự lừa dối, đe dọa hay
cưỡng ép và chỉ có hiệu lực khi người lập di chúc chết. Ngồi ra, di chúc cịn phải
tn thủ nội dung và hình thức theo quy định pháp luật để được công nhận là hợp
pháp.
Nguyễn Như Ý (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Giáo dục Việt Nam, tr. 223.
Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 254.
3
Lê Minh Hùng (1995), Vấn đề di chúc trong pháp luật thừa kế của nước ta hiện nay, Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh, tr. 23.
4
Đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Vũ Thị Hồng Vân (Chủ biên), Nxb.
Chính trị quốc gia sự thật, tr. 456.
1
2


7


Khái niệm di chúc được ghi nhận tại nhiều quốc gia trên thế giới. Theo Điều
895 BLDS Cộng hòa Pháp năm 2015 “Di chúc là một chứng thư, theo đó người để
lại di chúc định đoạt sau khi chết một phần hoặc tồn bộ tài sản của mình, người đó
có thể hủy bỏ di chúc”5. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan năm 2021 tại Điều
1646 quy định về khái niệm di chúc như một sự tuyên bố của bất cứ người nào liên
quan đến tài sản hoặc các vấn đề khác và sẽ có hiệu lực pháp luật sau khi người đó
chết. Có thể thấy, khái niệm di chúc theo quy định của các quốc gia đều có sự tương
đồng nhất định. Các quy định kể trên cho thấy dưới góc độ pháp lý, di chúc là sự
thể hiện ý chí nhằm định đoạt tài sản của cá nhân cho người khác sau khi chết.
Ngoài ra, Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan năm 2021 có sự đặc biệt hơn
trong việc ghi nhận về “các vấn đề khác”, ngoài việc dịch chuyển tài sản từ người
đã chết cho người còn sống trong nội của di chúc.
Tương tự những cách hiểu kể trên, pháp luật dân sự Việt Nam cũng đưa ra
khái niệm về di chúc như sau: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm
chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”6. Khái niệm này được quy
định lần đầu tiên tại Điều 649 BLDS năm 1995 và tiếp tục được ghi nhận một cách
thống nhất tại Điều 646 BLDS năm 2005, Điều 624 BLDS năm 2015. Quy định trên
thể hiện được mục đích của di chúc, chủ thể lập di chúc và chủ thể được hưởng thừa
kế theo di chúc. Đây cũng chính là điểm khác biệt so với cách hiểu thơng thường về
di chúc. Vì theo cách hiểu thông thường, nội dung ý nguyện của người lập di chúc
không chỉ là về việc phân chia di sản mà cịn có thể bao gồm lời dặn dị đến những
người còn sống.
Từ những cách hiểu kể trên, tác giả cho rằng: di chúc là sự thể hiện ý chí đơn
phương, tự nguyện của cá nhân theo hình thức và thủ tục luật định, về việc định
đoạt tài sản của mình sau khi chết, có thể được sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ
bất cứ lúc nào bởi người lập di chúc khi người này cịn sống và có hiệu lực sau khi

người lập di chúc chết.
1.1.2. Khái niệm về người không biết chữ
Hiện nay, khái niệm về “người không biết chữ” vẫn chưa được ghi nhận tại
bất kỳ văn bản pháp luật nào tại Việt Nam. “Người không biết chữ” thường được
hiểu là “người mù chữ”. Trong từ điển Tiếng Việt, “mù chữ” là việc một người
Điều khoản này đã được sửa đổi theo Điều 10 Luật số 2006-728 ngày 23 tháng 6 năm 2006 của Cộng hòa
Pháp.
6
Điều 624 BLDS năm 2015.
5

8


không biết đọc, biết viết, khi đã quá tuổi đi học7. Từ đây có thể suy luận tương tự
rằng: người không biết chữ là người dù đã quá tuổi được học chữ nhưng vẫn không
biết đọc, biết viết.
Trên thế giới, tùy thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế – xã hội mà quan
điểm của các quốc gia, tổ chức về việc xác định khả năng biết chữ hoặc không biết
chữ của cá nhân có sự khác biệt. Một số quốc gia, tổ chức không chỉ dựa vào khả
năng đọc – viết một cách đơn thuần, mà còn xem xét đến khả năng hiểu biết về các
ký hiệu có tính định lượng. Theo Đánh giá Quốc gia về khả năng đọc viết của người
trưởng thành tại Hoa Kỳ, tiêu chuẩn xác định người biết chữ được dựa trên khả
năng đọc viết văn xi (ví dụ: một bài báo), tài liệu (ví dụ: lịch trình xe bt) và sự
hiểu biết về định lượng (ví dụ: sử dụng các phép tốn) của người đó8. Hiệp hội Văn
học Quốc tế (Newark, Delaware, Hoa Kỳ) lại đưa ra quan điểm rằng khi xác định
khả năng biết chữ của một người cần thông qua việc xác định, hiểu nghĩa, diễn giải,
tạo lập, sử dụng các các ký hiệu có tính định lượng và giao tiếp bằng cách sử dụng
các tài liệu trực quan, nghe được và kỹ thuật số trong các lĩnh vực và trong bất kỳ
ngữ cảnh nào9. Như vậy, ở những khu vực có điều kiện xã hội phát triển, cuộc sống

người dân gắn liền với khoa học – công nghệ thường đặt ra nhiều tiêu chuẩn để một
người được coi là “biết chữ”. Một người nếu chỉ đáp ứng hai kĩ năng đọc – viết
thuần túy thì vẫn có thể chưa đáp ứng tiêu chuẩn để có thể được xem là người biết
chữ theo quan điểm của những quốc gia, tổ chức này.
Pháp luật Việt Nam chưa ghi nhận về khái niệm pháp lý về “người khơng
biết chữ”, nhưng vẫn có một số quy định có liên quan, như tiêu chuẩn cơng nhận cá
nhân đạt chuẩn biết chữ, đối tượng xóa mù chữ. Theo Điều 19 Nghị định
20/2014/NĐ-CP10, tiêu chuẩn công nhận cá nhân đạt chuẩn biết chữ là hồn thành
chương trình giáo dục phổ thơng cấp tiểu học hoặc chương trình xóa mù chữ và
giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ11. Trong đó, hồn thành chương trình giáo dục
phổ thơng cấp tiểu học là đáp ứng những yêu cầu về nội dung giáo dục, như bảo
Nguyễn Như Ý (2010), tlđd (1), tr. 455.
“Definition of Literacy”, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2021.
9
“Why literacy”, truy cập ngày 12 tháng 4 năm
2021.
10
Nghị định 20/2014/NĐ-CP ngày 24 tháng 03 năm 2014 về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ.
11
Điều 19 Nghị định 20/2014/NĐ-CP quy định về tiêu chuẩn công nhận cá nhân đạt chuẩn biết chữ: “1.
Người đạt chuẩn biết chữ mức độ 1: Hoàn thành giai đoạn 1 chương trình xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục
sau khi biết chữ hoặc hồn thành lớp 3 chương trình giáo dục tiểu học; 2. Người đạt chuẩn biết chữ mức độ
2: Hồn thành giai đoạn 2 chương trình xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ hoặc hồn thành
chương trình giáo dục tiểu học.
7
8

9



đảm cho người học có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và có kỹ
năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính tốn12. Đối với chương trình xóa mù chữ,
mục tiêu của chương trình này là hồn thành các mơn học gồm Tiếng Việt, Toán,
Tự nhiên và Xã hội13. Quy định trên chỉ áp dụng với cá nhân thuộc nhóm đối tượng
xóa mù chữ – người trong độ tuổi từ 15 đến 60 chưa biết chữ14. Vậy, khi xác định
cá nhân là người biết chữ cần dựa trên hai yếu tố: (i) độ tuổi và (ii) việc hồn thành
chương trình giáo dục theo quy định của pháp luật.
Nếu suy luận từ quy định pháp luật trên, một người biết đọc, biết viết chữ
vẫn chưa được coi là người biết chữ nếu họ chưa hoàn thành chương trình giáo dục
luật định. Tuy nhiên, trong hồn cảnh nghiên cứu về việc lập di chúc, tác giả cho
rằng “người không biết chữ” nên được hiểu đơn thuần là người không biết đọc hoặc
không biết viết chữ, không nhất thiết phải dựa trên việc hồn thành chương trình
giáo dục theo quy định pháp luật. Vì chữ viết lúc này chỉ là phương tiện biểu đạt ý
chí của người lập di chúc, khơng thể hiện trình độ học vấn của họ.
Lưu ý, cần có sự phân biệt giữa người không biết chữ (người không biết đọc
hoặc không biết viết) và người không đọc được, người không viết được. Những
thuật ngữ này khá tương tự, nhưng nội hàm lại rất khác biệt. Người không viết được
là người biết chữ nhưng tại thời điểm thực hiện giao dịch dân sự họ khơng thể viết
vì một hoặc một số lý do chính đáng nhất định. Chẳng hạn, trường hợp một người
biết chữ muốn lập di chúc “nhưng ở thời điểm lập di chúc họ không viết được (do
hoặc bị chấn thương ở tay…)”15. Điều này cũng tương tự với người không đọc
được, ví dụ như người để lại di sản bị tổn thương vùng mắt dẫn đến không đọc chữ
được tại thời điểm lập di chúc. Vậy, khái niệm “không biết chữ” và “không đọc
được”, “không viết được” không đồng nhất với nhau16. Mặt khác, “không biết chữ”
cần được hiểu là việc một người không biết đọc, viết ngôn ngữ của bất cứ quốc gia
nào. Không nên đồng nhất việc “không biết tiếng Việt” với việc “khơng biết chữ” vì

Điểm a khoản 2 Điều 30 Luật Giáo dục năm 2019 (Luật số: 43/2019/QH14 ngày 14 tháng 6 năm 2019).
Quyết định 13/2007/QĐ-BGDĐT ngày 03 tháng 5 năm 2007 về Ban hành Chương trình xóa mù chữ và
giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ.

14
Điều 17 Nghị định 20/2014/NĐ-CP.
15
Chu Xuân Minh (2008), Tài liệu tập huấn về thi hành Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự, Nxb.
Chính trị Quốc gia, tr.175.
16
Người không biết chữ là người không đọc được hoặc khơng viết được vì họ khơng đủ kiến thức để thực
hiện kỹ năng đọc hoặc viết. Trong khi đó, người không đọc được, không viết được là người biết chữ, nhưng
vì những lý do khác nhau mà họ khơng thể thực hiện việc đọc hoặc viết trong những hoàn cảnh nhất định.
12
13

10


điều này “vơ tình tạo ra sự phân biệt khơng cần thiết giữa những cá nhân thuộc các
dân tộc khác nhau, có bản sắc và văn hóa dân tộc khác nhau”17.
Tóm lại, dựa vào những phân tích trên, theo quan điểm của tác giả: người
không biết chữ là người không biết đọc hoặc không biết viết ngôn ngữ của bất kỳ
quốc gia nào.
1.1.3. Khái niệm người bị hạn chế về thể chất
Về mặt ngữ nghĩa, “hạn chế” là “giữ lại, ngăn lại trong một giới hạn nhất
định, không để cho vượt qua”18, “thể chất” là từ chỉ về cơ thể con người, đề cập đến
mặt sức khỏe. Hiểu theo nghĩa thông thường, người bị “hạn chế về thể chất” người
bị thiếu mất bộ phận cơ thể hoặc có bộ phận cơ thể không thể thực hiện đúng chức
năng. Trên thực tế có nhiều tài liệu khi phân tích về điều khoản liên quan đến “hạn
chế về thể chất” đã sử dụng cụm từ “khiếm khuyết về thể chất” để thay thế. “Khiếm
khuyết” được hiểu là sự thiếu sót19. Vậy “khiếm khuyết về thể chất” dùng để chỉ sự
thiếu sót về bộ phận cơ thể. So sánh hai thuật ngữ này, tác giả nhận thấy thuật ngữ
“hạn chế về thể chất” có phạm trù rộng hơn “khiếm khuyết về thể chất”.

Pháp luật hiện hành của một số quốc gia sử dụng thuật ngữ “khiếm khuyết”
với ý nghĩa chỉ sự mất mát, khơng bình thường của cơ thể. Cụ thể, tại Luật số 7277
của Philippines20 có quy định rằng “Người khuyết tật – là người có sự khác biệt về
khả năng và hạn chế do khiếm khuyết về giác quan, vận động, và tâm thần để thực
hiện một hoạt động được coi là bình thường”. Trong đó, thuật ngữ “khiếm khuyết”
được giải thích là “sự mất, giảm hay rối loạn về chức năng, hay cấu trúc cơ thể, tâm
lý và hành vi”. Bên cạnh đó, theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới21, có ba mức
độ: khiếm khuyết (impairment), khuyết tật (disability) và tàn tật (handicap). “Khiếm
khuyết” đề cập đến sự mất mát hoặc khơng bình thường của cấu trúc cơ thể, chúng
có thể liên quan đến tâm lý, sinh lý hoặc giải phẫu học. Nhìn chung, những quy
định pháp luật nước ngồi trên có thể dùng để tham khảo nhằm hoàn thiện khái

Phùng Trung Tập (2016), “Những quy định mới về thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2015”, Nghiên cứu
lập pháp, Số 9, tr. 41.
18
Viện Ngôn ngữ học (2003), tlđd (2), tr. 420.
19
Viện Ngôn ngữ học (2003), tlđd (2), tr. 500.
20
Luật tạo nên sự phục hồi chức năng, tự phát triển và tự tin cho người khuyết tật và hòa nhập người khuyết
tật vào xã hội và các mục đích khác, được thơng qua bởi Thượng nghị viện và Hạ nghị viện của Quốc hội
Philippines vào ngày 12 tháng 7 năm 1991.
21
Phan Thị Lan Hương (2020), “Đánh giá Luật Người khuyết tật – So sánh với công ước quốc tế về quyền
của người khuyết tật và khuyến nghị cho Việt Nam”, Tạp chí Luật học, Số 2, tr. 30.
17

11



niệm “hạn chế về thể chất”. Theo đó, hạn chế về thể chất được hiểu là sự mất mát,
suy giảm hay rối loạn chế chức năng, cấu trúc cơ thể.
Pháp luật Việt Nam hiện hành vẫn chưa có quy định giải thích cho thuật ngữ
“hạn chế về thể chất”, nhưng có thể tham khảo một số thuật ngữ liên quan để làm
sáng tỏ bản chất của thuật ngữ này. Cụ thể, Luật Người khuyết tật năm 201022 ghi
nhận khái niệm về người khuyết tật tại khoản 1 Điều 2 như sau: “Người khuyết
tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức
năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó
khăn”. Nhìn chung, khái niệm người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam “thiên về
phía bản thân người khuyết tật, có ý nhấn mạnh điều kiện, hoàn cảnh cá nhân, thể
trạng yếu thế hay bất lợi của họ”23. Từ khái niệm của người khuyết tật, có thể tham
khảo yếu tố “suy giảm chức năng” và thiếu mất “một hoặc nhiều bộ phận cơ thể” để
hoàn thiện khái niệm về người bị hạn chế về thể chất.
Dựa vào những phân tích trên, theo tác giả, người bị hạn chế về thể chất là
người bị mất, suy giảm hoặc rối loạn chức năng của một hoặc nhiều bộ phận cơ thể.
Thơng qua những phân tích trên về khái niệm “di chúc”, “người không biết
chữ”, “người bị hạn chế về thể chất”, tác giả đưa ra khái niệm của di chúc của người
không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất như sau:
Di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất là sự thể
hiện ý chí đơn phương của người khơng biết chữ, người bị hạn chế về thể chất lúc
còn sống về định đoạt tài sản của mình sau khi chết một cách tự nguyện, theo hình
thức luật định, có thể bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ bởi người lập di chúc khi
người đó cịn sống và chỉ có hiệu lực sau khi người đó chết. Trong đó, người không
biết chữ là người không biết đọc hoặc không biết viết ngôn ngữ của bất kỳ quốc gia
nào. Người bị hạn chế về thể chất là người bị mất, suy giảm hoặc rối loạn chức năng
của một hoặc nhiều bộ phận cơ thể.
1.2. Đặc điểm di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất
1.2.1. Di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất có các
đặc điểm chung của một di chúc
Di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất cũng là một

loại di chúc được pháp luật ghi nhận. Do đó, loại di chúc này vừa có những đặc
Luật số 51/2010/QH12 ngày 17 tháng 6 năm 2010.
Trần Đại Dương (2014), “Bảo đảm quyền tiếp cận công lý, quyền được trợ giúp pháp lý của người khuyết
tật. Sự tương tích giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế”, Tạp chí Luật học, Số 10, tr. 12.
22
23

12


điểm của di chúc nói chung, vừa mang đặc điểm riêng biệt. Di chúc của người
không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất mang những đặc điểm chung của một
di chúc như sau:
Một là, di chúc là sự thể hiện ý chí một cách đơn phương và tự nguyện của
cá nhân.
Di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phương của cá nhân, không phải của bất cứ
chủ thể nào khác24. Người lập di chúc có quyền để lại tài sản của mình cho bất kỳ ai
mà khơng cần thỏa thuận trước với người được chỉ định trong di chúc. Ngồi ra,
người lập di chúc cịn có thể đơn phương thực hiện những quyền như truất quyền
hưởng di sản của người thừa kế, phân định phần di sản cho từng người thừa kế,
dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng, giao nghĩa vụ cho
người thừa kế, và chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia
di sản25. Đây là tính chất pháp lý hồn tồn ngược lại với hợp đồng – giao dịch pháp
lý được hình thành bởi sự thống nhất ý chí giữa các bên tham gia.
Di chúc là sự thể hiện ý chí tự nguyện của cá nhân. Đây là yếu tố cần thiết để
di chúc nói riêng và giao dịch dân sự nói chung có hiệu lực pháp luật26. Trong đó,
“tự nguyện” được hiểu là “sự thống nhất giữa ý chí chủ quan bên trong và sự bày tỏ
ý chí đó ra bên ngồi”27. Chỉ khi nào nội dung di chúc là sự phản ánh một cách
khách quan, trung thực những mong muốn bên trong của người lập di chúc thì sự
định đoạt đó mới được coi là tự nguyện. Nếu giữa ý chí và nội dung di chúc thiếu

tính thống nhất thì có nghĩa di chúc đó khơng được lập ra bởi sự tự nguyện của cá
nhân người để lại di sản.
Mặc dù di chúc là ý chí đơn phương, tự nguyện của người lập di chúc, nhưng
sự tự do ý chí này phải trong một khuôn khổ nhất định. Nội dung di chúc không
được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và không xâm phạm đến
quyền và lợi ích của các cá nhân, tổ chức khác, nếu khơng di chúc có thể bị vơ hiệu.
Trong đó, “điều cấm của luật” là những quy định của luật không cho phép chủ thể
thực hiện những hành vi nhất định, “đạo đức xã hội” là những chuẩn mực ứng xử
chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tơn trọng28.
Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb. Công an nhân dân, tr. 323.
Điều 626 BLDS năm 2015.
26
Điểm b khoản 1 Điều 117 BLDS năm 2015.
27
Phạm Văn Tuyết (2007), Thừa kế - Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, Nxb. Chính trị Quốc gia,
tr. 144.
28
Điều 123 BLDS năm 2015.
24
25

13


Hai là, mục đích chính của di chúc nhằm định đoạt tài sản của người lập di
chúc cho người khác.
Người lập di chúc có quyền định đoạt tài sản của mình cho những người
được chỉ định trong di chúc. Đây là mục đích chủ yếu của di chúc và cũng là căn cứ
quan trọng cho việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người thừa kế theo di
chúc. Đặc điểm này phản ánh nhu cầu cần được gìn giữ và phát triển khối tài sản do

bản thân tạo dựng của con người. Khi người có tài sản lập di chúc nghĩa là họ đã có
nguyện vọng muốn giao tài sản của mình sau khi chết cho người thừa kế xứng đáng.
Việc pháp luật công nhận quyền định đoạt của người lập di chúc thể hiện sự tôn
trọng đối với quyền tự định đoạt của chủ sở hữu tài sản và đảm bảo cho người lập di
chúc “có quyền sử dụng tài sản ngay cả khi đã chết rồi”29.
Ba là, di chúc chỉ có hiệu lực sau khi người lập di chúc chết.
Mục đích của việc lập di chúc là để định đoạt tài sản sau khi một người chết,
nên di chúc cũng chỉ có thể có hiệu lực sau khi cá nhân chết. Đặc điểm này thể hiện
sự khác biệt khá rõ nét giữa di chúc và hợp đồng. Đối với hợp đồng, thời điểm có
hiệu lực được xác định tại thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác30. Cịn di chúc thì có hiệu lực từ thời điểm mở
thừa kế. Trong đó, thời điểm mở thừa kế được xác định là thời điểm người có tài
sản chết, trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người đã chết thì thời điểm mở thừa
kế là ngày Tịa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết31.
BLDS Liên Bang Nga năm 2019 cũng có quy định pháp lý với nội dung
tương tự. Cụ thể, tại khoản 5 Điều 1118 BLDS Liên Bang Nga năm 2019: “Di chúc
là giao dịch đơn phương phát sinh quyền và nghĩa vụ sau khi mở thừa kế”. Đồng
thời, khoản 1 Điều 1114 Bộ luật này quy định thời điểm mở thừa kế là “thời điểm
công dân chết. Khi công dân bị tuyên bố là đã chết thì ngày mở thừa kế là ngày có
hiệu lực của quyết định tuyên bố cơng dân là đã chết của Tịa án”.
Bốn là, người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế hay hủy bỏ di
chúc lúc còn sống.
Do di chúc chỉ có hiệu lực sau khi người lập di chúc chết nên lúc người lập di
chúc cịn sống thì những người thừa kế được chỉ định trong nội dung di chúc vẫn

Nguyễn Lê Phương, Bùi Quỳnh Như (2004), Các Mác – Ăngghen Tuyển tập, Tập IV, Nxb. Chính trị quốc
gia, tr. 267.
30
Khoản 1 Điều 401 BLDS năm 2015.
31

Khoản 1 Điều 643 và khoản 1 Điều 611 BLDS năm 2015.
29

14


chưa có quyền đối với tài sản mà họ sẽ được hưởng. Quyền đối với tài sản vẫn
thuộc về người lập di chúc cho đến khi người lập di chúc chết. Vì vậy, người lập di
chúc vẫn có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ di chúc bất cứ lúc nào.
Ngoài việc đảm bảo cho quyền định đoạt của người lập di chúc, di chúc còn là
phương tiện để cá nhân thông qua quyền định đoạt tài sản “thể hiện tình cảm, trách
nhiệm của mình đối với người khác”32. Nếu sự định đoạt trong di chúc đã lập khơng
cịn phù hợp với điều kiện, hồn cảnh hiện tại thì người lập di chúc “có tồn quyền
quyết định tài sản của mình mà khơng bị pháp luật ràng buộc về các điều khoản của
nội dung di chúc”33.
Năm là, di chúc là một giao dịch dân sự trọng hình thức.
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của cá nhân, là giao dịch dân sự trọng
hình thức. Hình thức di chúc là phương thức biểu đạt ý chí của người lập di chúc.
Việc thực hiện đúng hình thức là một trong những điều kiện bắt buộc để di chúc có
hiệu lực pháp luật. Đây là điểm khác biệt giữa di chúc và những giao dịch dân sự
khác. Theo Điều 129 BLDS năm 2015, nếu giao dịch dân sự xác lập sai về hình
thức nhưng một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong
giao dịch thì Tịa án ra quyết định cơng nhận hiệu lực của giao dịch đó nếu có yêu
cầu của một bên hoặc các bên. Tuy nhiên, đây không phải quy định áp dụng cho di
chúc, nếu di chúc được lập khơng đúng hình thức do pháp luật quy định thì di chúc
đó khơng có hiệu lực.
Pháp luật quy định nghiêm ngặt về hình thức di chúc nhằm bảo vệ ý chí của
người lập di chúc cũng như nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của những người
được thừa kế di sản theo nội dung di chúc. Nếu quy định hình thức di chúc lỏng lẻo
thì sẽ tạo điều kiện cho người khác thực hiện hành vi giả mạo di chúc hoặc cưỡng

ép, lừa dối, làm sai lệch ý chí của người để lại di sản. Khi lúc di chúc phát sinh hiệu
lực, người lập di chúc đã chết, nếu tranh chấp diễn ra thì khơng cịn ai phát biểu
thay hay xác thực nội dung của di chúc nữa. Do vậy, pháp luật Việt Nam hiện hành
chú trọng đến hình thức cũng như cách thức lập di chúc để tránh những rủi ro trên.

Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Nxb. Tư
pháp, tr. 45.
33
Đặng Thị Thơm, Nguyễn Đình Phong (2017), “Bàn về nội dung di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự
2015”, Tạp chí Tịa án nhân dân, Số 3, tr. 33.
32

15


1.2.2. Các đặc điểm riêng của di chúc của người không biết chữ, người bị hạn
chế về thể chất
Một là, người lập di chúc khơng thể tự mình viết bản di chúc.
Trong loại di chúc đang nghiên cứu, người lập di chúc là người khơng thể tự
mình viết được. Người không biết chữ là người không biết đọc, không biết viết
ngơn ngữ của bất kỳ quốc gia nào. Chính vì không biết đọc, không biết viết chữ nên
họ không thể tự mình viết bản di chúc. Cịn người bị hạn chế về thể chất là những
người bị mất, suy giảm hoặc rối loạn chức năng của một hoặc nhiều bộ phận cơ thể.
Những hạn chế này có thể gây khó khăn cho người lập di chúc, chẳng hạn bị cụt tay
thì khơng thể viết di chúc, bị mù mắt thì không thể viết hay kiểm tra lại nội dung di
chúc. Thông qua việc nhờ người khác lập di chúc, ý chí của người khơng biết chữ,
người bị hạn chế về thể chất mới được thể hiện dưới một hình thức nhất định.
Trường hợp “khơng thể tự mình viết” của người lập di chúc là người không
biết chữ, người bị hạn chế về thể chất không đồng nhất với trường hợp “khơng tự
mình viết” theo Điều 634 BLDS năm 201534. Vì người “khơng tự mình viết” di

chúc được xác định là người biết đọc, biết viết thành thạo. Nhưng vì những lý do
khách quan như bị run tay hoặc bị thương ở tay nên tạm thời khơng thể cầm bút,
hoặc vì lý do chủ quan như muốn đánh máy di chúc hoặc nhờ người khác viết hộ,
đánh máy hộ nên không tự mình lập di chúc35. Cịn người khơng biết chữ và người
bị hạn chế về thể chất, theo như đặc điểm riêng của nhóm chủ thể này như đã đề cập
ở trên, họ khơng phải “khơng tự mình viết” mà là “khơng thể tự mình viết” di chúc.
Điều này tạo nên sự điểm khác biệt giữa di chúc của người không biết chữ, người bị
hạn chế về thể chất so với di chúc bằng văn bản có người làm chứng khác.
Hai là, q trình lập di chúc cần có sự hỗ trợ của một số chủ thể.
Người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất muốn lập di chúc thì cần
được sự hỗ trợ từ người làm chứng và cơng chứng viên hoặc người có thẩm quyền
chứng thực36. Vì người khơng biết chữ, người bị hạn chế về thể chất khơng thể tự
mình viết di chúc nên họ cần người khác lập di chúc thành văn bản giúp họ. Người
thực hiện vai trị này chính là người làm chứng. Nhưng người không biết chữ, người
Điều 634 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có
thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai
người làm chứng”.
35
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và
quyền thừa kế, Lê Minh Hùng (Chủ biên), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 470.
36
Khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015.
34

16


bị hạn chế thể chất trong nhiều trường hợp không thể kiểm tra nội dung trong bản di
chúc, nên họ khơng thể biết được liệu di chúc đó có đúng với nguyện vọng của
mình hay khơng. Vì vậy, chỉ có sự xuất hiện của người làm chứng là chưa đủ, loại

di chúc này cần phải được công chứng hoặc chứng thực để đảm bảo tính chính xác
của nội dung di chúc. Thủ tục này được thực hiện bởi công chứng viên hoặc người
có thẩm quyền chứng thực.
Thơng thường, q trình lập di chúc có thể khơng có sự xuất hiện của chủ thể
khác37, hoặc chỉ có một trong hai chủ thể là người làm chứng hoặc người thực hiện
việc công chứng hoặc chứng thực. Chẳng hạn, di chúc bằng văn bản có người làm
chứng tại Điều 634 BLDS năm 2015 chỉ u cầu có người làm chứng, khơng bắt
buộc phải có sự xuất hiện của cơng chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng
thực. Cịn di chúc được lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc UBND
cấp xã tại khoản 1 Điều 636 BLDS năm 2015 thì khơng u cầu phải có người làm
chứng38. Tóm lại, việc có sự hỗ trợ của người làm chứng và cơng chứng viên, người
có thẩm quyền chứng thực là điểm khác biệt của loại di chúc tại Khoản 3 Điều 630
BLDS năm 2015 so với hầu hết những loại di chúc khác.
Ba là, di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất phải
tuân thủ các yêu cầu phức tạp về mặt hình thức.
Hình thức của di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể
chất là bằng văn bản, có người làm chứng và có cơng chứng hoặc chứng thực39. Đây
là hình thức có yêu cầu phức tạp, vừa yêu cầu có người làm chứng, vừa yêu cầu
phải được công chứng hoặc chứng thực. Mục đích của việc quy định hình thức di
chúc phức tạp là nhằm bảo đảm ý chí của người lập di chúc được thể hiện chân thực
nhất.
Ngồi ra, hình thức của loại di chúc này cịn mang tính riêng biệt so với hình
thức di chúc nói chung. Thơng thường, người làm chứng chỉ đóng vai trị chứng
kiến người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di, xác nhận chữ ký, điểm chỉ
đó và ký vào bản di chúc40. Cịn trong di chúc của người khơng biết chữ, người bị
hạn chế về thể chất, nhiệm vụ của người làm chứng là lập di chúc thành văn bản.
Điều 633 BLDS năm 2015 quy định về di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứng. Trong đó, người
lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc, không cần sự hỗ trợ của những chủ thể khác.
38
Trừ trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc

không điểm chỉ được thì phải có người làm chứng, theo khoản 2 Điều 636 BLDS năm 2015.
39
Khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015.
40
Điều 634 BLDS năm 2015.
37

17


Ngoài ra, loại di chúc này yêu cầu thêm yếu tố về công chứng hoặc chứng thực. Thủ
tục công chứng, chứng thực loại di chúc này cần có sự hiện diện của người làm
chứng41.
1.3. Ý nghĩa của quy định về di chúc của người không biết chữ, người bị hạn
chế về thể chất
Mỗi quy phạm pháp luật được ban hành đều mang ý nghĩa riêng, không chỉ
tác động đến chủ thể được điều chỉnh trong quy phạm đó mà cịn tác động đến
những chủ thể khác trong quan hệ thừa kế. Quy định pháp luật về di chúc của người
không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất có ý nghĩa như sau:
Một là, đối với người lập di chúc.
Thứ nhất, đảm bảo sự bình đẳng của các chủ thể trước pháp luật. Điều 16
Hiến pháp năm 2013 quy định về nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và khơng
phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Quy định
về di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất đã cụ thể hóa
ngun tắc bình đẳng trước pháp luật được ghi nhận trong Hiến pháp năm 201342.
Theo đó, người khơng biết chữ, người bị hạn chế về thể chất tuy gặp khó khăn trong
q trình lập di chúc nhưng pháp luật vẫn ghi nhận, khẳng định quyền được lập di
chúc của hai chủ thể này.
Người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất đều là những chủ thể có
năng lực nhận thức, làm chủ hành vi, có khả năng lao động, tạo ra những giá trị

kinh tế. Một khi đã tạo lập và sở hữu tài sản, họ đều có nhu cầu và quyền được định
đoạt tài sản khi cịn sống. Nhờ có quy định về di chúc của người không biết chữ,
người bị hạn chế về thể chất, quyền lợi của nhóm người này mới được tơn trọng và
đảm bảo bình đẳng trước pháp luật với những chủ thể có quyền lập di chúc nói
chung.
Sự bình đẳng trước pháp luật nói chung và trong việc lập di chúc nói riêng
khơng phải trong giai đoạn nào cũng được cơng nhận. Có tài liệu ghi nhận như rằng
pháp luật nước Anh vào “thời kỳ của Lord Coke” đã từng hoàn toàn phủ nhận việc
một người bị câm, điếc và mù có năng lực lập di chúc vì cho rằng họ là người thiếu
hiểu biết43. Quy tắc này khơng cịn được pháp luật cơng nhận. Khoa học kỹ thuật
Vấn đề này tác giả sẽ phân tích rõ hơn trong nội dung Chương 2.
Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; 2. Không ai bị phân
biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
43
William Fenton Myers (1918), “The last will and testament”, Woman and the Law, Including Rights and
Duties of Citizenship, p.107.
41
42

18


ngày một phát triển nên những người bị hạn chế về thể chất nhận được những tiện
ích từ cơng cụ, phương tiện, cơ sở vật chất hiện đại. Từ đó, họ có thể học hỏi, tìm
hiểu và làm việc như những cá nhân khác. Nếu có bằng chứng cho thấy người lập di
chúc dù là người bị hạn chế về thể chất nếu có đủ năng lực lập di chúc và có nguyện
vọng về việc định đoạt tài sản sau khi chết thì người này vẫn có quyền lập di chúc.
Thứ hai, pháp luật về di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về
thể chất đảm bảo cho sự thể hiện ý chí một cách chân thực của người lập di chúc.
Đối với nhóm người này, họ không thể tự viết di chúc để biểu đạt ý chí định đoạt tài

sản. Nếu nhờ người khác viết hộ thì cũng khơng có cơ sở để đảm bảo nội dung
trong di chúc phản ánh đúng nguyện vọng của họ. Quy định của pháp luật này đã
tạo nên hành lang pháp lý rõ ràng để việc lập di chúc được tiến hành một cách chặt
chẽ. Qua đó, nội dung di chúc có thể phản ánh chân thực ý chí của người để lại di
sản.
Quy định này như một “hàng rào kỹ thuật”44 để hạn chế và phòng ngừa việc
người khác giả mạo hoặc ép buộc người để lại di sản thừa kế lập di chúc trái với ý
chí của họ. Thời điểm di chúc có hiệu lực cũng là khi người lập di chúc đã qua đời,
lúc đó sẽ khơng còn ai xác nhận lại nội dung của di chúc có đúng với nguyện vọng
của người lập di chúc. Nếu có hành vi làm xâm phạm ý chí tự do, tự nguyện của
người lập di chúc thì cũng khơng cịn cách để đối chứng được. Hơn nữa, người
không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất tuy có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
nhưng lại gặp bất lợi về khả năng đọc, viết. Việc lập di chúc của họ vốn đã khó
khăn hơn những người đọc được, viết được. Nếu pháp luật khơng có quy định nhằm
đảm bảo cho họ thể hiện ý chí một cách chân thực thì có khả năng di chúc của họ bị
giả mạo là có thể xảy ra. Việc xác định di chúc phản ánh khách quan, trung thực ý
chí định đoạt tài sản của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất vô cùng
quan trọng.
Hai là, đối với người thừa kế theo di chúc.
Quy định về di chúc của người không biết chữ, người bị hạn chế về thể chất
như một cơ chế pháp lý nhằm bảo đảm tính hợp pháp của di chúc, tránh nguy cơ bị
giả mạo, cưỡng ép, xâm phạm ý chí của người lập di chúc. Nếu khơng có quy định
này, một số người sẽ lợi dụng kẽ hở để đem lại lợi ích khơng chính đáng cho mình.

Khoa Luật Dân sự (2010), Tập bài giảng tài sản và thừa kế, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Lưu
hành nội bộ, tr. 218.
44

19



×