Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

khoá luận tốt nghiệp pháp luật về nhập khẩu phế liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.97 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

PHAN THỤC TRINH

PHÁP LUẬT VỀ NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU

CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT VỀ NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU

SINH VIÊN THỰC HIỆN: PHAN THỤC TRINH
Khóa: 42

MSSV: 1753801011205

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THS. PHAN THỊ KIM NGÂN

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khố luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu riêng đối với


tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Phan Thị Kim Ngân,
đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu
tham khảo. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
TP.HCM, ngày 25 tháng 6 năm 2021
Sinh viên thực hiện

Phan Thục Trinh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
CTNH

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT
Chất thải nguy hại

CQHQ

Cơ quan Hải quan

BVMT

Bảo vệ môi trường

NLSX

Nguyên liệu sản xuất

NKPL


Nhập khẩu phế liệu

ONMT

Ơ nhiễm mơi trường

QCKTQG

Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia

TN&MT

Tài nguyên và Môi trường


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài................................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu đề tài.................................................................................................. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài....................................................................... 4
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu................................................................................ 5
6. Bố cục tổng quát của khoá luận........................................................................................ 5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU VÀ PHÁP LUẬT
NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU.............................................................................................................. 6
1.1 Khái quát về phế liệu............................................................................................................ 6
1.1.1 Khái niệm phế liệu........................................................................................................... 6
1.1.2 Phân loại phế liệu............................................................................................................. 7
1.1.3 Đặc điểm phế liệu............................................................................................................ 9
1.2 Một số vấn đề cơ bản về nhập khẩu phế liệu......................................................... 10

1.2.1 Khái niệm nhập khẩu phế liệu.................................................................................. 10
1.2.2 Thực trạng của hoạt động nhập khẩu phế liệu.................................................... 11
1.2.2.1 Thực trạng nhập khẩu phế liệu của một số quốc gia trên thế giới ......11
1.2.2.2 Thực trạng nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam.............................................. 13
1.2.3 Tác động của hoạt động nhập khẩu phế liệu đến nền kinh tế và mơi trường
15
1.2.3.1 Tác động tích cực.................................................................................................. 15
1.2.3.2 Tác động tiêu cực.................................................................................................. 17
1.3 Một số vấn đề cơ bản về pháp luật nhập khẩu phế liệu.................................... 20
1.3.1 Cơ sở hình thành của pháp luật về nhập khẩu phế liệu................................... 20
1.3.2 Quá trình hình thành của pháp luật về nhập khẩu phế liệu............................ 20
1.3.2.1 Quá trình hình thành của pháp luật quốc tế về nhập khẩu phế liệu .. 20
1.3.2.2 Quá trình hình thành của pháp luật Việt Nam về nhập khẩu phế liệu
22
1.3.3 Vai trò của pháp luật nhập khẩu phế liệu trong hoạt động bảo vệ môi trường
24
1.3.4 Một số văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động nhập khẩu phế
liệu làm nguyên liệu sản xuất............................................................................................... 25


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1............................................................................................................. 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU VÀ MỘT

SỐ KIẾN NGHỊ................................................................................................................................ 27
2.1 Thực trạng pháp luật nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam................................... 27
2.1.1 Điều kiện nhập khẩu phế liệu.................................................................................... 27
2.1.1.1 Điều kiện đối với phế liệu nhập khẩu............................................................ 27
2.1.1.2 Điều kiện đối với chủ thể nhập khẩu phế liệu............................................ 30
2.1.2 Thủ tục nhập khẩu phế liệu........................................................................................ 34
2.1.2.1 Quy định về Giấy xác nhận đủ điều kiện bảo vệ môi trường trong nhập

khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất....................................................................... 34
2.1.2.2 Ký quỹ nhập khẩu phế liệu................................................................................ 36
2.1.2.3 Kiểm tra, thông quan khi nhập khẩu phế liệu............................................. 37
2.1.3 Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm..................................................................... 38
2.1.3.1 Thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu
phế liệu..................................................................................................................................... 38
2.1.3.2 Xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập
khẩu phế liệu.......................................................................................................................... 40
2.2 Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp

luật về nhập khẩu phế liệu...................................................................................................... 44
2.2.1 Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật................................................................... 44
2.2.2 Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.................................. 46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2............................................................................................................. 49
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, đất nước ta đang trên đà phát triển không ngừng,
đời sống của người dân được cải thiện một cách rõ rệt. Tuy nhiên, song song với sự
phát triển ấy, ô nhiễm môi trường (ONMT) đã và đang trở thành một vấn đề gây
nhiều bức xúc cho dư luận xã hội. Xuất phát điểm là một quốc gia nông nghiệp lạc
hậu, để đáp ứng cho nhu cầu phát triển của đất nước, Nhà nước ta cho phép nhập
khẩu phế liệu (NKPL) làm nguyên liệu sản xuất (NLSX) nhằm tạo thêm nguồn
ngun liệu cung cấp cho ngành cơng nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế. Thế
nhưng hoạt động NKPL tiềm ẩn nhiều rủi ro gây ONMT.
Trong nhiều thập kỷ qua, Trung Quốc là quốc gia giữ ngôi vị “vô địch” về
NKPL trên thế giới. Nhưng “ngôi vị” này đã nhanh chóng có sự thay đổi kể từ khi

Trung Quốc hạn chế nhập khẩu chất thải vào cuối năm 2017 đi đến cấm hoàn toàn
nhập khẩu chất thải kể từ đầu năm 2021 để cắt giảm ONMT nặng nề. Điều đó khiến
các loại phế liệu (đặc biệt chất thải gắn nhãn phế liệu) của các quốc gia phát triển đi
đến một bãi tập kết mới – các Quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam 1.
Mặc dù pháp luật Việt Nam đã có những quy định về điều kiện nhập khẩu,
cũng như thủ tục NKPL nhưng nếu hệ thống pháp luật có lỗ hổng, cơng tác quản lý,
kiểm sốt khơng chặt chẽ thì rất dễ bị lợi dụng đưa chất thải vào nước ta và khiến
nước ta trở thành bãi rác của thế giới, môi trường sẽ ngày càng ô nhiễm và ảnh
hưởng tiêu cực đến sức khoẻ con người.
Ở nước ta trong năm nửa đầu năm 2018, sau lệnh cấm của Trung Quốc 2, số
lượng phế liệu tồn đọng ở các cảng tăng lên đáng kể, cụ thể ở Tân Cảng Sài Gịn là
gần 4.500 container, trong đó riêng cảng Cát Lái đã hơn 3.400 container 3. Không
dừng ở đó, Trung Quốc đã cấm nhập khẩu tồn bộ rác thải rắn dưới mọi hình thức,
đồng thời cấm trút đổ, chất đống và xử lý rác thải rắn từ nước ngoài tại nước này kể
từ ngày 01/01/2021. Cũng trong đầu năm 2021, Hải quan TP.HCM đã yêu cầu tái

1

Văn Toàn, “Nhập khẩu rác thải nhựa: Kịch bản đang chuyển hướng sang ASEAN?”,
truy cập ngày 30/4/2021.
2Vào tháng 7 năm 2017, Trung Quốc đã ban hành Lệnh cấm nhập khẩu một số loại chất thải từ nước ngoài:
Kế hoạch quản lý nhập khẩu chất thải rắn. Chất thải rắn bao gồm: nhựa, giấy, sản phẩm dệt may,… Chính
sách này chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2018.
3
Vũ Hồng Nhung (2018), “Cảnh báo tình trạng nhập khẩu phế liệu ồ ạt vào Việt Nam”, Tạp chí Tài ngun
và mơi trường, số 14(292)/2018, tr.32.

1



xuất 880 container phế liệu không đủ các điều kiện về tiêu chuẩn, chất lượng của
hơn 30 hãng tàu vận chuyển nhập khẩu về cảng Cát Lái từ năm 2017 đến nay 4.
Trước tình hình trên, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về nhập khẩu phế liệu” cho
khoá luận tốt nghiệp. Thông qua đề tài này, tác giả sẽ nghiên cứu những quy định của
pháp luật về nhập khẩu phế liệu từ đó đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động NKPL hiện nay ở Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài về pháp luật nhập khẩu phế liệu luôn được nhiều người quan tâm nên số
lượng nguồn tài liệu tham khảo Tiếng Việt và Ngoại văn tương đối phong phú. Trong
đó có những nghiên cứu về hoạt động nhập khẩu chất thải nói chung và cả hoạt động
nhập khẩu phế liệu nói riêng. Với những tài liệu này đã giúp tác giả hệ thống kiến thức
một cách bao quát và chuyên sâu hơn trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Về các cơng trình nghiên cứu, tác giả đã tìm hiểu một số cơng trình nghiên cứu về
hoạt động nhập khẩu chất thải và nhập khẩu phế liệu. Trong đó, cơng trình nghiên cứu
đi vào phân tích, đánh giá một cách tổng thể và toàn diện các quy định của pháp luật
liên quan về hoạt động nhập khẩu phế liệu, đó là Luận văn Thạc sĩ học cùng tên với đề
tài của tác giả - “Pháp luật về nhập khẩu phế liệu” của Lê Thị Thủy năm 2011. Luận
văn đã phân tích các quy định về nhập khẩu phế liệu, thực trạng pháp luật Việt Nam và
từ đó tác giả cũng đã đưa ra một số kiến nghị cho pháp luật điều chỉnh hoạt động
NKPL của Việt Nam. Tuy nhiên, từ năm 2011 đến nay pháp luật về NKPL cũng như
tình hình của hoạt động NKPL tại nước ta đã có nhiều sự thay đổi. Do đó, cơng trình
nghiên cứu này tại thời điểm bây giờ đã có một số điểm khơng cịn phù hợp.

Ngồi ra, thêm một đề tài nghiên cứu đến lĩnh vực nhập khẩu chất thải nói
chung có thể kể đến là Luận văn cử nhân Luật “Vấn đề kiểm sốt xuất nhập khẩu
chất thải theo Cơng ước Basel và pháp luật Việt Nam” của Nguyễn Kim Phương
Lan năm 2003. Luận văn cung cấp những kiến thức cơ bản về hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu chất thải theo Công ước Basel và hoạt động nhập khẩu phế liệu tại Việt
Nam kể từ khi Việt Nam phê chuẩn Công ước Basel vào năm 1995. Ngoài ra, luận

văn cũng đưa ra những kiến nghị hồn thiện pháp luật mơi trường Việt Nam về
kiểm soát xuất nhập khẩu chất thải lúc bấy giờ. Đây là một trong những cơng trình
nghiên cứu khoa học nghiên cứu về lĩnh vực nhập khẩu chất thải, trong đó có cả phế
liệu, đầu tiên kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên của Công ước Basel.

4 Lệ Hằng, “Hải quan TP.HCM yêu cầu tái xuất 880 container phế liệu”, truy cập ngày 30/4/2021.

2


Về các bài viết được đăng trong các tạp chí chuyên ngành, có thể kể đến một
số bài viết tiêu biểu như “Việt Nam với việc thực thi Công ước Basel về kiểm soát
chất thải xuyên biên giới và việc tiêu hủy chúng” của tác giả Nguyễn Văn Phương
đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý Trường Đại học Luật TP.HCM số 02 năm 2006;
“Khái niệm phế liệu và bản chất pháp lý của phế liệu” của tác giả Nguyễn Văn
Phương5 đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 01 năm 2007; “Cảnh báo tình trạng
phế liệu nhập khẩu ồ ạt vào Việt Nam” của tác giả Vũ Hồng Nhung đăng trên Tạp
chí Tài ngun và mơi trường số 14 năm 2018; “Chính sách nhập khẩu hướng tới
nền kinh tế tuần hoàn tại Trung Quốc và một số kiến nghị cho Việt Nam” của tác
giả Lý Hoàng Phú và Phạm Thị Thuỳ Dung đăng trên Tạp chí Quản lý và Kinh tế số
129 năm 2020; “Công ước Basel về xử lý, kiểm soát vận chuyển qua biên giới chất
thải nguy hại (CTNH) và kiến nghị cho Việt Nam” của tác giả Phan Thị Hương
Giang đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10 năm 2020; “Khó khăn, vướng
mắc khi xử lý vi phạm trong hoạt động nhập khẩu phế liệu” của tác giả Nguyễn Chí
Linh đăng trên Tạp chí Tồ án nhân dân số 22 năm 2020;… Các bài viết này đã
cung cấp kiến thức về lý luận cũng như tình hình thực tiễn của hoạt động NKPL để
tác giả có cái nhìn hồn thiện hơn về đề tài nghiên cứu.
Nhìn chung, có khá nhiều tài liệu liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến khoá
luận của tác giả. Mặc dù đề tài của tác giả trước đây đã có người nghiên cứu, nhưng
những cơng trình này đều dựa trên những quy định của pháp luật cũ và tình hình

thực tiễn về hoạt động NKPL theo thời gian đã có những chuyển biến quan trọng tác
động đến pháp luật bảo vệ môi trường (BVMT) về nhập khẩu phế liệu. Vấn đề
BVMT, trong đó có nhập khẩu phế liệu hiện nay được quy định Luật BVMT 2014
đang có hiệu lực, Luật BVMT 2020 đã được thông qua và sẽ có hiệu lực thi hành
vào ngày 01/01/2022 và một số văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan. Về pháp
luật quốc tế, Công ước Basel 1989 cũng đã có những sửa đổi, bổ sung chính thức có
hiệu lực từ 01/01/2021 và bên cạnh đó cịn có sự thay đổi pháp luật về nhập khẩu
phế liệu của một số quốc gia khu vực và thế giới.

5Tiến sĩ Nguyễn Văn Phương hiện đang là Giảng viên chính, Trưởng Bộ mơn Luật Mơi trường trường Đại
học Luật Hà Nội. Ngồi những bài viết được nêu trên, Tiến sĩ cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu khác liên
quan đến chất thải như: Luận án Tiến sĩ luật học “Pháp luật về hoạt động nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam”;
bài viết “Khái niệm chất thải và quy định về xuất nhập khẩu chất thải của Cộng hòa liên bang Đức” được
đăng trên Tạp chí Luật học số 04 năm 2006; bài viết “Pháp luật quản lý chất thải một số quốc gia và kinh
nghiệm đối với Việt Nam” được đăng trên Tạp chí Luật học số 09 năm 2013; bài viết “Một số vấn đề vướng
mắc nảy sinh từ các quy định của Luật bảo vệ môi trường trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu” được đăng
trên Tạp chí Luật học số 11 năm 2011; bài viết “Những hành vi bị nghiêm cấm trong Luật Bảo vệ môi trường
2005 và đề xuất sửa đổi, bổ sung” được đăng trên Tạp chí Mơi trường số 1+2 năm 2013;…

3


Do đó, đề tài khố luận “Pháp luật về nhập khẩu phế liệu” mà tác giả chọn vẫn
đảm bảo tính mới, có cơ sở lý luận và thực tiễn để triển khai.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của khố luận là nhằm đưa đến cái nhìn tổng quan, toàn
diện những vấn đề lý luận cơ bản về phế liệu, NKPL. Nghiên cứu các khái niệm về
chất thải, phế liệu, cũng như những đặc điểm, cách phân loại và quy định của pháp
luật về điều kiện NKPL, thủ tục NKPL, hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
trong NKPL sẽ được nghiên cứu, phân tích nhằm tìm ra những bất cập, hạn chế. Từ

đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tiễn ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Như tên gọi của đề tài, đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật
Việt Nam liên quan đến hoạt động nhập khẩu phế liệu, bao gồm:
- Quy định của pháp luật về khái niệm phế liệu, nhập khẩu phế liệu;
- Quy định của pháp luật về điều kiện nhập khẩu phế liệu và kiểm soát hoạt
động nhập khẩu phế liệu;
- Quy định các chế tài về dân sự, hành chính, hình sự đối với hành vi vi phạm
pháp luật về nhập khẩu phế liệu.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động nhập khẩu phế liệu rất rộng và tương đối phức tạp, không chỉ là đối
tượng nghiên cứu của khoa học pháp lý mà còn của nhiều ngành khoa học khác.
Trong thời gian và điều kiện nghiên cứu có hạn, tác giả chỉ nghiên cứu hoạt động
nhập khẩu phế liệu dưới góc độ pháp lý bằng những quy định pháp luật Việt Nam
trong hoạt động nhập khẩu phế liệu thuộc lĩnh vực BVMT.
Tác giả tập trung chủ yếu nghiên cứu các quy định về nhập khẩu phế liệu tại Luật
BVMT 2014 đang có hiệu lực thi hành; Luật BVMT 2020 đã ban hành và sẽ có hiệu
lực vào ngày 01/01/2022. Cùng với đó là các quy định trong là một số văn bản hướng
dẫn thi hành về nhập khẩu có thể kể đến như Quyết định 28/2020/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 24/9/2015 ban hành Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ
nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất, Nghị định số 38/2015/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 24/4/2015 về quản lý chất thải và phế liệu Nghị định số 40/2019/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 13/5/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định

4


quy định chi tiết, hướng dẫn chi hành Luật BVMT, Nghị định số 155/2016/NĐ-CP của

Chính phủ ngày 18/11/2016 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi
trường, Nghị định số 55/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/5/2021 sửa đổi bổ sung
một số điều Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 quy định về xử phạt hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Thông tư số 08/2018/TT-BTNMT của Bộ Tài
nguyên và Môi trường (TN&MT) ngày 14/9/2018 ban hành quy chuẫn kỹ thuật quốc
gia về môi trường, Thông tư số 09/2018/BTNMT của Bộ TN&MT ngày 14/9/2018 ban
hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCKTQG) về môi trường,…

5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Về phương pháp luận, tác giả đã sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử làm nền tảng và định hướng cho suốt quá trình nghiên cứu.
Đồng thời, để đạt được mục đích nghiên cứu đặt ra tác giả cịn sử dụng các
phương pháp như diễn dịch, quy nạp, so sánh, phân tích, tổng hợp, liệt kê, thống kê,
tổng hợp,… cùng một cái nhìn đa chiều, khoa học, logic để có thể có cái nhìn
chun sâu hơn về đề tài.
6. Bố cục tổng qt của khố luận
Khố luận có kết cấu gồm 03 phần chính: Phần Mở đầu, Phần Nội dung và
Phần Kết luận. Trong đó, Phần Nội dung gồm có 02 chương sau:
- Chương 1: Tổng quan về nhập khẩu phế liệu và pháp luật nhập khẩu phế liệu.

- Chương 2: Thực trạng pháp luật nhập khẩu phế liệu và một số kiến nghị.

5


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU VÀ PHÁP
LUẬT NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU
1.1 Khái quát về phế liệu
1.1.1 Khái niệm phế liệu
Thế giới có rất nhiều cách định nghĩa về phế liệu và tùy vào từng lĩnh vực

nghiên cứu mà người ta đưa ra những định nghĩa khác nhau về phế liệu.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta quen cách gọi “đồng nát”, “ve chai” thay
vì phế liệu. Đấy thường là những vật liệu, sản phẩm hỏng, lỗi, cũ bị thải ra trong
quá trình tiêu dùng hay sản xuất. Về mặt ngữ nghĩa, phế liệu là “vật bỏ đi từ những
nguyên liệu đã qua chế biến” 6. Với cách hiểu như vậy, tất cả những vật phát sinh
sau quá trình sử dụng bị bỏ đi đều trở thành phế liệu. Lúc này khơng có sự ranh giới
phân biệt giữa phế liệu với rác thải – “những vật dơ bẩn, không xài bị vứt bỏ” 7.
Trong lĩnh vực pháp lý của nước ta, cụm từ “phế liệu” lần đầu tiên xuất hiện
tại khoản 2 Điều 28 Nghị định số 175/1994/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/10/1994
về hướng dẫn thi hành Luật BVMT 1993. Tuy nhiên, tại thời điểm đó chưa hề có
một văn bản pháp luật nào đưa ra một định nghĩa rõ ràng về phế liệu. Định nghĩa
phế liệu lần đầu tiên được đưa ra tại Thông tư liên bộ số 2880/KCM-TM của Bộ
Khoa học công nghệ & Môi trường và Bộ Thương mại ngày 19/12/1996 quy định
tạm thời đối với việc nhập khẩu các phế liệu8.
Cùng với sự thay đổi của xã hội, pháp luật về NKPL đã ngày càng hồn thiện và
phát triển hơn. Thêm vào đó, Việt Nam trở thành thành viên của Công ước Basel năm
1989 về vận chuyển qua biên giới CTNH và tiêu hủy chúng

9

cũng đã góp phần hồn

thiện hệ thống pháp luật môi trường Việt Nam, đặc biệt trong hoạt động NKPL.
Trong một số Điều ước quốc tế và văn bản pháp luật của các quốc gia không đưa
ra định nghĩa “phế liệu” mà thay vào đó họ định nghĩa về “chất thải”. Theo Công ước
Basel 1989, chất thải là các chất hoặc đồ vật mà người ta tiêu hủy, có ý định tiêu hủy
10

hoặc phải tiêu hủy chiếu theo các điều khoản cả luật lệ quốc gia . Tại Điều 3
6Nguyễn Văn Xô (2008), Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên, tr.776.

Nguyễn Văn Xô (2008), Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên, tr.819.
8
Theo đó, phế liệu được định nghĩa là các nguyên liệu bị loại ra sau quá trình sản xuất ngun liệu chính
phẩm và khơng đạt tiêu chuẩn ngun liệu thứ phẩm nêu trên, hoặc là các sản phẩm bị loại ra sau quá trình sử
dụng như: (i) Nguyên liệu vụn, hoặc bị biến dạng, sứt mẻ,… nhưng vẫn giữ được tính chất cơ bản của vật
liệu; (ii) Các sản phẩm, đồ vật đã qua chế biến, gia công (không đủ tiêu chuẩn là chính phẩm, thứ phẩm) hoặc
đã qua sử dụng, nhưng có thể làm nguyên liệu sản xuất.
9
Việt Nam tham gia công ước Basel vào ngày 13 tháng 3 năm 1995. Cơng ước có hiệu lực đối với Việt Nam
ngày 11 tháng 6 năm 1995.
10
Khoản 1 Điều 2 Công ước Basel 1989.
7

6


Chương I Chỉ thị 2008/98/EC của Nghị viện Châu Âu cũng đưa ra định nghĩa về chất
thải, chất thải là bất kỳ chất hoặc đối tượng nào mà chủ sở hữu loại bỏ hoặc có ý định
hoặc được yêu cầu loại bỏ. Tại Đạo luật Sức khoẻ cộng đồng về môi trường Singapore
năm 1987, sửa đổi bổ sung năm 2002 không đưa ra một khái niệm thế nào là chất thải
mà các nhà làm luật Singapore đã sử dụng phương pháp liệt kê để điểm tên các loại vật
chất được xem là chất thải, bao gồm: (1) Bất kỳ chất nào tạo thành phế liệu hoặc được
thải ra ngoài hoặc chất dư thừa không được sử dụng cho việc áp dụng một quy trình
phát sinh nào; (2) Bất kỳ chất hoặc vật phẩm nào cần được thải bỏ vì bị hỏng, hao mòn,
nhiễm bẩn hoặc (3) Bất kỳ vật chất nào bị loại bỏ hoặc xử lý theo cách khác như thể
chất thải sẽ được xem là chất thải trừ khi chứng minh được điều ngược lại.

Hiện nay, định nghĩa phế liệu được quy định tại khoản 16 Điều 3 Luật BVMT
2014 như sau: “Phế liệu là vật liệu được thu hồi, phân loại, lựa chọn từ những vật

liệu, sản phẩm đã bị loại bỏ từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng để sử dụng làm
nguyên liệu cho một q trình sản xuất khác”.
Bên cạnh đó, pháp luật mơi trường nước ta đã đưa ra 02 khái niệm riêng biệt về
“phế liệu” và “chất thải”. Chất thải “là vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh,
11

dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác” . Việc xác định một vật phẩm là phế liệu hay
chất thải có ý nghĩa trong việc áp dụng các quy định pháp luật về môi trường trong hoạt
12

động nhập khẩu . Bởi lẽ, Nhà nước ta hiện nay cấm việc nhập khẩu, xuất khẩu chất
13

thải dưới mọi hình thức . Cịn đối với hoạt động NKPL vẫn được phép thực hiện
nhưng phải đáp ứng được các điều kiện luật định. Chất thải là vật chất và phế liệu được
xem như một dạng của chất thải, vì thế những yếu tố phi vật chất không thể là phế liệu.
Tương tự chất thải, phế liệu được loại bỏ ra từ các hoạt động của chủ sở hữu. Và đối
với khái niệm chất thải không hề đề cập tới mục đích sau q trình thải ra, trong khi đó,
mục đích “sử dụng làm ngun liệu cho một q trình sản xuất khác” là tiêu chí mang
tính định tính của phế liệu. Vì vậy, việc làm rõ những tiêu chí cơ bản và bản chất pháp
lý của phế liệu có ý nghĩa rất quan trọng.

Từ đây, có thể khẳng định rằng nội hàm khái niệm của chất thải rộng hơn khái
niệm phế liệu rất nhiều. Hay có thể nói rằng, phế liệu là một dạng của chất thải.
1.1.2 Phân loại phế liệu
Phân loại phế liệu nhằm xác định được tính chất, đặc điểm của chúng hay chọn
lựa các biện pháp xử lý phế liệu phù hợp với BVMT hoặc nhằm mục đích xác định
11Khoản 12 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014.
12
Nguyễn Văn Phương (2007), “Khái niệm phế liệu và bản chất pháp lý của phế liệu”, Tạp chí Luật

học, số 1(38)/2007, tr.18.
13
Khoản 9 Điều 7 Luật Bảo vệ môi trường 2014.

7


đó có phải là loại phế liệu được phép trao đổi, mua bán hay khơng. Hiện nay, có nhiều
cách phân loại phế liệu khác nhau tùy thuộc vào các căn cứ phân loại tương ứng.

Căn cứ vào mức độ nguy hại, chúng ta có thể chia phế liệu thành 02 loại: phế
liệu nguy hại và phế liệu không nguy hại.
- Phế liệu nguy hại: Đây là loại phế liệu có khả năng cao gây hại cho môi trường
và sức khoẻ của con người nên cần được xử lý một cách đặc biệt. Phế liệu nguy hại
thường chứa các yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mịn, gây ngộ độc
hoặc các đặc tính nguy hại khác. Một số phế liệu nguy hại chẳng hạn như: pin; bình ắcquy; chai, lọ đựng xăng, dầu, thuốc bảo vệ thực vật; thiết bị điện tử;… Theo quy định
của pháp luật môi trường nước ta, những loại phế liệu nguy hại không nằm trong danh
mục phế liệu được phép nhập khẩu, nghĩa là phế liệu chứa các yếu tố nguy hại được
14

nêu trên không được nhập khẩu vào nước ta dưới mọi hình thức ;
- Phế liệu khơng nguy hại: Loại phế liệu này không chứa các yếu tố nguy hại,

hoặc nếu có thì chỉ ở một mức cho phép, có thể xử lý được và đảm bảo mục đích
BVMT. Nước ta cho phép nhập khẩu một số loại phế liệu không nguy hại như: giấy,
thủy tinh, sắt, thép,…15.
Căn cứ vào tính chất vật lý của phế liệu, phế liệu bao gồm: phế liệu sắt, thép;
phế liệu nhựa; phế liệu giấy; phế liệu thủy tinh; phế liệu kim loại màu.
- Phế liệu sắt, thép: là những nguyên vật liệu, những sản phẩm hư hỏng được
làm từ sắt, thép, những sản phẩm khơng cịn sử dụng được nữa, những ngun vật

liệu thừa được cắt bỏ ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng. Một số phế liệu sắt,
thép quen thuộc trong cuộc sống như: quạt, nồi, bàn ghế, hàng rào,…;
- Phế liệu nhựa: là loại phế liệu từ vật chất nhựa, chúng xuất hiện hầu như
trong tất cả các đồ sinh hoạt hằng ngày, như: chai nước, bàn ghế nhựa, tủ lạnh,…
- Phế liệu giấy: đây là loại phế liệu có nguồn gốc từ giấy khơng dùng nữa,
chẳng hạn như sách, vở, giấy báo, bìa carton,…;
- Phế liệu thủy tinh: là các vật dụng có chứa thành phần thủy tinh như chai, lọ,
kính,… đã bị hư hỏng, loại bỏ đi trong quá trình sản xuất, sử dụng được thu gom để
sử dụng cho quá trình tái chế;

14
15

Quyết định số 28/2020/QĐ-TTg.
Quyết định số 28/2020/QĐ-TTg.

8


- Phế liệu kim loại màu: là loại phế liệu có nguồn gốc từ những vật chất là
kim loại màu16. Nó bao gồm: vàng, bạc, đồng, kẽm, nhơm cũng như các loại kim
loại màu khác.
Căn cứ vào hoạt động NKPL làm NLSX, phế liệu được chia thành 02 loại: phế
liệu được phép nhập khẩu và phế liệu không được phép nhập khẩu.
- Phế liệu được phép nhập khẩu: là phế liệu nhập khẩu làm NLSX. Phế liệu
đó phải thoả mãn cả 02 điều kiện về QCKTQG về môi trường 17 và thuộc danh mục
thì phế liệu đó mới được xem là phế liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm
NLSX18;
- Phế liệu không được phép nhập khẩu: là phế liệu không đáp ứng QCKTQG
về môi trường hoặc không nằm trong danh mục phế liệu được phép nhập khẩu19.

1.1.3 Đặc điểm phế liệu
Tìm hiểu về đặc điểm của phế liệu không những giúp chúng ta phân biệt được
phế liệu với chất thải mà còn làm rõ được bản chất của chúng. Phế liệu thường có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, phế liệu là vật chất được loại bỏ đi trong quá trình sản xuất, tiêu dùng.

Vật liệu loại bỏ trong quá trình sản xuất chỉ trong trường hợp khi chủ sở hữu
hoặc người đại diện chủ sở hữu chủ động từ bỏ ý định sử dụng chúng trong quá
trình sản xuất. “Bị loại bỏ” trong quá trình tiêu dùng được hiểu là khi chủ thể bất kỳ
không tiếp tục khai thác giá trị, cơng dụng của vật liệu, sản phẩm đó nữa. Một vật
chất có thể tồn tại dưới dạng phế liệu hay không phụ thuộc vào hành vi từ bỏ của
chủ sở hữu (hoặc người sở hữu hợp pháp) chúng.
Thứ hai, phế liệu phải mang tính chọn lọc, nghĩa là chúng phải được thu hồi,
phân loại và lựa chọn từ các phế liệu đã thu gom được.
Chất thải không được chủ sở hữu quan tâm đến những công đoạn sau khi loại
bỏ. Nhưng với phế liệu, chúng phải được phân loại và chọn lọc. Bởi lẽ, nếu là chất
thải thì chúng sẽ đi đến những bãi chôn lấp để xử lý, tiêu hủy nhằm BVMT cịn phế
liệu thì sẽ được mang đi “làm sạch” để sử dụng cho một quy trình sản xuất khác.
16
Kim loại màu là tên gọi dùng chung để chỉ các loại hợp kim và kim loại khơng có thành phần của
sắt, trừ sắt và hợp kim của sắt.
17
Quy chuẩn kỹ thuật môi trường về phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất được ban hành
kèm theo Thông tư số 08/2018/TT-BTNMT và Thông tư số 09/2018/TT-BTNMT.
18
Danh mục về phế liệu được phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất hiện nay được quy định tại
Quyết định số 28/2020/QĐ-TTg.
19
Trừ trường hợp nhập khẩu phế liệu không thuộc danh mục phế liệu được phép nhập khẩu để thử
nghiệm làm nguyên liệu sản xuất theo quy định tại khoản 32 Điều 3 Nghị định số 40/2019/NĐ-CP.


9


Không phải tất cả chất thải đều được xem là phế liệu, chỉ những chất thải đã qua
quá trình chọn lọc và thoả mãn những điều kiện cụ thể

20

thì mới được xem là phế liệu.

Bởi khi trải qua công đoạn này người ta mới có thể chọn ra được những phế liệu có khả
năng tái chế cao và khi tái chế ít gây ra những tác động với mơi trường.

Thứ ba, những vật chất bị loại bỏ sau khi thu hồi, phân loại, lựa chọn được
dùng cho một quá trình sản xuất khác, hay còn gọi là tái chế phế liệu.
21

Đây là đặc điểm cơ bản và quan trọng nhất để phân biệt phế liệu với chất thải .
Mục đích cuối cùng của phế liệu chính là trở thành nguyên liệu để tạo ra một sản phẩm
mới. Tái chế phế liệu nhằm tiết kiệm và khai thác tài nguyên một cách triệt để.

Mặc dù trong quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng trước đó, những sản phẩm, vật
liệu này bị loại bỏ do các chủ thể từ bỏ trong quá trình sử dụng nhưng sau khi trở
thành phế liệu chúng lại mang công dụng, giá trị để sản xuất ra những vật liệu, sản
phẩm khác. Điều này đã tạo ra một vịng tuần hồn khép kín trong q trình sản
xuất, tiêu dùng sản phẩm.
1.2 Một số vấn đề cơ bản về nhập khẩu phế liệu
1.2.1 Khái niệm nhập khẩu phế liệu
Phế liệu được xem như một loại hàng hoá theo định nghĩa về hàng hoá theo Luật

22

Thương mại 2005 . Theo đó, nhập khẩu phế liệu chính là nhập khẩu hàng hoá.

Nhập khẩu hàng hoá theo Luật Thương mại 2005 là việc một chủ thể đưa hàng
hoá từ lãnh thổ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam
(khu vực hải quan riêng23) vào lãnh thổ Việt Nam một cách hợp pháp. Như vậy,
hoạt động nhập khẩu khơng chỉ là việc đưa hàng hố từ nước ngồi vào Việt Nam
mà cịn bao gồm hoạt động đưa hàng hố từ khu vực có quy chế đặc biệt trên lãnh
thổ Việt Nam ra bên ngoài và đưa chúng vào thị trường Việt Nam.
Trong khoá luận này, tác giả chỉ xem xét hoạt động NKPL dưới góc độ BVMT vì
vậy khái niệm về NKPL sẽ được tiếp cận dưới nghĩa hẹp. Theo đó, nhập khẩu phế liệu
là việc tổ chức, cá nhân đưa phế liệu vào lãnh thổ Việt Nam từ lãnh thổ nước
20
Những điều kiện như như khả năng tái chế, thuộc danh mục phế liệu nhập khẩu, quy chuẩn kỹ
thuật môi trường,…
21
Nguyễn Văn Phương, tlđd (12), tr.19.
22
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại 2005, hàng hoá là tất cả các loại động sản, kể
cả động sản hình thành trong tương lai hoặc những vật gắn liền với đất đai. Do đó, phế liệu là một động sản
và nó cũng là một loại hàng hoá trong hoạt động mua bán hàng hoá.
23
Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật Quản lý ngoại thương 2017, khu vực hải quan riêng là khu
vực địa lý xác định trên lãnh thổ Việt Nam được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên, có quan hệ mua bán, trao đổi hàng hoá với phần lãnh thổ cịn lại và nước
ngồi là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu.

10



ngoài hoăc từ các khu vực hải quan riêng nằm trên lãnh thổ Việt Nam với mục đích
làm nguyên liệu cho sản xuất.
1.2.2 Thực trạng của hoạt động nhập khẩu phế liệu
Thế giới tạo ra khoảng 02 tỷ tấn chất thải hằng năm24 và ước tính cho thấy
rằng khoảng một phần mười lượng chất thải này được đưa vào hoạt động bn bán
rác thải trên tồn cầu25. Mặc dù một số lượng lớn phế liệu được tái chế sẽ đẩy
ngành công nghiệp của các nước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là các nước đang phát
triển nhưng hiện nay có một số lượng lớn rác thải độc hại được đưa vào dây chuyền
xuất nhập bất hợp pháp dưới lớp vỏ bọc là phế liệu. Hành trình của những chất thải
độc hại đó đến cuối cùng sẽ bị đốt cháy hoặc được xử lý bằng các hoá chất độc hại
khác càng gây ONMT.
1.2.2.1 Thực trạng nhập khẩu phế liệu của một số quốc gia trên thế giới
Như đã trình bày ở Mục 1.1.1, trong một số văn bản pháp luật quốc tế không
đưa ra những phân biệt về “chất thải” và “phế liệu” như pháp luật môi trường nước
ta mà những văn bản này điều chỉnh tất cả các hoạt động nhập khẩu chất thải, trong
đó có NKPL. Vì thế, trong phần này sẽ có một số điểm tác giả sẽ phân tích về thực
trạng nhập khẩu chất thải nói chung.
a) Tại Trung Quốc
NKPL từ nước ngoài của Trung Quốc đã bắt đầu từ những năm 1980. Lúc đó,
việc thiếu nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp cùng với việc nguồn chi phí cao đã
làm rào cản cho sự phát triển. Vì thế, để đáp ứng nguồn nguyên liệu cho ngành cơng
nghiệp thì NKPL là một giải pháp hồn hảo nhất cho Trung Quốc vào thời điểm bấy
giờ. Trong vòng 20 năm, từ năm 1995 đến năm 2016, nhập khẩu chất thải hằng năm
26

của Trung Quốc tăng gấp 10 lần, chỉ từ 4,5 triệu tấn/năm lên đến 46 triệu tấn/năm .
Đỉnh điểm vào năm 2012, Trung Quốc đã nhập khẩu hơn 09 triệu tấn phế liệu từ khắp
27


các quốc gia trên thế giới . Đứng trước tình trạng đáng báo động về việc ngày càng
gia tăng rác thải nhập khẩu vào quốc gia dưới hình thức phế liệu khơng nguy hại để tái
chế, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành “Chiến dịch hàng rào xanh (Operation Green
Fence)”, thực thi kéo dài từ tháng 02 năm 2013 đến tháng 11 năm 2013 với mục tiêu
ngăn chặn việc buôn bán CTNH bất hợp pháp, cùng với đó tăng chất lượng
24
The World Counts.
25
Derek Kellenberg (2015), “The Economics of the International Trade of Watse”, Journal of
Annual Review of Resource Economics, 7(1)/2015, p.110.
26“China tries to keep foreign rubbish out”, truy cập ngày 24/4/2021.
27
Costas Velis (2014), Global recycling markets - plastic waste: a story for one player – China,
Vinne, p.3-4

11


chất thải nhập khẩu thông qua việc kiểm tra chặt chẽ hơn. Tác động của chiến dịch
này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.
Trung Quốc nhập khẩu 13,48 triệu tấn chất thải rắn trong năm 2019, giảm so
với 22,63 triệu tấn của năm 2018. Và lượng nhập khẩu chất thải rắn trong 10 tháng
đầu năm 2020 của Trung Quốc đã giảm đến 42,7% so với cùng kỳ năm 201928.
Trong nỗ lực thực hiện việc sửa đổi “Luật phòng chống và kiểm soát chất thải
rắn gây ONMT” về quản lý nhập khẩu chất thải rắn có hiệu lực ngày 01/9/2020,
Chính phủ Trung Quốc đã thơng báo lệnh cấm hồn tồn nhập khẩu chất thải rắn từ
ngày 01/01/2021. Một trong những sửa đổi đó là “Khơng được phép nhập khẩu chất
thải rắn dưới bất kỳ hình thức nào. Khơng được phép đổ, chất đống và thải bỏ chất
thải rắn từ bên ngoài vào Trung Quốc”29.
Trung Quốc là điểm đến cuối cùng quan trọng nhất của phế liệu trong gần nửa

thế kỷ qua, những chính sách hạn chế nhập khẩu chất thải đi đến cấm tuyệt đối nhập
khẩu chất thải của Trung Quốc đã phản ánh cam kết của chính quyền Trung Quốc
trong việc thúc đẩy tái chế nhiều hơn lượng phế liệu trong nước, giảm sự phụ thuộc
vào phế liệu nhập khẩu từ nước ngoài.
b) Tại Malaysia
Malaysia nổi lên là nhà NKPL số một kể từ khi Trung Quốc rút khỏi “đường
đua”. Phế liệu nhựa nhập khẩu vào Malaysia đã tăng gấp 05 lần lên khoảng 110.000
tấn mỗi tháng vào đầu năm 2018 sau lệnh cấm của Trung Quốc30.
Năm 2019, Malaysia đã trả lại 4.120 tấn chất thải nhựa cho 13 quốc gia và dự
kiến sẽ trả lại nhiều hơn trong những tháng tới. Tháng 8 năm 2019, một quan chức
cấp cao của Bộ Mơi trường Malaysia cho biết, Chính phủ Malaysia đã gửi trả lại ít
nhất 10 container phế liệu nhựa cho các quốc gia khác nhau và đóng cửa 155 nhà
máy xử lý bất hợp pháp31. Đây là những container nhập khẩu bất hợp pháp, khơng
có giấy phép vào nước này.

28“China to End All Watse Imports on Jan 1”, truy cập ngày 25/4/2021.

29
Điều 24, Điều 25 Đạo Luật Luật Phịng chống và Kiểm sốt Ơ nhiễm Mơi trường do Chất thải Rắn của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sửa đổi bổ sung năm 2015.
30
Greenpeace (2019), Data from the global plastics watse trade 2016-2018 and the offshore impact of
China’s foreign waste import ban, East Asia, p.7.
31
Thảo Lê, “Việt Nam tìm cách xuất trả phế liệu như Malaysia, Philippines” ,

truy cập ngày 26/4/2021.

12



Gần đây nhất, vào tháng 3 năm 2021, Bộ trưởng Bộ Môi trường Malaysia cho
biết, quốc gia này sẽ cấm vận chuyển rác thải từ Los Angeles, California vào ngày
14 tháng 3 năm 2021.
c) Tại Philippines
NKPL tại Philippines tăng gần 03 lần lên 11.900 tấn từ năm 2016 đến năm
2018, số liệu chính thức từ trang tin tức Rappler của Philippines. Tuy nhiên, theo
ông Guerrero32, đây chỉ là “phần nổi của tảng băng trơi”, con số thực có thể cao hơn
những gì đã cơng bố. Vào đầu năm 2019, Philippines đã gửi trả tại Hàn Quốc 51
container chứa phế liệu và chính quyền Seoul cũng đã đồng ý chi 47.000 USD chi
phí vận chuyển đến cảng Pyeongteake, Hàn Quốc33.
Tháng 4/2019, Philippines và Canada đã có cuộc tranh cãi kéo dài giữa hai
nước về xuất khẩu rác thải. Tổng thống Philippines - ông Duterte quyết liệt đưa ra
tối hậu thư cho chính phủ Canada. Thậm chí, ơng đe dọa sẽ cho đổ số rác trước đại
sứ quán Canada ở Manila, hoặc đem số rác tới đổ ở hải phận Canada nếu nước này
không nhận lại.
Trước thực trạng trên, các quốc gia trên thế giới đã bắt đầu hành động và lần
lượt hạn chế NKPL để BVMT quốc gia, sức khoẻ cộng đồng và đẩy mạnh tái chế
phế liệu trong nước. Nếu các quốc gia khơng có những hành động đề ra biện pháp
tương thích thì khơng những khơng bảo vệ được cho chính đất nước họ mà cịn gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến mơi trường tồn cầu vì mơi trường là một thể thống
nhất, khơng có ranh giới phân chia.
1.2.2.2 Thực trạng nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam
Việt Nam là một trong những quốc gia NKPL hàng đầu Đông Nam Á. Và theo
thời gian, tổng lượng phế liệu nhập khẩu nước ta ngày một tăng lên.
NKPL ở các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam đã tăng đáng kể khi
Chính phủ Trung Quốc cấm nhập khẩu một số loại chất thải rắn kể từ đầu năm 2018.
Năm 2018, Việt Nam đứng thứ 03 Đông Nam Á về NKPL nhựa, chỉ sau Thái Lan và
Malaysia34. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, vào năm 2017, tổng lượng phế


32
Lea Guerreo – Giám đốc Tổ chức Hồ bình xanh Philippines.
33“Philippines Returns Tons of Trash to South Korea”, truy cập ngày 25/4/2021.
34 Nguyen Quy, “Viet Nam plastic waste problem goes from bad to worse”,
/>truy cập ngày 26/4/2021.

13


liệu nhập khẩu vào Việt Nam ước tính hơn 6,5 triệu tấn, tăng hơn 1,8 triệu tấn so
với năm 2016.
Tổng lượng phế liệu mà Việt Nam nhập khẩu năm 2018 là 9.254.300 tấn phế
liệu, tăng hơn 1.308.100 tấn so năm 2017 (7.946.200 tấn) 35. Với việc NKPL tăng
đột biến như vậy thì lượng phế liệu tồn đọng ở các cảng cũng có sự chuyển biến. Sự
tồn đọng này một phần vì dịng chảy phế liệu trên tồn cầu có sự thay đổi bởi chính
sách cấm nhập khẩu của Trung Quốc, mặt khác cịn vì cơng tác quản lý yếu kém
kéo dài nhiều năm mặc dù các phương tiện truyền thông đã lên tiếng cảnh báo về
tình trạng tồn đọng từ lâu. Bên cạnh đó, là việc thiếu ý thức, thiếu trách nhiệm
BVMT của các chủ thể NKPL làm NLSX.
Nếu đầu năm 2019, số lượng container lưu giữ tại cảng biển khoảng gần 24.000
container thì đến tháng 12/2019, số lượng container tồn đọng tại cảng biển khai báo là
phế liệu và hàng đã qua sử dụng nhập khẩu còn chưa tới 10.000 container (giảm hơn
36

50%) . Trong đó tập trung chủ yếu tại khu vực cảng Hải Phòng (khoảng 1223
container nhựa phế liệu, 93 container giấy phế liệu, 2.360 container hàng đã qua sử
dụng) và khu vực cảng Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 2.300 container phế liệu.

Báo cáo của Tổng cục Hải quan trong năm 2020, lượng phế liệu sắt, thép nhập
về Việt Nam đạt 6,3 triệu tấn, tăng 11,4% so với năm 2019. Phế liệu sắt thép có

nguồn gốc xuất xứ từ 02 thị trường chính là Nhật Bản và Hoa Kỳ, chiếm tỷ trọng tới
70%. Năm 2019, Việt Nam nhập hơn 5,6 triệu tấn phế liệu sắt thép từ các nước,
trong đó, từ Nhật Bản khoảng 2,2 triệu tấn. Như vậy, sau chỉ 01 năm, lượng phế liệu
sắt thép từ Nhật vào Việt Nam đã tăng 1,1 triệu tấn. Phế liệu sắt, thép nhập khẩu vào
nước ta phục vụ cho tái chế. Nhiều doanh nghiệp sử dụng các loại sắt thép phế liệu
cho công đoạn nung, luyện phôi gang để tạo sản phẩm mới.
Trong đầu năm 2021, có khoảng 1.382 container phế liệu nhập khẩu khơng đạt
tiêu chuẩn nằm ở cảng Cát Lái buộc phải tái xuất, nhưng chỉ mới 140 container được
37

các hãng tàu tái xuất . Đây là những container chứa phế liệu chủ yếu là nhựa; bao bì
các loại chưa băm, cắt, cịn lẫn tạp chất; thậm chí cả rác thải;... có mùi hơi thối, tồn
đọng nhưng chủ hàng không đến nhận. Đến đầu tháng 4/2021, đã có 06/30 hãng tàu
đồng ý tái xuất hàng phế liệu tồn đọng và có 02 hãng tàu khác cũng đang tiến hành

35

Vĩnh Khang, “Nguy cơ phế liệu tràn vào thị trường trong nước”, truy cập ngày 26/4/2021.
36
Lam Nghi, “Chỉ còn 3423 container phế liệu tồn đọng tại cảng”, truy cập ngày 26/4/2021.
37
“Tái xuất phế liệu ra khỏi Việt Nam: Vướng do đâu?”, truy cập ngày 26/4/2021.

14


thủ tục tái xuất thêm 13 container phế liệu không đủ điều kiện nhập khẩu 38. Các
hãng tàu viện lý do họ hồn tồn khơng có lỗi, chủ sở hữu lơ hàng là chủ thể đã
nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam nên chủ hàng phải là bên có hành vi vi phạm nếu
có. Và họ cũng cho rằng họ chỉ là nạn nhân, đang phải gánh chịu những thiệt hại từ

hành vi nhập khẩu trái pháp luật của người khác. Theo kế hoạch, việc tái xuất các
container chứa rác thải này sẽ hoàn thành vào tháng 6/202139.
Đất nước ta vẫn cịn đang trong q trình phát triển, đẩy mạnh sản xuất, để đáp
ứng cho nhu cầu sử dụng nguyên liệu trong sản xuất cơng nghiệp thì hoạt động NKPL

ở nước ta vẫn đang diễn ra sôi nổi, các mặt hàng phế liệu nhập khẩu cũng tương đối
phong phú. Vì vậy, cần có sự quản lý của nhà nước và sự điều chỉnh của hệ thống
pháp luật một cách chặt chẽ, thống nhất sẽ giúp kiểm soát được hoạt động NKPL ở
nước ta vừa đảm bảo phát triển kinh tế bền vững vừa BVMT, sức khoẻ cộng đồng.
1.2.3 Tác động của hoạt động nhập khẩu phế liệu đến nền kinh tế và mơi
trường
1.2.3.1 Tác động tích cực
a) Phát triển nền kinh tế tuần hoàn, tăng tỷ lệ tái chế toàn cầu
Lợi ích mang tầm vĩ mơ mà hoạt động NKPL mang lại đó là sự phát triển của nền
kinh tế tuần hoàn, tăng tỷ lệ tái chế toàn cầu. Đây là một mơ hình ưu việt, loại bỏ việc
40

tạo ra chất thải đi đến mục tiêu phát triển kinh tế bền vững đi đôi với BVMT . Thương
mại quốc tế phát triển, thơng qua nền kinh tế tuần hồn mở rộng được chuỗi giá trị toàn
cầu, việc mua bán phế liệu có thể tái chế cũng ngày càng dễ dàng hơn.

Đối với các doanh nghiệp, vận dụng những lợi ích của nền kinh tế tuần hồn
có thể giảm được khủng hoảng thừa sản phẩm, khan hiếm tài nguyên, tạo động lực
nâng cao trình độ khoa học cơng nghệ,…
Khơng phải quốc gia nào đều có khả năng xử lý phế liệu, hoặc có những nơi
lượng phế liệu quá lớn việc xử lý có nguy cơ tàn phá mơi trường cao. Với một quy
trình vận hành mang tính xun quốc gia như vậy, tỷ lệ tái chế của toàn cầu ngày càng
tăng, giảm thiểu tương đối lượng rác thải ra bên ngoài môi trường và lượng phế

38Đăng Khôi, “Hải quan Việt Nam tái xuất gần 1400 container phế liệu nhập khẩu không đạt tiêu chuẩn”,

truy cập ngày 26/4/2021.
39Đăng Khôi, tlđd (38).

40Lý Hồng Phú và Phạm Thuỳ Dung (2019), “Chính sách nhập khẩu hướng tới nền kinh tế tuần hoàn tại Trung
Quốc và một số khuyến nghị cho Việt Nam”, Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 129(6)/2020, tr.69.

15


liệu được phân bố đồng đều trên thế giới. Vật liệu, sản phẩm sau khi sử dụng sẽ
được tận dụng để phục hồi và tái tạo với chính sách quản lý phù hợp.
b) Giảm giá thành sản phẩm đầu ra
Nhu cầu sử dụng nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất nước ta ngày càng
tăng cùng với đó là giá nguyên liệu chính phẩm lại cũng leo thang. Vì vậy sử dụng
phế liệu nhập khẩu làm NLSX là một giải pháp thích hợp.
Hoạt động phân loại phế liệu tại nguồn ở nước ta không tốt dẫn đến phế liệu
thu mua vào bị trộn lẫn rất nhiều tạp chất, thậm chí là CTNH. Trong khi đó, đối với
hoạt động NKPL pháp luật quy định chỉ được NKPL khi đã được phân loại tại
nguồn. Lúc này các doanh nghiệp nhập khẩu không phải dành một khoảng chi phí,
thời gian để phân loại, xử lý lại các mặt hàng phế liệu.
Khi sử dụng phế liệu nhập khẩu, nhà sản xuất sẽ được khấu trừ thuế giá trị gia
tăng đầu vào hiệu quả hơn so với thu mua phế liệu trong nước. Như đã trình bày,
phế liệu nước ta được bắt nguồn từ hoạt động thu gom đơn sơ, nhỏ lẻ vì thế sẽ
khơng có hố đơn, chứng từ và khi đó sẽ khơng được khấu trừ thuế giá trị gia tăng
đầu vào. Bên cạnh đó, sử dụng phế liệu nhập khẩu cịn góp phần giảm đáng kể chi
phí cho việc khai thác, chế biến như: chi phí mua máy móc, thiết bị; chi phí th
nhân cơng; thuế tài ngun; chi phí BVMT; chi phí vận chuyển;...
Điều này mang lại cả lợi ích cho doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng. Doanh
nghiệp vẫn đảm bảo lợi nhuận, khả năng cạnh tranh thương mại mà người tiêu dùng
vẫn có thể sở hữu những sản phẩm chất lượng nhưng giá thành lại hợp lý.

c) Phát triển nền công nghiệp tái chế, thu hút đầu tư nước ngoài
Ngành tái chế phế liệu khơng chỉ đem lại những lợi ích to lớn về kinh tế mà nó
cịn có ý nghĩa trong việc BVMT. Ngành tái chế phát triển sẽ là nguồn cung cấp
nguyên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất khác như giấy, nhựa, thủy tinh, kim
loại,… Với nhu cầu như vậy, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau phế liệu
trong nước không đủ số lượng để đáp ứng nên phải NKPL.
Đối mặt với thực tiễn là Trung Quốc cấm nhập khẩu chất thải, các nhà máy tái
chế phế liệu tại Trung Quốc đang có xu hướng chuyển sang các nước lân cận. Việt
Nam là một quốc gia có số lượng lao động đơng đảo cùng với chi phí thấp nên đây
là sẽ là một nơi lí tưởng để các quốc gia đầu tư cho ngành công nghiệp này.
Khi ngành công nghiệp tái chế phát triển dẫn đến sự gia tăng việc làm tại nước ta.
Tái chế sẽ tạo ra nhiều việc làm hơn thay vì xử lý chúng như rác thải bỏ đi. Cứ đổ
10.000 tấn chất thải vào bãi rác tạo ra 06 việc làm trong khi tái chế 10.000 tấn chất
16


thải tạo ra 36 việc làm. Theo một nghiên cứu, tỷ lệ tái chế tại Mỹ sẽ tăng lên 75%
vào năm 2030 và tạo ra 1,1 triệu việc làm mới41.
d) Tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường
Tận dụng nguồn phế liệu để tái chế dù là phế liệu nội địa hay phế liệu nhập
khẩu đều là cơ sở để bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên một các hiệu quả, giảm
khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng như giảm thiểu tình trạng chặt phá rừng, bảo
vệ các loài động vật hoang dã. Đặc biệt trong thời đại này, khi mà tài nguyên thiên
nhiên đang dần cạn kiệt, nạn chặt phá rừng, cháy rừng diễn ra ngày càng nhiều và
nhanh chóng xố sổ các khu rừng trên hành tinh xanh. Cùng với đó, hàng tấn chất
thải được thải ra mỗi ngày ở khắp mọi nơi trên thế giới thì tầm quan trọng của việc
tái chế phế liệu càng được nâng cao. Tái chế làm giảm lượng phế liệu cần xử lý,
giảm áp lực với lượng nguyên liệu nguyên sinh, giảm sự tiêu thụ năng lượng và
nước cũng như giảm phát thải các loại khí và hố chất độc hại trong quá trình sản
xuất gây ONMT42. Bên cạnh đó, sử dụng phế liệu làm NLSX cịn góp phần tiết

kiệm đáng kể nguồn tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo, đặc biệt là dầu mỏ.
Sử dụng phế liệu để làm nguyên liệu trong quá trình sản xuất sẽ giảm được diện
tích sử dụng bãi rác để làm giảm q trình tạo ra lượng khí metan góp phần giảm phát
thải khí nhà kính, giúp đối phó biến đổi khí hậu. Theo Giám đốc điều hành Harald
Friedl của Tổ chức Circular Economy, việc sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu từ rác
thải có thể hỗ trợ hiện thực hố mục tiêu then chốt trong Hiệp định Paris về chống biến
đổi khí hậu là giữ mức tăng nhiệt độ tồn cầu không quá 02 độ C.

Dân số ngày càng tăng, không có dấu hiệu sẽ suy giảm và sự phong phú về vật
chất, hàng hoá tiêu dùng làm cho nguồn tài ngun thiên sẽ có đến lúc cạn kiệt. Vì
vậy, muốn tiết kiệm tài nguyên, năng lượng và BVMT cần biết tận dụng nguồn phế
liệu mà chúng ta đang có.
1.2.3.2 Tác động tiêu cực
a) Gây ô nhiễm môi trường
NKPL và sử dụng chúng trong quá trình sản xuất sẽ tránh phát sinh được một
lượng lớn chất thải ra môi trường thay vì sản xuất từ những ngun liệu thơ. Tuy
41
James Goldstein and Christi Electris (2007), More Jobs, Less Pollution: Growing the Recycling
Economy in the US, U.S, p.3.
42
Theo Thống kê mà Công ty Giấy Sài Gòn cung cấp, để sản xuất ra 01 tấn bột giấy phải dùng đến
2,2 đến 2,4 tấn gỗ nhưng chỉ cần 1,4 tấn giấy phế liệu. Như vậy cùng để sản xuất 01 tấn bột giấy nhưng tận
dụng giấy phế liệu sẽ tiết kiệm được 24 cây rừng tự nhiên, tiết kiệm được lượng oxi đủ cho 12 người thở và
lượng điện đủ dùng cho một căn nhà với 03 phòng ngủ trong vòng 01 năm, 40.000 lít nước, 600 lít dầu thơ và
giảm đến 95% lượng khí thải gây ơ nhiễm mơi trường khi sản xuất bột giấy từ gỗ.

17


nhiên, NKPL cũng tiềm ẩn nguy cơ gây ONMT rất cao. Tỷ lệ tái chế nhựa trung

bình trên tồn cầu chỉ là 15%, trong khi khoảng 40% (90 triệu tấn mỗi năm) được
quản lý sai và cuối cùng bị rò rỉ ra môi trường43.
Mặc dù, theo quy định của nước ta chỉ được NKPL đảm bảo QCKTQG về môi
trường và thuộc danh mục phế liệu được phép nhập khẩu. Tuy nhiên, không thể
không tồn tại những trường hợp phế liệu nhập khẩu lẫn tạp chất nguy hại, không thể
tái sử dụng, khó phân hủy gây tác động xấu đến mơi trường. Những phế liệu đó để
sử dụng được thì phải có những khâu xử lý loại bỏ tạp chất. Thậm chí có những tạp
chất nguy hại chứa hàm lượng cao phải sử dụng đến những hoá chất độc hại như
axit mạnh để loại bỏ chúng (tách vàng, bạc, kim loại quý ra khỏi phế liệu thiết bị,
linh kiện điện tử nhập lậu). Và khi đấy, không những môi trường bị tác động mà sức
khoẻ của con người cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Những lô hàng phế liệu nhập khẩu không đáp ứng được điều kiện sẽ tồn đọng
ở các cảng biển hàng tháng, thậm chí là hàng năm liền mà không được thông quan hay
tái xuất về nước xuất khẩu. Chúng khơng khác gì là những thùng rác thải, lâu ngày
chúng sẽ bốc mùi, phân hủy thành những chất độc hại gây ONMT. Việc xử lý các lô
hàng phế liệu khơng được thơng quan khơng hề dễ dàng, chi phí xử lý cao, có những
trường hợp nước ta khơng đủ công nghệ để xử lý chúng. Nếu hoạt động NKPL không
được quản lý tốt nguy cơ sẽ biến Việt Nam thành “bãi rác” của thế giới.

b) Tồn đọng phế liệu nội địa
Nhập khẩu phế liệu kéo theo hệ luỵ là lượng phế liệu của nước ta tồn đọng, bị
“lãng quên” để nhường chỗ cho phế liệu nhập khẩu. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khác nhau mà các doanh nghiệp chọn hình thức này thay vì dùng phế liệu trong nước.

Theo ông Phan Minh Nghĩa, Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tập đồn
Tân Mai, ngành phế liệu hiện khơng đáp ứng đủ nhu cầu cho các nhà máy tái chế
giấy trong nước, nguyên nhân là do việc thu mua phế liệu mang tính tự phát từ các
vựa ve chai. Việt Nam chưa hình thành ngành thu gom các loại phế liệu một cách
chuyên nghiệp như các nước44.
Trong thời gian qua, ngành công nghiệp sản xuất giấy nước ta vẫn phải lệ thuộc

vào nguồn bột giấy nhập khẩu quá nhiều. Cùng với đó, nguyên liệu từ giấy thu hồi có
vai trị rất quan trọng trong sản xuất giấy bao bì: Năm 2018 nhu cầu sử dụng là

43
Arne M Ragossnig and Agamuthu P (2021), “Plastic waste: Challenges and opportunities”, Journal of
Waste Management and Research, 5(39)/2021, p.629.
44 “Nguồn tài nguyên từ … rác thải” , />
từ…-rác-thải--16136 , truy cập ngày 30/4/2021.

18


3,71 triệu tấn, năm 2019 là 4,5 triệu tấn và đến năm 2030 khoảng 11 triệu tấn. Tuy
nhiên, tỷ lệ thu gom trong nước chỉ đạt khoảng 40%, còn lại 60% phải nhập khẩu45.
Việt Nam trước hết cần tận dụng lượng phế liệu có sẵn trong nước, đề ra
những cơ chế để các doanh nghiệp sản xuất có nhu cầu sử dụng phế liệu sắt, giấy,
nhựa,… phải có trách nhiệm BVMT thông qua việc tái thu mua và tái chế nguồn
phế liệu nội địa, giảm đi sự lệ thuộc vào NKPL.
c) Xuất hiện những hành vi vi phạm pháp luật
Chúng ta khơng thể phủ nhận được những lợi ích kinh tế to lớn mà phế liệu
đem lại. Vì thế, các doanh nghiệp Việt Nam xem phế liệu như “thứ hái ra tiền” 46
nên sẵn sàng thu mua, NKPL về để tái chế mà không ngại thực hiện những hành vi
vi phạm pháp luật. Khơng những thế họ cịn đưa phế liệu lẫn chứa những tạp chất
nguy hại, khó phân hủy, khơng có giá trị tái chế và thậm chí là chất thải vào lãnh thổ
nước ta mà không ý thức được việc BVMT, sức khoẻ con người.
Tình trạng doanh nghiệp khơng có giấy phép, hay có giấy phép nhưng đã hết
hạn, làm giả giấy phép hay lợi dụng những lỗ hổng pháp luật, cố tình “lách luật” để
có thể NKPL diễn ra ngày một nhiều. Ngồi ra, cũng có khơng ít doanh nghiệp
không đủ điều kiện nhập khẩu đã dùng “chiêu trò” bằng cách chuyển tên người
nhận cho những chủ thể có điều kiện nhập khẩu. Tuy nhiên, trong những trường hợp

này khi lô hàng phế liệu nhập về không đủ điều kiện của phế liệu nhập khẩu làm
NLSX chẳng may bị phát hiện khi làm thủ tục thông quan thì họ lại chối bỏ trách
nhiệm, chủ sở hữu thật sự của lô hàng sẵn sàng từ bỏ những thùng phế liệu đó tại
các cảng tàu. Điều này khiến cho cơ quan chức năng khó có thể mà xử lý được.
Bên cạnh đó, việc quyết định các lơ hàng phế liệu trái pháp luật có được thơng
quan hay khơng nằm ở Cơ quan Hải quan (CQHQ). Và vẫn còn đâu đó những cán bộ vì
vụ lợi mà có những hành vi “mờ ám” thông đồng với chủ hàng không đủ điều kiện
nhập khẩu hay đưa những lô phế liệu không đáp tiêu chuẩn vào nước ta một cách
quang minh chính đại. Do đó, song song với những chính sách phù hợp của Nhà nước
kiểm soát chặt chẽ hoạt động NKPL thì các chủ thể có thẩm quyền cần chủ động tuân
thủ pháp luật thì mới đem lại hiệu quả cao trong việc quản lý phế liệu nhập khẩu.

45
“Tác động từ dịch Covid19: Doanh nghiệp ngành giấy nỗ lực tự cứu chính mình”,
truy cập ngày 30/4/2021.
46
Vân Trường, “Rác thế giới đổ về Việt Nam: Lợi nhuận cực lớn”, truy cập ngày 30/4/2021.

19


×