Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Cuộc thi “tìm hiểu lịch sử và truyền thống cách mạng của nhân dân thanh hóa” năm 2022 bài số 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.48 KB, 18 trang )

BÀI LÀM
Cuộc thi “Tìm hiểu lịch sử và truyền thống cách mạng
của nhân dân Thanh Hóa” năm 2022
Câu 1. (20 điểm): Hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa cử Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh gồm 03 đồng chí là những ai? Em hãy nêu những hiểu biết của mình về
đồng chí Bí thư đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Thanh Hố.
Ngày 29-7-1930, đồng chí Nguyễn Dỗn Chấp đã triệu tập 11 đại biểu của các
Chi bộ Hàm Hạ, Thiệu Hóa, Thọ Xuân tiến hành hội nghị tại nhà đồng chí Lê Văn
Sỹ, làng Yên Trường (xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân) quyết định thành lập Đảng bộ
Thanh Hóa. Hội nghị cử Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 3 đồng chí: Lê Thế
Long, Vương Xuân Cát, Lê Văn Sỹ và cử đồng chí Lê Thế Long làm bí thư. Hội
nghị đã thảo luận và quyết định nhiều chủ trương đối với phong trào cách mạng trong
tỉnh.

Đồng chí Lê Thế Long (1893 – 1936), sinh ra trong một gia đình nhà nho với nhiều
đời làm nghề dạy học, tại làng Hàm Hạ, tổng Kim Khê (nay là thị trấn Rừng Thơng,
huyện Đơng Sơn). Đây là một làng có phong trào cách mạng rất sớm ở Thanh Hóa.
Từ nhỏ, Lê Thế Long tỏ ra rất sáng dạ nên được ông và cha dạy dỗ học hành tấn tới.
1


Năm 1918, ông dự kỳ thi hương cuối cùng của khoa cử phong kiến, sau đó theo học
trường Pháp - Việt và đậu tiểu học.
Những năm đi học, Lê Thế Long có điều kiện tìm hiểu sách báo bí mật và những
thông tin về các nhà yêu nước Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, đặc biệt là luồng gió
mới Cách mạng Tháng Mười Nga. Sau đó ơng về q tìm sách báo tài liệu tự học để
nâng cao trình độ, đi dạy chữ nho và âm thầm tìm kiếm con đường cứu nước đúng
đắn.
Ngày 3-2-1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc), Đảng Cộng sản Việt Nam được thành
lập, đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Tháng 4-1930, đồng chí
Nguyễn Dỗn Chấp, một đảng viên cộng sản quê xã Hoằng Giang, huyện Hoằng


Hóa, được Xứ ủy Bắc kỳ cử về Thanh Hóa, chuẩn bị cho việc thành lập tổ chức đảng.

Ngày 18-6-1930, đồng chí Nguyễn Dỗn Chấp về làng Hàm Hạ bắt liên lạc, tuyên
truyền, giác ngộ và kết nạp được 3 đồng chí vào Đảng Cộng sản Việt Nam là Lê Bá
Tùng, Lê Oanh Kiều, Lê Thế Long. Ngày 25-6-1930, dưới sự chủ trì của đồng chí
2


Nguyễn Doãn Chấp, hội nghị thành lập Chi bộ Hàm Hạ, chi bộ Đảng Cộng sản đầu
tiên của Thanh Hóa, đã được tiến hành tại nhà đồng chí Lê Oanh Kiều. Hội nghị
thống nhất bầu đồng chí Lê Thế Long làm Bí thư chi bộ. Ngay sau khi thành lập Chi
bộ Hàm Hạ, đồng chí Lê Thế Long cùng với những đồng chí của mình giương cao
ngọn cờ cách mạng, phát triển phong trào đấu tranh trong Nhân dân.
Sự ra đời của Chi bộ Hàm Hạ (Đơng Sơn) đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự ra đời
của Chi bộ Thiệu Hóa ngày 10-7-1930, đồng chí Vương Xn Cát làm Bí thư; Chi bộ
Thọ Xuân thành lập ngày 22-7-1930, đồng chí Lê Văn Sỹ được cử làm Bí thư. Ba chi
bộ cộng sản đầu tiên ra đời đã tạo tiền đề để thành lập Đảng bộ Thanh Hóa. Ngày
29-7-1930, tại nhà đồng chí Lê Văn Sỹ (làng Yên Trường, xã Thọ Lập, huyện Thọ
Xuân), hội nghị thành lập Đảng bộ Thanh Hóa được tổ chức, bầu Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh gồm 3 đồng chí, do đồng chí Lê Thế Long làm Bí thư. Đảng bộ Thanh
Hóa ra đời là sự kiện trọng đại, phong trào yêu nước cách mạng trong tỉnh từ đây
bước sang thời kỳ Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối.
Giữa lúc các tổ chức đảng, các tổ chức quần chúng và phong trào đấu tranh của Nhân
dân toàn tỉnh đang trên đà phát triển thì Xứ ủy Bắc kỳ bị địch khủng bố. Ngày 21 và
22-12-1930, binh lính kéo về lùng sục, truy bắt đảng viên trong tỉnh. Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh và đồng chí Lê Thế Long đã bị sa vào tay địch. Cuối năm 1935, đồng
chí Lê Thế Long cùng các đồng chí Lê Chủ, Trịnh Huy Quang, Bùi Đạt... được trả tự
do và tiếp tục hoạt động. Tháng 3-1936, nhận nhiệm vụ phân cơng của Đảng bộ, đồng
chí Lê Thế Long đã tổ chức dạy chữ Quốc ngữ để tuyên truyền tinh thần yêu nước,
giác ngộ cách mạng cho Nhân dân địa phương.

Đang say sưa với nhiệm vụ cách mạng thì đồng chí Lê Thế Long ngã bệnh hiểm
nghèo, do ảnh hưởng của những năm tháng hoạt động gian khó, bị địch bắt tù đày, tra
khảo khiến sức lực suy kiệt. Ngày 17 tháng 11 năm Bính Tý (tức 30-12-1936), đồng
chí Lê Thế Long đã vĩnh viễn ra đi ở tuổi 43, độ tuổi chín muồi về lý tưởng cuộc đời.
Đảng bộ và Nhân dân Thanh Hóa mãi mãi ghi ơn người cộng sản kiên trung, Bí thư
chi bộ đầu tiên ở Thanh Hóa và cũng là Bí thư Đảng bộ tỉnh đầu tiên, một trong
những bậc tiền bối đã có cơng gây dựng nền móng của Đảng Cộng sản trên quê
hương Thanh Hóa.
Câu 2. (20 điểm): Những địa danh sau: Hang Treo, Chiến khu Ngọc Trạo (thuộc
huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hố) có liên quan đến sự kiện lịch sử quan trọng
nào trong phong trào phản đế cứu quốc của tỉnh Thanh Hố? Nêu tóm tắt nội dung
và ý nghĩa của sự kiện đó?
Cách đây 81 năm, ngày 19-9-1941, tại Hang Treo, đội du kích của chiến khu gồm 21
chiến sĩ, do đồng chí Đặng Châu Tuệ chỉ huy, được thành lập. Đây là đơn vị vũ trang
tập trung đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa. Sự ra đời và hoạt động của Đội du
kích Chiến khu Ngọc Trạo là đỉnh cao của phong trào khởi nghĩa vũ trang ở Bắc
Trung bộ, là tiền thân của lực lượng vũ trang Thanh Hố sau này. Những chiến tích
hào hùng và sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ du kích Ngọc Trạo là dấu son đậm
nét, tơ thắm truyền thống bất khuất, kiên cường của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc
huyện Thạch Thành nói riêng, tỉnh Thanh Hóa nói chung.

3


Ngọc Trạo là một bản nhỏ của dân tộc Mường (vào thời kỳ 1940 - 1941) chỉ có 43 hộ
với số dân là 215 người) ở về phía Tây Bắc tỉnh Thanh Hoá. Là vùng rừng núi, cách
xa tỉnh lị, nhưng lại tiếp giáp với nhiều huyện như Vĩnh Lộc, Hà Trung, Ninh Bình
v.v... Cho nên, từ đây có thể nhanh chóng liên lạc được với các vùng khác trong,
ngồi tỉnh. Hơn nữa, đây lại là nơi có truyền thống yêu nước và cách mạng kiên
cường. Từ năm 1886, đây là một vùng căn cứ của nghĩa quân Tống Duy Tân. Nhân

Ngọc Trạo đã tỏ rõ chí khí Cần Vương cứu nước. Đến thời kỳ có Đảng lãnh đạo,
Ngọc Trạo cũng là nơi sớm được truyền bá và giác ngộ lòng yêu nước và tư tưởng
của chủ nghĩa Mác Lê Nin, giai đoạn 1936 - 1939, nhân dân Ngọc Trạo đã hăng hái
tham gia các tổ chức quần chúng Cách mạng như “Hội tương tế ái hữu”; “Hội truyền
bá quốc ngữ”; “Hội đọc sách báo” v.v... Cuốn sách “Vấn đề dân cày” của Qua Ninh
và Vân Đình (tức đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp) đã được phổ biến sâu
rộng ở đây. Có thể nói, là vùng miền núi, nhưng phong trào đấu tranh dân chủ của
Ngọc Trạo rất tiêu biểu. Cuối năm 1939, khi phong trào dân chủ ở nhiều cơ sở cách
mạng và nhiều vùng trong tỉnh bị khủng bố thì một số cán bộ cách mạng đã rút về
đây để củng cố và duy trì phong trào.
Giữa năm 1940, khi Đảng bộ Thanh Hoá bắt được liên lạc với xứ uỷ Bắc Kỳ,
Trung Kỳ và được tiếp thu tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ 6
(Tháng11/1939), Tỉnh uỷ Thanh Hoá đã kịp thời chỉ đạo việc xây dựng các đoàn thể
phản đế cứu quốc ở Ngọc Trạo. Đầu năm 1941, các đoàn thể phản đế cứu quốc được
củng cố và phát triển đều khắp, trên cơ sở ấy mà lực lượng tự vệ cứu quốc được
thành lập. Đến tháng 7/1941, Ngọc Trạo đã có 38 hội viên cứu quốc và có 18 tuần
phu đã trở thành hội viên tự vệ cứu quốc. Từ cơ sở Ngọc Trạo, phong trào phản đế
cứu quốc ở huyện Thạch Thành đã phát triển lên một bước mới. Tháng 3 năm 1941,
mặt trận phản đế cứu quốc huyện Thạch Thành được thành lập và tổ chức được nhiều
cuộc đấu tranh có hiệu quả.
Giữa năm 1941, trong lúc phong trào ở các huyện Thiệu Hoá, Thọ Xuân đang bị kẻ
thù uy hiếp thì vùng Thạch Thành, Vĩnh Lộc vẫn cịn là nơi an toàn để tiếp tục phát

4


triển phong trào. Đặc biệt, cơ sở cách mạng ở Thạch Thành còn phát triển rộng ra đến
vùng Phố Cát, Sơn Để giáp Ninh Bình.
Phong trào cách mạng ở Ngọc Trạo và toàn huyện Thạch Thành lên mạnh. Điều kiện
thành lập một chiến khu đã chín mùi. Do đó, đến đầu tháng 6 năm 1941, Tỉnh uỷ

Thanh Hoá đã quyết định xây dựng chiến khu du kích đầu tiên tại vùng Ngọc Trạo.
Sau hội nghị đại biểu Đảng bộ Tỉnh tại làng Phong Cốc (xã Xuân Minh, Thiệu Hoá
cũ), đầu tháng 6/1941 Tỉnh uỷ Thanh Hoá đã chọn Ngọc Trạo của huyện Thạch
Thành làm điểm xây dựng chiến khu cách mạng của tỉnh nối liền các khu căn cứ Vĩnh
Lộc, Hà Trung, Yên Định... với xứ uỷ Bắc Kỳ. Từ đây, công tác xây dựng chiến khu
đã trở thành trọng tâm chỉ đạo của Tỉnh uỷ.
Ngày 10/7/1941, mười một đội viên du kích ở các nơi trong tỉnh đã được chọn
về Ngọc Trạo để làm công tác chuẩn bị cho ban lãnh đạo chiến khu và cơ quan ấn
loát về làm việc. Lực lượng đầu tiên này đã nhanh chóng thâm nhập vào quần chúng
và thông qua công tác quần chúng để nắm bắt tình hình thật cụ thể, đồng thời tích cực
tuyên truyền, giác ngộ tư tưởng cách mạng cho quần chúng để củng cố, phát triển các
đoàn thể cứu quốc, nhất là đội tự vệ cứu quốc.
Do việc thực hiện tốt phương châm cùng ăn, cùng ở, cùng làm, các chiến sĩ cách
mạng này đã hoà nhập và gắn bó được với quần chúng. Vì vậy mà tuyệt đại bộ phận
quần chúng Ngọc Trạo đã hăng hái, tích cực tham gia xây dựng chiến khu. Cuối
tháng 7/1941, ban lãnh đạo chiến khu chính thức được thành lập (gồm các đồng chí
Đặng Châu Tuệ - thường trực tỉnh uỷ phụ trách chung, đồng chí Trần Tiến Quân và
Đặng Văn Hỉ - tỉnh uỷ viên phụ trách an toàn khu). Cơ quan Ấn loát của Tỉnh uỷ
cũng được đưa về đây.
Chiến khu đã hình thành, mọi hoạt đồng đều đặt dưới sự chỉ huy chặt chẽ và thống
nhất của ban lãnh đạo chiến khu. Nhân dân Ngọc Trạo phấn khởi, đặt tất cả niềm tin
vào Đảng và cách mạng.
Phong trào Ngọc Trạo phát triển đều khắp. Toàn bộ hương chức của chính quyền thực
dân phong kiến ở Ngọc Trạo nói riêng và cả tổng Trạc Nhật nói chung được cảm hoá
đã ngả hẳn về lực lượng cách mạng. Nhờ vậy mà địa bàn chiến khu nhanh chóng
được mở rộng.
Ban lãnh đạo chiến khu đã chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng lực lượng chính trị kết hợp
với việc xây dựng lượng vũ trang cách mạng ra các vùng xung quanh Ngọc Trạo. Chỉ
trong một thời gian ngắn các làng Phan Long, Ban Long, Thạch Cừ, Dĩ Chế v.v... đều
có các đội tự vệ cứu quốc hoạt động. Toàn chiến khu đã khẩn trương bước vào học

tập chính trị và luyện tập quân sự một cách sôi nổi và nền nếp. Đội tự vệ Ngọc Trạo
đã lập 3 canh ở Mộ Ci (đầu làng), Ba Chạc (cuối làng) và xóm Đình (giữa làng).
Ba điểm này vừa là nơi canh gác, vừa là nơi liên lạc của cán bộ, chiến sĩ ra, vào chiến
khu. Đội tự vệ nam đảm nhận việc canh gác cẩn mật, cịn đội tự vệ nữ thì chăm lo
việc hậu cần. Nói chung, tồn thể nhân dân Ngọc Trạo đã nhiệt tình che chở, động
viên giúp đỡ cán bộ và chiến sĩ du kích như tình cá nước.
Đầu tháng 9/1941, Ban lãnh đạo quyết định cử một số cán bộ về các cơ sở cách mạng
trong tỉnh tuyển chọn thêm lực lượng du kích và vận động quần chúng quyên góp ủng
hộ chiến khu lương thực, thực phẩm và thuốc men. Trong thời gian ngắn, chiến khu
cũng đã nhận được sự chi viện tích cực của các địa phương trong tỉnh. Lực lượng tự
vệ của các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Định, Vĩnh Lộc v.v... cũng được tổ chức
thành đơn vị để chờ lệnh lên đường tới chiến khu. Mặt khác, Ban lãnh đạo còn cử cán
5


bộ đi liên lạc với xứ uỷ Bắc Kỳ xin vũ khí và cán bộ về Ngọc Trạo tham gia huấn
luyện du kích.
Do ảnh hưởng và hoạt động của chiến khu ngày càng mở rộng, cho nên kẻ thù cũng
bắt đầu đánh hơi đến. Tên tri huyện Thạch Thành Sầm Văn Kim đã lần mò về Ngọc
Trạo để dò la tin tức. Tên đồn trưởng Bỉm Sơn Đuy-mô-ra đã phái lính đến tuần tra.
Nhưng do sự đùm bọc và che chở của nhân dân, chiến khu Ngọc Trạo vẫn được bảo
vệ an toàn.
Tuy vậy, để đánh lạc hướng do thám của kẻ địch, bảo đảm an toàn cho chiến khu,
Ban lãnh đạo quyết định tạm dời lực lượng đến Hang Treo, cách Ngọc Trạo 12km về
phía Tây bắc.

Ngày 18/9/1941, lực lượng chiến khu đã đến Hang Treo một cách an tồn. Cơng tác
tổ chức chiến khu được tiến hành một cách khẩn trương. Và đến đêm ngày 19/9/1941
tại Hang Treo, trước ánh lửa hồng của ngọn đuốc cách mạng, đội du kích Ngọc Trạo
đứng chỉnh tề dưới cờ Đảng quang vinh đã chính thức tuyên bố thành lập với tổng số

24 đội viên, phiên chế thành 3 tiểu đội, do đồng chí Đặng Châu Tuệ làm chỉ huy
trưởng. Tất cả mọi chiến sĩ đều tuyên thệ sẵn sàng hy sinh phấn đấu đến cùng cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Bài hát “Đời ta bấy lâu khổ rồi” được chọn làm bài “Đội
ca”.
Sự ra đời của đội du kích Ngọc Trạo đánh dấu bước trưởng thành to lớn của tỉnh
Thanh Hố nói chung và ở huyện Thạch Thành nói riêng. Từ nay, Đảng bộ và nhân
dân đã có một lực lượng vũ trang thốt ly đầu tiên, làm nịng cốt cho phong trào đấu
tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang sau này. Đây là một lực lượng có tổ
chức chặt chẽ. Tất cả đều mặc quần áo nơng dân, có thêm túi dết, xà cạp xanh. Mỗi
chiến sĩ đều được trang bị một con dao nhọn, cán bộ được thêm một khẩu súng kíp.
Việc học tập chính trị, văn hoá và huấn luyện quân sự đều được tiến hành khẩn
trương và rất kỉ luật.

6


Cơ quan Ấn loát của Tỉnh uỷ sau khi đưa về Hang Treo vẫn tiếp tục hoạt động. Báo
“Tự Do” - cơ quan ngôn luận của tỉnh Đảng bộ vẫn được in để gửi về các cơ sở cách
mạng.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng đội du kích Ngọc Trạo vẫn lớn lên
nhanh chóng. Các cơ sở cách mạng trong tỉnh và các tỉnh khác như Hà Nam Ninh,
Nghệ Tĩnh, Thái Bình... đã tập hợp các thanh niên giác ngộ cách mạng để gửi tới tăng
cường cho chiến khu. Chỉ trong vịng một tuần lễ, đội du kích đã có tới 40 đội viên.
Ngày 25/9/1941, nhận thấy Hang Treo nằm sâu trong rừng vắng giữa hai huyện
Thạch Thành và Hà Trung không được thuận tiện cho việc giao thông, liên lạc, tiếp
tế, mở rộng địa bàn hoạt động của đội du kích đã trưởng thành hơn, đồng thời xét
thấy kẻ thù đã lạc hướng do thám, ban lãnh đạo đã quyết định chuyển tồn bộ lực
lượng về đóng tại đồi Ma Mầu - cách làng Ngọc Trạo 7,800m về phía Tây bắc.
Khu vực đồi Ma Mầu có rừng cây rậm rạp, ở độ cao khoảng 500m, các đồi yên ngựa
liền nhau tạo thành thể liên hoàn. Từ đây có thể quan sát được đối phương từ Hà

Trung lên và từ Thạch Thành tới. Tại đây, các chiến sĩ du kích đã dựng lán trại và
phát san bãi tập.
Ở Ma Mầu đội du kích đã lập 3 bốt gác chốt ở 3 đỉnh đồi (Trạc Lòi, Ba Cao và đội
Riềng) theo hình tam giác. Tại đây, số lượng đội viên đã lên khoảng 80 người, được
biên chế thành các trung đội, tiểu đội theo nguyên tắc tam tam chế. Chương trình
huấn luyện qn sự và mọi sinh hoạt chính trị, văn hoá, văn nghệ được tiến hành theo
kế hoạch chặt chẽ.
Đội du kích đã lớn lên. Nhưng tồn bộ việc ăn uống của du kích đều do nhân dân
Ngọc Trạo đảm nhận. Hàng ngày, đội tự vệ nữ lo việc cơm nước từ nhà mang lên đồi
Ma Mầu. Còn các cụ già thì lo việc luyện cám rang để làm lương khơ dự trữ cho du
kích. Các tự vệ nam ở Ngọc Trạo ngày đêm tuần tra canh gác trong làng, dẫn đường
chuyển tài liệu, thuốc men và vũ khí cho cán bộ chiến sĩ lên chiến khu. Cịn ở gia
đình, người thì làm tên nỏ, mở lị rèn làm vũ khí cho du kích, người thì đi chợ Kim
Tân mua muối thuốc men, vải, đá in li lô mang lên cho du kích.
Nói chung, chiến khu du kích Ngọc Trạo đến thời điểm này địi hỏi có sự ủng hộ và
chi viện tích cực của các cơ sở cách mạng trong tồn tỉnh thì mới có thể tồn tại và
phát triển. Vì vậy, Tỉnh uỷ đã kịp thời chỉ thị cho các cơ sở, cách mạng ở trong tỉnh
tiếp tục chi viện tích cực cho chiến khu. Quần chúng và cán bộ ở các vùng Hà Trung,
Vĩnh Lộc, Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Định và Thị xã v.v... đã vượt qua mọi sự kiểm
tra gắt gao của kẻ thù để mang đến cho chiến khu những thứ cần thiết như gạo, muối,
lạc, vừng, quần áo, thuốc men, vũ khí, địa bàn, đèn pin v.v...
Với ý định hồn chỉnh việc xây dựng chiến khu để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh vũ
trang rộng lớn sắp tới, Ban lãnh đạo chiến khu lúc này còn chủ trương phát triển đội
du kích lên tới 500 đội viên để có đủ lực lượng hoạt động suốt từ Tây Bắc đến Đông
Nam thuộc ven rừng núi Thanh Hoá và chủ trương này được xúc tiến khẩn trương.
Đa Ngọc (Yên Định) và làng Cẩm Bào (Vĩnh Lộc) đã trở thành địa điểm tập kết và
chung chuyển các lực lượng tự vệ và hậu cần từ các địa phương đến chiến khu Ngọc
Trạo.
Phong trào phản đế cứu quốc trong tỉnh lên cao. Ảnh hưởng về một chiến khu cách
mạng chuẩn bị cuộc khởi nghĩa vũ trang đã loang rộng.

Sau một thời gian đánh hơi và lùng sục, kẻ thù đã phát hiện sự hoạt động của đội du
kích ở chiến khu Ngọc Trạo. Bọn thống trị đã huy động binh lính và mật thám của
7


nhiều tỉnh tập trung về Thanh Hoá để chuẩn bị một cuộc vây ráp, khủng bố lớn chưa
từng thấy.
Từ đầu tháng 9/1941, địch đã tập trung lực lượng o ép nhiều vùng trong các huyện
Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định. Các cuộc đánh tháo giải vây nổ ra liên tục. Giữa
tháng 9/1941, đồn cán bộ do đồng chí Trần Hoạt - Bí thư tỉnh uỷ phụ trách xây dựng
căn cứ vùng Nông Cống, Như Xuân bị sa vào lưới địch.Ngày 7/10/1941 địch lại thiết
quân luật ở vùng Tây Bắc Thanh Hoá và đang đêm đột nhập vào Đa Ngọc (nơi tập
kết của tự vệ Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Định lên đường đi chiến khu). Và tại đây đã
nổ ra cuộc chiến đấu ác liệt đầu tiên giữa tự vệ Đa Ngọc với kẻ thù. Ngày10/10/1941,
cuộc truy nã tự vệ càng ác liệt hơn.
Đến ngày 16/10/1941, chiến khu Ngọc Trạo bị phong toả. Vào thời điểm này,
vùng Ngọc Trạo bị mưa lụt liên tiếp. Lán trại ở đồi Ma Mầu bị dột ướt. Đội du kích
phải tản vào đóng tại bốn nhà sàn ở xóm đình Ngọc Trạo. Một khó khăn lớn lúc này
là sự thiếu thốn lương thực, thuốc men. Trong khi đó, các đường tiếp tế lại bị ngăn
chặn. Còn nhân dân Ngọc Trạo - nguồn tiếp tế chủ yếu lại trong tình trạng giáp hạt và
thiếu thốn nghiêm trọng. Vì thế mà đội du kích có ngày phải ăn rau quả để thay cơm.
Nhưng cũng chính lúc này, tình thương yêu, đùm bọc của nhân dân Ngọc Trạo đối
với du kích lại được thể hiện một cách đẹp đẽ và cao cả hơn bao giờ hết.
Giữa lúc Ban lãnh đạo chiến khu đang có kế hoạch chuẩn bị chuyển hướng địa bàn
hoạt động thì bị kẻ thù tấn công.
Sáng sớm ngày 19/10/1941, bọn thống trị Pháp đã huy động một bộ phận binh lính
khá lớn dưới sự chỉ huy của tên Phờ-lơ-tô, chánh mật thám Bắc Kỳ (và các tên Perốt-sơ, chánh mật thám Trung Kỳ, Om-Be chánh mật thám Thanh - Nghệ - Tĩnh, Đugơ-ba-Phec-băng, thanh tra mật thám Đông Dương và các thanh tra mật thám Trung
Kỳ v.v...) chia làm 3 mũi tấn công Ngọc Trạo: một mũi từ Cầu Cừ (Hà Trung) tiến
vào xóm Ba Chạc (cuối làng), một mũi từ Kim Tân (huyện lỵ Thạch Thành) kéo vào
xóm Mộ Cuội (cuối làng), một mũi từ Bỉm Sơn do Đuy-Mô-Ra dẫn đầu đi tắt qua đồi

Riềng để chọc thẳng vào xóm Đình (giữa làng).
Mặc dù, tương quan lực lượng chênh lệch (kể cả người và vũ khí), nhưng với tinh
thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường, đội du kích đã đánh lui nhiều đợt tiến công
của địch. Các chiến sĩ đã đánh giáp lá cà, dùng dao, kiếm, mác quần nhau với địch,
vừa xung phong, vừa dùng loa kêu gọi binh lính quay súng trở về với nhân dân. Sau
khi một tên lính bị chém trọng thương, địch hoảng sợ bắn xối xả vào trận địa mai
phục của đội du kích rồi rút lui khỏi Ngọc Trạo vào lúc 8 giờ sáng. Lực lượng du kích
cơ bản được bảo tồn. Ba chiến sĩ du kích Phạm Văn Hinh, Hồng Văn Mơn, Đỗ Văn
Tước và một số chiến sĩ khác đã chiến đấu dũng cảm và hy sinh oanh liệt vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc đã trở thành những tấm gương ngời sáng về chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, rất xứng đáng được nêu gương cho đời sau học tập và noi theo.
Tối ngày 19/10/1941, sau khi làm lễ truy điệu chiến sỹ đã hy sinh, cất dấu tài liệu và
chỉ đạo kế hoạch chống khủng bố cho nhân dân Ngọc Trạo, Ban lãnh đạo quyết định
rút đội du kích về làng Cẩm Bào (thuộc xã Vĩnh Long, Vĩnh Lộc bây giờ) rồi phân
tán nhỏ lực lượng về các vùng trong tỉnh, xây dựng, củng cố phát triển phong trào
phù hợp với tình hình mới.
Chưa tiêu diệt được đội du kích, Thực dân Pháp và tay sai lồng lộng điên cuồng mở
các cuộc khủng bố dã man ở vùng Ngọc Trạo, Cẩm Bào và hàng loạt các cơ sở cách
mạng khác như Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định, Vĩnh Lộc. Mặc dù hầu hết cán bộ,
8


chiến sĩ bị tù đầy, tra tấn và nhiều xóm làng bị triệt hạ. Song hình ảnh các chiến sĩ du
kích và chiến khu Ngọc Trạo vẫn mãi mãi ngời sáng trong tình cảm niềm tin vào sự
tất thắng của cách mạng của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Thanh Hố.
Mặc dù đội du kích và chiến khu Ngọc Trạo ra đời và hoạt động khơng lâu, nhưng đó
là tiếng súng báo hiệu một thời kỳ đấu tranh cách mạng mới. Thời kỳ chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền với sự hồn thiện về sự đấu tranh giành chính trị
kết hợp với đấu tranh vũ trang. Sự ra đời ấy còn là sự tiếp nối của tiếng súng Bắc Sơn
và Nam Kỳ. Đây còn là bước tập dượt cho việc xây dựng lực lượng và chiến khu

cách mạng.
Đỉnh cao của phong trào phản đế, cứu quốc ở Thanh Hố (1940 - 1941), đội du kích
và chiến khu Ngọc Trạo vẫn mãi mãi là hình ảnh đẹp đẽ và hào hùng, rất xứng đáng
được ghi vào trang sử vàng đấu trang giải phóng của dân tộc.
Câu 3. (15 điểm): Người anh hùng huyền thoại quên thân mình cứu pháo trong
chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 là ai? Trình bày sơ lược vài nét về người anh
hùng đó?
Để góp phần vào sự thành cơng của chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954) đã có biết
bao tấm gương anh dũng hy sinh khi tuổi đời còn xuân xanh. Họ, những người chiến
sĩ mang trên mình một tình yêu Tổ Quốc, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc.

Trong đó, anh hùng Tơ Vĩnh Diện đã dũng cảm lấy thân mình chèn pháo. Anh hùng
Tơ Vĩnh Diện sinh năm 1924, ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.
Anh sinh ra trong một gia đình nghèo, lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ, suốt 12
năm đi ở đợ anh luôn phải chịu bao cảnh áp bức, bất công. Năm 1946 anh tham gia
dân quân ở địa phương, đến năm 1949 anh xung phong đi bộ đội.
Tháng 5/1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị đánh lớn. Tô
Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao xạ. Trong quá trình
hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1.000km tới vị trí tập kết để tham gia chiến

9


dịch Điện Biên Phủ, anh luôn nhận những nhiệm vụ khó khăn, nặng nhọc, động viên
giúp đỡ đồng đội kéo pháo đến nơi an toàn.
Trong lúc kéo pháo qua những chặng đường nguy hiểm, cũng như nghỉ dọc đường,
anh luôn nhắc nhở đồng đội chuẩn bị chu đáo và tự mình đi kiểm tra tỉ mỉ dây kéo
pháo, xem xét từng đoạn đường, từng con dốc rồi phổ biến cho anh em để tránh
những bất ngờ xảy ra.

Qua 5 đêm kéo pháo ra đến dốc Chuối, đường hẹp cong và rất nguy hiểm, anh cùng
đồng chí pháo thủ Lê Văn Chi xung phong lái pháo. Đến nửa chừng, dây tời bị đứt,
pháo lao nhanh xuống dốc, anh vẫn bình tĩnh giữ càng lái cho pháo thẳng đường.
Nhưng một trong bốn dây kéo pháo lại bị đứt, pháo càng lao nhanh, đồng chí Chi bị
hất văng ra. Trong hồn cảnh vơ cùng khó khăn đó, Tơ Vĩnh Diện hơ anh em “Thà hy
sinh quyết bảo vệ pháo”, và anh buông tay lái xơng lên phía trước, lấy thân mình
chèn vào bánh pháo, nhờ đó các anh em đồng đội kịp ghìm giữ pháo lại. Tấm gương
hy sinh vô cùng anh dũng của anh đã cổ vũ mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn
thành tốt nhiệm vụ, chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Khi hy sinh anh là
Tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37 ly, thuộc Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn
367.
Anh được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Ngày 7/5/1955, Tô Vĩnh
Diện được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truy tặng Hn chương Qn
cơng hạng Nhì và được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Câu 4. (20 điểm): Những đóng góp to lớn của quân, dân Thanh Hoá trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954- 1975)?
Vào năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, với chiến dịch Điện Biên
Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu; với Hiệp định Giơnevơ hịa bình được lập
lại ở miền Bắc, nhưng nhân dân miền Nam vẫn phải sống trong ách thống trị bạo tàn
của bè lũ Mỹ- Ngụy.

Thực hiện chủ trương, đường lối của Trung ương Đảng, nhân dân cả nước cùng lúc
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cùng với nhân dân miền Bắc,
10


Thanh Hóa nhanh chóng thực hiện cơng cuộc hàn gắn hậu quả tàn phá của chiến
tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.
Trong gần 10 năm cải tạo và xây dựng cơ sở vật chất ban đầu cho CNXH, nhờ sự

lãnh đạo, chỉ đạo của đảng bộ, chính quyền, sự nỗ lực phấn đấu của mọi tầng lớp
nhân dân trên địa bàn tỉnh nên kinh tế - xã hội phát triển, tiềm lực quốc phòng – an
ninh của tỉnh được tăng cường đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước.
Những năm 60 của thế kỷ XX, tỉnh Thanh Hóa thời kỳ đó đang dồn sức xây dựng
nhiều cơ sở cơng trình thiết yếu phục vụ đời sống, đồng thời chú trọng áp dụng tiến
bộ của công nghiệp vào sản xuất nông nghiệp nên năng suất lao động được nâng cao,
đời sống nhân dân được cải thiện. Phong trào thi đua xây dựng các mơ hình, điển
hình tiên tiến ở tất cả các ngành, các cấp được đẩy mạnh. Các điển hình tiên tiến
trong nông nghiệp như Đông Phương Hồng ở Yên Trường; trong cơng nghiệp có cơ
khí Thành Cơng, trong giáo dục có Hải Nhân... được nhân rộng trên tồn miền Bắc.
Trước nguy cơ thất bại ở miền Nam, Đế quốc Mỹ dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc bộ”
hòng tạo cớ mở rộng chiến tranh xâm lược trên phạm vi cả nước. Từ cuối tháng 7 đầu
tháng 8-1964, đế quốc Mỹ liên tục cho Không quân, Hải quân bắn phá Quân khu 4 và
Thanh Hóa. Ngày 5-8-1964, Mỹ ngang nhiên đưa máy bay ra đánh phá miền Bắc,
trong đó có Lạch Trường (Hoằng Hóa - Thanh Hóa). Thấm nhuần chân lý “Khơng có
gì q hơn độc lập tự do”, Thanh Hóa với quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, hợp sức
cùng cả nước giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trong những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, các địa danh Đò Lèn,
Hàm Rồng, Phà Ghép... là những “tọa độ lửa”, nơi diễn ra cuộc đọ sức quyết liệt của
bộ đội pháo binh chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ với lũ “giặc trời” Mỹ tối
tân hiện đại với những tên gọi “thần sấm”, “con ma”, “pháo đài bay B52”. Chỉ bằng
các loại pháo cao xạ 57, 37, 12 ly 7 cùng súng trường, những phương tiện tối tân,
hiện đại của kẻ thù đã gục ngã trước tinh thần, ý chí thép của quân, dân ta. Qua 8 năm
anh dũng chiến đấu, quân và dân tồn tỉnh Thanh Hóa đã đánh 10.158 trận lớn nhỏ,
bắn rơi 376 máy bay các loại (trong đó có 3 máy bay B52). Riêng lực lượng dân quân
tự vệ bắn rơi 40 chiếc, bộ đội địa phương bắn rơi 41 chiếc, bắt sống nhiều giặc lái.
Trên biển, các lực lượng quân và dân trong tỉnh đã chiến đấu 175 trận, bắn chìm 57
tàu chiến và biệt kích của Mỹ Ngụy (trong đó lực lượng vũ trang địa phương bắn
chìm và bắn cháy 12 chiếc, bắt sống 3 tên biệt kích người nhái tại khu vực đảo Nghi

Sơn - Tĩnh Gia). Nổi bật là các trận chiến đấu: Ngày 3 và 4-4-1965, bằng trận thử lửa
đầu tiên ở cụm chiến đấu Hàm Rồng - Nam Ngạn, quân và dân ta đã bắn rơi 47 máy
11


bay Mỹ. Tiếp sau đó cũng tại khu vực này, với 2.000 ngày đêm chiến đấu, quân và
dân tỉnh Thanh Hóa tiếp tục bắn rơi 108 máy bay Mỹ với 24 loại máy bay hiện đại,
Hàm Rồng - Nam Ngạn đã trở thành biểu tượng hào hùng của chủ nghĩa anh hùng
cách mạng. Ngày 16-6-1967 dân quân nữ xã Hoa Lộc (Hậu Lộc) - đơn vị dân quân
nữ đầu tiên trên miền Bắc, bắn rơi 1 máy bay Mỹ bằng súng bộ binh.
Sau Hoa Lộc, nhiều đơn vị dân quân nữ của tỉnh cũng được thành lập và cùng bắn rơi
máy bay Mỹ như: Dân quân xã Thanh Thủy (Tĩnh Gia), Hà Tiến, Hà Toại (Hà Trung),
Hoằng Hải (Hoằng Hóa)... được Bác Hồ gửi thư khen và tặng Huy hiệu của Người.
Với tinh thần “Tuổi cao chí càng cao” trong 2 ngày 14 và 24-10-1967 các cụ lão dân
quân xã Hoằng Trường (Hoằng Hóa) đã mưu trí, dũng cảm bắn rơi máy bay Mỹ được
Bác Hồ gửi thư khen ngợi. Đặc biệt, trong 5 trận chiến đấu của Đại đội 94 dân quân
tập trung (huyện Quảng Xương) từ ngày 30-6-1972 đến ngày 15-11-1972 đã bắn rơi 5
máy bay Mỹ, ngoài ra còn phối hợp với các đơn vị bạn bắn rơi 2 chiếc khác.

Cũng trong những năm tháng đầy khói lửa, Thanh Hóa là hậu phương lớn chi
viện sức người, sức của cho tiền tuyến, đã có 227.138 thanh niên lên đường nhập ngũ
hoặc tham gia thanh niên xung phong trên các mặt trận, chiến trường phía Nam. Với
ý chí, quyết tâm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và chí khí: “Nhằm thẳng quân thù
mà bắn”, “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”, để cùng quân, dân cả
nước đánh Mỹ, thắng Mỹ, lật nhào chế độ ngụy quyền để non sông liền một dải, Nam
- Bắc vui sum họp một nhà. Các phong trào thi đua: “Hòn đá chống Mỹ”, “Ba giỏi”
được nhân rộng đã huy động sức mạnh của toàn dân phục vụ chiến đấu. Người dân
Thanh Hóa đã khơng ngần ngại dỡ nhà làm cầu, lấy đá lát đường, cứu chữa phương
tiện, hàng hóa bị máy bay địch bắn phá. Cơng ty vận tải thuyền nan và đồn vận tải
Lam Sơn, Cơng ty xe đạp thồ và đoàn vận tải Điện Biên và các đoàn vận tải cơ giới

trong gần 10 năm chống Mỹ phá hoại đã vận chuyển 15 triệu tấn hàng hóa đáp ứng
chi viện cho chiến trường, phục vụ chiến đấu.
Với những đóng góp vơ cùng to lớn về sức người, sức của trong kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, quân và dân tỉnh Thanh Hóa đã được Đảng, Nhà nước, Chính phủ ghi
nhận tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 12 tập thể
và 55 cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu
12


trên mảnh đất quê hương và trên các chiến trường của cả nước, được Bác Hồ tặng cờ
thưởng với dòng chữ “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” cùng nhiều thư
khen, nhiều huân chương các loại và nhiều phần thưởng cao quý khác cho các đơn vị
và cá nhân có thành tích xuất sắc. Trên địa bàn tỉnh có 329.824 người có cơng, trong
đó, hơn 56.000 liệt sĩ, gần 46.000 thương binh, hơn 16.000 bệnh binh, hơn 18.000
người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học... (Tư liệu
được trích từ cuốn sách Truyền thống lực lượng vũ trang Thanh Hóa, xuất bản năm
2002)
Ngày 30-4-1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, cả nước bước vào một kỷ nguyên
mới: Kỷ nguyên độc lập tự do, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong
suốt 45 năm qua, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa tiếp
tục phát huy truyền thống anh hùng, đi đôi với khắc phục khó khăn, tập trung xây
dựng lực lượng, huấn luyện để khơng ngừng nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
Câu 5. (15 điểm): Trình bày khái quát những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu mà Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ XIX đề ra trong nhiệm kỳ 2020-2025?
Em cần làm gì để góp phần xây dựng quê hương Thanh Hoá ngày càng văn minh,
giàu đẹp?
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIX, tiến hành từ ngày 26 đến ngày
28 tháng 10 năm 2020, tại thành phố Thanh Hóa; 448 đại biểu chính thức thay mặt
cho gần 230 nghìn đảng viên của Đảng bộ đã về dự Đại hội.

Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu mà Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần
thứ XIX đề ra trong nhiệm kỳ 2020-2025
Một là, phát triển kinh tế nhanh và bền vững trở thành một cực tăng trưởng mới ở
phía Bắc của Tổ quốc.
- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển 4 trung tâm kinh tế động lực, 5 trụ cột tăng
trưởng và 6 hành lang kinh tế để tạo không gian mới cho phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh.
+ 4 trung tâm kinh tế động lực, gồm: Trung tâm động lực TP. Thanh Hóa
- TP.
Sầm Sơn; Trung tâm động lực phía Nam (Khu kinh tế Nghi Sơn); Trung tâm động lực
phía Bắc (Thạch Thành - Bỉm Sơn); Trung tâm động lực phía Tây (Lam Sơn - Sao
Vàng).
+ 5 trụ cột tăng trưởng, gồm: Công nghiệp chế biến, chế tạo; Nông nghiệp; Du lịch;
Dịch vụ Y tế; Phát triển hạ tầng.
+ 6 hành lang kinh tế, gồm: Hành lang kinh tế ven biển; Hành lang kinh tế Bắc Nam;
Hành lang kinh tế đường Hồ Chí Minh; Hành lang kinh tế Đông Bắc; Hành lang kinh
tế trung tâm; Hành lang kinh tế quốc tế.
- Lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nông, lâm, thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa quy
mơ lớn, giá trị gia tăng cao, gắn với xây dựng thương hiệu sản phẩm. Đẩy mạnh tích
tụ, tập trung đất đai để tổ chức sản xuất hàng hóa quy mô lớn, ứng dụng công nghệ
cao; đến hết năm 2025, diện tích đất nơng nghiệp được tích tụ, tập trung tăng thêm
32.000ha. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, xây dựng thương
hiệu đối với các sản phẩm chủ lực của tỉnh. Quy hoạch lại vùng mía nguyên liệu, cao
su, bảo đảm phát triển bền vững. Phát triển chăn nuôi theo hướng trang trại tập trung,
ứng dụng công nghệ cao, theo chuỗi giá trị. Phát triển lâm nghiệp bền vững gắn với
13


bảo vệ môi trường sinh thái; tập trung phát triển rừng sản xuất gỗ lớn đạt 56.000ha.
Phát huy hiệu quả tiềm năng, phát triển thủy sản trở thành ngành sản xuất hàng hóa

lớn. Đẩy mạnh xây dựng xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí an tồn thực phẩm.
- Tập trung phát triển công nghiệp với tốc độ cao, trọng tâm là công nghiệp nặng,
công nghiệp năng lượng và công nghiệp chế biến, chế tạo; thu hút đầu tư các dự án
cơng nghiệp mới quy mơ lớn; đưa Thanh Hóa trở thành một trong những trung tâm
lớn của vùng Bắc Trung bộ và cả nước về công nghiệp. Thu hút đầu tư phát triển
đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp. Tiếp tục phát
triển tiểu thủ công nghiệp, chú trọng sản xuất các sản phẩm phục vụ du lịch, xuất
khẩu.
Phát triển ngành xây dựng đạt trình độ cao trong các lĩnh vực thiết kế, xây dựng cơng
trình, vật liệu xây dựng, phát triển đơ thị và nhà ở. Huy động các nguồn vốn xã hội
hóa phát triển nhà ở xã hội, cao ốc hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và phát triển đô thị.
- Tiếp tục phát triển mạnh các ngành dịch vụ. Khuyến khích phát triển mạnh hệ thống
trung tâm thương mại, siêu thị tại các thành phố, thị xã và thị trấn các huyện. Xúc tiến
thành lập Khu kinh tế cửa khẩu Na Mèo làm trung tâm giao thương hàng hóa với
nước bạn Lào.
-Chú trọng thu hút đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch. Khai thác hiệu quả lợi thế
của cụm cảng nước sâu Nghi Sơn để phát triển mạnh dịch vụ cảng biển, vận tải biển;
xây dựng trung tâm logistics cấp vùng hạng I tại Khu kinh tế Nghi Sơn. Ban hành
chính sách mở thêm các đường bay mới trong nước và quốc tế đi, đến Cảng hàng
không Thọ Xuân. Phát triển thông tin truyền thông với công nghệ hiện đại, độ phủ
rộng, chất lượng cao. Phát triển dịch vụ tài chính, ngân hàng theo hướng hiện đại, đa
dạng các dịch vụ và tiện ích theo chuẩn quốc tế.
- Tiếp tục phát triển mạnh doanh nghiệp; đổi mới phương thức hoạt động của kinh tế
tập thể, hợp tác xã, gắn với nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hai là, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, tạo sức hấp dẫn mới để đẩy
mạnh thu hút đầu tư, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu
tư phát triển. Rà soát, khắc phục những hạn chế, yếu kém, nâng cao thứ hạng Chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính cơng cấp
tỉnh (PAPI), Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX). Bổ sung, xây dựng mới các

quy hoạch, nhất là quy hoạch phân khu chức năng trong Khu kinh tế Nghi Sơn mở
rộng. Đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Ban hành các cơ chế,
chính sách, tạo sức hấp dẫn mới. Tổ chức hiệu quả các hoạt động xúc tiến đầu tư
trong và ngoài nước.
Tiếp tục cơ cấu lại đầu tư cơng, ưu tiên bố trí vốn đẩy nhanh tiến độ thực hiện và
hồn thành các cơng trình, dự án trọng điểm, có ý nghĩa lớn đối với phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh; quan tâm đầu tư cho khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số.
Ba là, tăng cường liên kết, hợp tác với các tỉnh trong vùng Bắc Trung Bộ, thành phố
Hà Nội và các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, nhất là trong xúc tiến đầu tư và
thương mại, huy động và phân bổ nguồn lực, xây dựng kết cấu hạ tầng, đào tạo
nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; xây dựng các tuyến
du lịch liên tỉnh, liên vùng.
14


Bốn là, đẩy mạnh phát triển đô thị và xây dựng nông thôn mới. Tập trung huy động
các nguồn lực đầu tư đẩy nhanh tốc độ đơ thị hóa ở các khu vực thành phố, thị xã và
những nơi có điều kiện; hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, kiến
trúc cảnh quan tại các đô thị động lực: Thành phố Thanh Hóa, thành phố Sầm Sơn,
thị xã Bỉm Sơn, thị xã Nghi Sơn, đô thị Lam Sơn - Sao Vàng. Xây dựng một số khu
đô thị đẹp, hiện đại.
Chú trọng xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu. Chỉnh trang
khu vực nông thôn theo hướng văn minh, xanh, sạch, đẹp, bảo tồn và giữ gìn văn hóa
đặc trưng.
Năm là, đẩy mạnh hoạt động khoa học công nghệ; nâng cao chất lượng các hoạt động
văn hóa - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.
- Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học cơng
nghệ trong tất cả các lĩnh vực; khuyến khích ứng dụng các thành tựu của Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư để tạo đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư

khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu phần mềm tập trung, hạ tầng thiết yếu
và phát triển nguồn nhân lực phục vụ q trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số,
chính quyền điện tử, đô thị thông minh.
- Phát triển mạnh văn hóa, thể thao, tạo nền tảng để Thanh Hóa trở thành một trong
những trung tâm lớn về văn hóa, thể thao của khu vực và cả nước. Rà soát, điều
chỉnh, bổ sung các quy hoạch, kế hoạch phát triển văn hóa. Tiếp tục huy động các
nguồn lực để tu bổ, tơn tạo, phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng,
bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể. Đẩy mạnh phong trào xây dựng
tập thể, cá nhân kiểu mẫu. Nâng cao chất lượng hoạt động thơng tin, báo chí. Xây
dựng và triển khai Đề án phát triển thể dục thể thao tỉnh Thanh Hóa, ưu tiên các mơn
thể thao thành tích cao có thế mạnh.
- Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, gắn với nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực. Nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện, giữ vững thành tích
giáo dục mũi nhọn trong nhóm dẫn đầu cả nước. Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy
và học, việc thi, kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, công tác quản lý giáo
dục, coi trọng quản lý chất lượng. Tiếp tục sắp xếp mạng lưới trường học; rà soát, bồi
dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Đẩy mạnh huy động các nguồn lực xã
hội để đầu tư phát triển giáo dục.
Lựa chọn chương trình đào tạo tiên tiến, gắn với chuẩn đầu ra, trang bị cho lao động
những kỹ năng, kiến thức và công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao
động, phục vụ nhân lực cho các ngành kinh tế của tỉnh. Rà soát, sắp xếp lại mạng lưới
các trường đại học, cao đẳng, trung cấp và các trung tâm giáo dục nghề nghiệp, bảo
đảm phù hợp với yêu cầu đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực của tỉnh.
- Đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ trong các bệnh viện cơng lập; khuyến khích xã
hội hóa, hợp tác cơng tư trong lĩnh vực y tế để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang
thiết bị cho các cơ sở y tế; đưa dịch vụ y tế trở thành 1 trong 5 trụ cột tăng trưởng.
Tiếp tục ban hành chính sách thu hút nguồn nhân lực y tế chất lượng cao làm việc tại
tỉnh. Thực hiện tốt cơng tác y tế dự phịng, cơng tác dân số và phát triển.
- Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chương trình, đề án, chính sách hỗ trợ giảm
nghèo; ưu tiên hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, giúp người nghèo phát triển

sinh kế, ổn định đời sống, tự vươn lên thoát nghèo bền vững. Đẩy mạnh đào tạo nghề
gắn với giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động. Thúc đẩy chuyển dịch việc làm khu
15


vực nông thôn theo hướng phi nông nghiệp. Đẩy mạnh thực hiện chính sách BHXH,
BHTN. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về dân tộc, tôn giáo.
Sáu là, tăng cường quản lý tài ngun và bảo vệ mơi trường, chủ động phịng chống
thiên tai, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu. Thực hiện tốt cơng tác quản lý đất
đai. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động khai thác, tập kết, vận chuyển, chế biến khoáng
sản. Huy động các nguồn lực để đầu tư hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hệ thống xử lý
nước thải, chất thải tại Khu kinh tế Nghi Sơn, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp,
đô thị. Xây dựng kế hoạch di chuyển các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm môi trường
ra khỏi các đô thị, khu dân cư; di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm trên thượng
nguồn Sông Mã, Sông Chu vào các cụm cơng nghiệp, làng nghề. Ban hành chính
sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng các cơng trình,
dự án xử lý chất thải. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai và ứng phó với
biến đổi khí hậu.

Bảy là, bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự
an tồn xã hội. Tiếp tục xây dựng và củng cố nền quốc phịng tồn dân, gắn với thế
trận an ninh nhân dân, biên phịng tồn dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc.
Xây dựng lực lượng qn sự, cơng an, biên phịng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống. Chủ động nắm,
dự báo tình hình, triển khai các phương án bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới. Xây
dựng, củng cố đường biên giới với nước bạn Lào hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển. Tiếp tục thực hiện hiệu quả chủ trương tăng cường cán bộ biên phòng cho các
xã biên giới.
Thực hiện tốt công tác bảo đảm an ninh trật tự, kịp thời giải quyết triệt để các vụ việc

phức tạp ngay tại cơ sở, khơng để hình thành “điểm nóng”. Chủ động đấu tranh, trấn
áp các loại tội phạm; từng bước đẩy lùi các tai, tệ nạn xã hội. Thực hiện tốt công tác
tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo; giải quyết kịp thời, triệt để các vụ việc khiếu
kiện đông người, phức tạp.
Tám là, triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả công tác đối ngoại, trọng tâm là kinh tế
đối ngoại. Tiếp tục làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác với một số tỉnh, thành phố ở một
số nước, các tổ chức quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các đối tác chiến
lược, quan trọng. Nâng cao năng lực hội nhập quốc tế, nhất là năng lực thực thi và
khả năng thích ứng của địa phương, doanh nghiệp về các hiệp định thương mại tự do
(FTA) thế hệ mới. Thực hiện tốt cơng tác quản lý người nước ngồi sinh sống, sản
xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật.
16


Chín là, tăng cường xây dựng Đảng bộ đồn kết, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, tổ chức và cán bộ; trọng tâm là xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu
tranh, ngăn chặn các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Chú trọng xây dựng
văn hóa trong Đảng, trong hệ thống chính trị, nhất là văn hóa trong thực thi cơng vụ,
văn hóa phục vụ Nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đổi mới mạnh
mẽ phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng; tập trung làm
chuyển biến về nhận thức, đổi mới tư duy, tinh thần chủ động, sáng tạo, khát vọng
vươn lên của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân. Thực hiện tốt việc nắm
tình hình và kịp thời định hướng dư luận xã hội. Tăng cường công tác bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng. Làm tốt công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng, bồi
dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên.
- Xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm với yêu cầu,

nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Trọng tâm là tiếp tục thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy
theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung
ương và Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII). Rà sốt, bổ sung, sửa
đổi các quy chế, quy định về công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức ở các
cấp, các ngành; coi trọng tiêu chí về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, đặc biệt là
hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ. Nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động
của các loại hình tổ chức cơ sở đảng.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; kịp thời ngăn
chặn hành vi vi phạm. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhất
là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải
quyết từ sớm các vi phạm. Quan tâm kiện toàn, củng cố tổ chức bộ máy và cán bộ cơ
quan ủy ban kiểm tra các cấp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơng tác phịng chống
tham nhũng, lãng phí.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Đồn đại biểu Quốc hội tỉnh, Hội đồng nhân dân
các cấp. Xây dựng Ủy ban nhân dân các cấp tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
hoàn thiện hệ thống thể thế, cơ chế, chính sách, tạo mơi trường thuận lợi cho doanh
nghiệp và người dân sản xuất, kinh doanh; xây dựng chính quyền điện tử.
- Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể; tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng, Chính quyền với
Nhân dân; xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân; phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân để phát triển nhanh và bền vững.
Em cần làm gì để góp phần xây dựng quê hương Thanh Hoá ngày càng văn minh,
giàu đẹp?
Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng biết rằng tuổi trẻ là một thành phần, yếu tố
quan trọng, ảnh hưởng đến tương lai của quê hương đất nước đất nước, vì thế mà Bác
đã căn dặn: Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có
bước đến đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay khơng,
chính là nhờ một phần ở công học tập của các em. Chúng ta cùng tìm hiểu vai trị của
tuổi trẻ với tương lai của quê hương Thanh Hóa nói riêng và đất nước nói chung.

17


Tuổi trẻ là những công dân ở lứa thành niên, thanh niên là thế hệ măng đã sắp
thành tre, là người đã đủ điều kiện, đủ ý thức để nhận biết vai trị của mình đối với
bản thân, xã hội. Tuổi trẻ của mỗi thời đại là niềm tự hào dân tộc, là lớp người tiên
phong trong công cuộc xây dựng, đổi mới, phát triển quê hương Thanh Hóa. Tương
lai quê hương đất nước cần rất nhiều vào sự góp phần xây dựng, phát triển, của thế
hệ trẻ.
Để có thể bắt kịp đà phát triển của những tỉnh thành khác như Sài Gịn, Hà
Nội hay Đà Nẵng thì địi hỏi sự chung sức đồng lòng của tất cả mọi người mà lực
lượng chủ yếu là tuổi trẻ. Bởi đó là lực lượng nòng cốt, là chủ nhân tương lai, là nhân
vật chính góp phần tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho q hương Thanh Hóa chúng
ta.
Tuổi trẻ hơm nay là tơi, là bạn, là những anh chị đang có mặt trên giảng đường
đại học, đang hoạt động bằng cả tâm huyết để cống hiến sức trẻ với những đam mê
cùng lịng nhiệt tình bốc lửa. Tuổi trẻ tốt thì xã hội tốt, còn xã hội tốt sẽ tạo điều kiện
cho tầng lớp trẻ phát triển toàn diện, sinh ra những người con có ích cho đất nước, đó
là điều tất yếu, hiển nhiên mà ai cũng biết..
Sinh ra ở đời ai cũng khao khát được sống hạnh phúc, sung sướng. Mỗi người
ln tìm cho mình một lẽ sống hay nói đúng hơn là lý tưởng sống. Là chủ nhân tương
lai thì chúng ta phải xác định cho mình lý tưởng sống phù hợp, đúng đắn. Trong thời
đại công nghiệp hố, hiện đại hố như hiện nay thì tuổi trẻ chúng ta lại đứng trước
một câu hỏi lớn: Sống như thế nào là đúng đắn là có ích cho xã hội?. Vì lý tưởng
sống của chúng ta là động lực thúc đẩy đất nước phát triển.
Nhưng tuổi trẻ chúng ta có điều kiện gì để xây dựng đất nước? Vâng, đó chính
là học tập. Nói đến tuổi trẻ hơm nay là nói đến việc học hành.. Trong cuộc sống ta
gặp khơng ít trường hợp xem việc học là việc khổ sai chỉ do cha mẹ, thầy cô thúc ép,
chứ không ham học. Họ xem đi học như một hình thúc giải khuây cho vui nên không
cần học tập, coi học học tập là một nỗi nhọc nhằn. Có người lại coi việc học là để ứng

phó với đời, để khơng xấu hổ với mọi người, để có bằng cấp mà hãnh diện với đời,
dù đó chỉ là hàng giả mà thực lực không làm được. Chúng chẳng những không đưa
nước ta sánh kịp với cường quốc năm châu mà còn đưa nước ta về lạc hậu, lụn bại.
Cách duy nhất là phải học chân chính, học bằng khả năng của mình. Bước vào thời
đại cơng nghiệp hố, hiện đại hố thì ai nắm được tri thức thì mới có thể xây dựng
q hương Thanh Hóa ngày càng giàu đẹp. Vì vậy chúng ta phải học, học nữa, học
mãi..Tóm lại, để góp phần xây dựng q hương Thanh Hố ngày càng văn minh, giàu
đẹp thì tuổi trẻ là người sẽ quyết định tương lai này. Tuổi trẻ nước ta đầy rẫy nhân tài
sẽ góp phần cho dáng hình xứ sở. Ngay từ hôm nay, tôi, bạn và tất cả mọi người phải
cố gắng học tập để sau này có thể giúp cho quê hương Thanh Hóa nói riêng và nước
ta nói chung tiến nhanh trên con đường xây dựng và phát triển ngày càng giàu mạnh.

18



×