Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

LUẬN VĂN: Những đề xuất nhằm hoàn thiện hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội trong thời gian tới potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.47 KB, 85 trang )















LUẬN VĂN:

Những đề xuất nhằm hoàn thiện hoạt
động xuất khẩu thuỷ sản của công ty
xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội trong
thời gian tới






Lời mở đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Ngành xuất khẩu thuỷ sản được xây dựng và phát triển mạnh mẽ trong 20 năm


qua và đã hình thành được một ngành công nghiệp chế biến thực phẩm với năng lực
sản xuất lớn trong các ngành chế biến nông sản thực phẩm. Giá trị kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản tăng 49 lần trong 15 năm qua tốc độ tăng trung bình 5 năm ( 1995-
1999 ) là 35% năm, thuộc nhóm tăng trưởng nhanh nhất trong các bộ phận của nền
kinh tế quốc dân. Nhờ đó Việt Nam đã xác lập một vị trí ngày càng cao trên thị
trường thuỷ sản thế giới: được xếp thứ 19 về tổng sản lượng thuỷ sản, thứ 30 về giá
trị kim ngạch xuất khẩu, thứ 5 về sản lượng tôm nuôi và thuộc loại hàng đầu về tốc
độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản.
Nghị quyết hội nghị ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 5 ( Khoá VII )
đã xác định thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn trong phát triển kinh tế Việt Nam, là
ngành kinh tế đứng thứ 3 về kim ngạch xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng nhanh
trong 15 năm qua và còn nhiều tiềm năng để tiếp tục phát triển trong thời gian tới.
Đối với các tỉnh Miền Bắc, ngành thuỷ sản hiện là một thế mạnh góp phần tích
cực vào sự phát triển kinh tế, xã hội của khu vực. Trong những năm qua, ngành thuỷ
sản của vùng đã đem lại một lượng ngoại tệ lớn cho khu vực. Trong ngành thuỷ sản
Việt Nam, thuỷ sản Miền Bắc đóng góp một vai trò quan trọng và được đánh giá là
khu vực có tiềm năng
Trong rất nhiều đơn vị kinh doanh XNK thuỷ sản của khu vực miền bắc,
công ty XNK thuỷ sản Hà Nội ( SEAPRODEX Hà Nội ) được đánh giá là một trong
những đơn vị hàng đầu. Năm 2000 công ty đã xuất khẩu đạt 14 triệu USD. Để giữ
vững và gia tăng vị trí trong điều kiện kinh doanh có cạnh tranh gay gắt, công ty cần
xây dựng những biện pháp kinh doanh hữu hiệu, việc xây dựng một số biện pháp
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản là biện pháp quan trọng nhất đối với công
ty. Những biện pháp đó được áp dụng vào quản lý kinh doanh và được vận dụng cụ



thể vào thực tế của công ty XNK thuỷ sản Hà Nội là một đòi hỏi bức xúc về mặt lý
luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu.

Đề tài nghiên cứu góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và phương pháp luận
chủ yếu về một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty xuất nhập
khẩu thuỷ sản Hà Nội
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
Trong khuôn khổ nghiên cứu, đề tài tập trung vào vấn đề xây dựng một số biện
pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản đó chỉ là một số biện pháp chính và
quan trọng trong vô số các biện pháp cần được quan tâm.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội (
SEAPRODEX Hà Nội ). Đây là một doanh nghiệp nhà nước, hoạt động chủ yếu
trong lĩnh vực XNK thuỷ sản trên địa bàn Miền Bắc.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và các phương
pháp cụ thể khác như: Điều tra phân tích kinh tế, tiếp cận hệ thống. để phục vụ cho
mục đích nghiên cứu.
5. Những đóng góp của đề tài.
-Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp đẩy mạnh xuất
khẩu thuỷ sản của doanh nghiệp.
-Đánh giá đúng thực trạng, phân tích một cách khách quan những tồn tại và
những nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình kinh doanh của công ty
-Xây dựng được một hệ thống những quan điểm định hướng và những biện
pháp đóng góp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của công ty XNK thuỷ
sản Hà Nội
6. Kết cấu luận văn.
Tên luận văn: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
của công ty XNK thuỷ sản Hà Nội ( SEAPRODEX Hà Nội )
Luận văn gồm:



Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,

nội dung luận văn bao gồm:
+ Chương I: Những vấn đề cơ bản về lý luận và phương pháp luận về hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp
+ Chương II: Phân tích tình hình hoạt động của công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà
Nội trong thời gian qua.
+ Chương III: Những đề xuất nhằm hoàn thiện hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của
công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội trong thời gian tới.
























Chương I
nhung van de co ban ve ly luan va
phuong phap luan ve hoat dong
xuat khau cua doanh nghiep
I. Thực chất và tầm quan trọng của hoạt động
xuất khẩu
1) Bản chất của xuất khẩu ( Hoạt động thương mại quốc tế ):
Nền thương mại quốc tế là sự hoạt động buôn bán giữa một quốc gia này với
một quốc gia khác, là sự trao đổi dưới hình thức mua bán hàng hoá và những dịch
vụ kèm theo việc mua bán hàng hoá như bảo hành, sửa chữa, lắp ráp máy móc,
bảo hiểm. Vì là một ngành kinh tế thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá giữa
thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, nên người ta coi ngành này là
cái cầu nối giữa hai thị trường và có tác dụng quan trọng thúc đẩy thị trường trong
nước
Hoạt động thương mại quốc tế của một nước bao gồm 3 nội dung cơ bản :
- Hoạt động ngoại thương: Gồm hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu
- Hoạt động hợp tác: Gồm hợp tác đầu tư và hợp tác khoa học công nghệ
- Hoạt động du lịch và dịch vụ: Là hoạt động vận tải, ngân hàng.
Vậy:
Xuất khẩu: Là hoạt động buôn bán giữa các chủ thể có quốc tịch khác nhau
được thực hiện qua biên giới quốc gia (Đường bộ, hàng không, đường thuỷ ).
Đây là hoạt động cơ bản của ngoại thương, xuất hiện lâu đời do sản xuất phát triển.
Cho đến nay các hình thức xuất khẩu rất đa dạng, hoạt động xuất khẩu diễn ra
trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ
với hàng hoá hữu hình mà cả với hàng hoá vô hình với tỉ trọng ngày càng lớn



Đảng và nhà nước ta có chủ trương mở rộng và phát triển quan hệ đối ngoại và
kinh tế đối ngoại. Trong đó một lĩnh vực cực kỳ quan trọng đó là hoạt động xuất

khẩu hàng hoá. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn phù hợp với thời đại, với
xu thế phát triển của nhiều nước trên thế giới, phù hợp với quy luật kinh tế khách
quan
Thời đại ngày nay là thời đại cùng tồn tại hoà bình, cùng vươn tới ấm no, hạnh
phúc, thời đại mở cửa, mở rộng giao lưu kinh tế. Xu thế phát triển của nhiều nước
trong những năm gần đây là thay đổi chiến lược kinh tế từ đóng cửa sang mở cửa, từ
thay thế nhập khẩu sang hướng xuất khẩu.
2) Tính tất yếu của hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là hoạt động tất yếu của quốc gia trong quá trình phát triển Mỗi một
quốc gia có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực, các
nguồn tài nguyên giữa các quốc gia dẫn đến sự khác biệt về các thế mạnh trong các
lĩnh vực khác nhau của mỗi quốc gia. Để tạo ra sự cân bằng trong quá trình sản xuất
và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi hàng hoá và dịch vụ cho nhau.
Tuy nhiên xuất khẩu không chỉ diễn ra giữa các quốc gia có lợi thế về lĩnh vực
này hay lĩnh vực khác. Ngay cả khi quốc gia không có lợi thế về điều kiện tự nhiên,
nguồn lực quốc gia đó vẫn có thể thu được lợi ích không nhỏ khi tham gia vào hoạt
động xuất khẩu.
Ta thấy rằng nền kinh tế đóng cửa về cơ bản là phát triển kinh tế theo hình
thức tự cung, tự cấp, tự sản xuất thay thế nhập khẩu, đi ngược lại với quá trình xã
hội hoá của nền sản xuất, đi ngược lại sự phát triển tất yếu của lực lượng sản xuất.
Nó không phù hợp với các quy luật phát triển khách quan của thế giới. Chính sách
đóng cửa không thể tồn tại do những nguyên nhân sau:
- Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế quốc tế ngày càng cao, sự phân
công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, các nước ngày càng phụ thuộc vào nhau
và tham gia tích cực hơn vào quá trình liên kết và sự hợp tác kinh tế quốc tế, một
chính sách biệt lập, đóng cửa là không thích hợp



-Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, trở thành một nhân tố

quyết định sự phát triển của sản xuất. Trong khi đó chính sách đóng cửa đã hạn chế
khả năng tiếp thu kỹ thuật mới, làm cho nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất
nhỏ là phổ biến, không có nguồn bổ xung kĩ thuật tiên tiến. Kết quả tất yếu là năng
xuất lao động thấp, hiệu quả kém, khả năng cạnh tranh yếu, tốc độ tăng trưởng
chậm.
- Hầu hết các nước nghèo, lạc hậu hoặc đang phát triển đều thiếu vốn. Trong
khi đó quá trình phát triển công nghiệp đòi hỏi phải nhập khẩu một khối lượng ngày
càng nhiều máy móc thiết bị, nguyên liệu công nghiệp mà trong nước không tự sản
xuất được. Nếu không phát triển mạnh xuất khẩu thì vấn đề ngày càng trở nên gay
gắt, thiếu hụt trong cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán ngày càng lớn.
- Thị trường trong nước nhỏ hẹp, không đủ đảm bảo cho sự phát triển công
nghiệp với qui mô hiện đại, sản xuất hàng loạt do đó không tạo thêm việc làm, đây
là một vấn đề mà các nước nghèo và các nước đang phát triển luôn luôn phải giải
quyết
Nền kinh tế mở cửa sẽ mở ra những hướng phát triển mới tạo điều kiện khai
thác lợi thế, tiềm năng sẵn có của một nước, nhằm sử dụng trong sự phân công lao
động quốc tế một cách có lợi nhất. Trong thời đại ngày nay trên thế giới đã và đang
diễn ra những biến động to lớn và sâu sắc. Những thay đổi đó, một mặt tạo ra cơ hội
để các nước đang phát triển như nước ta vươn lên nhằm đạt được mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội. Mặt khác cũng đặt ra thách thức đòi hỏi mỗi quốc gia phải đối phó và
giải quyết
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như ở nước ta, có
những nhân tố thuộc tiềm năng là: tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những
nhân tố thiếu và yếu là vốn, khoa học kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý.
Chiến lược hướng vào xuất khẩu về thực chất là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm
tranh thủ vốn và kĩ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với những tiềm năng bên
trong về lao động và tài nguyên thiên nhiên, để tạo ra sự tăng trưởng nhanh về




kinh tế cho đất nước góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước giàu
trên thế giới
Để đạt mục tiêu đó, nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp trong đó biện
pháp lớn nhất và quan trọng nhất là biện pháp cải tổ nền kinh tế quốc dân theo
hướng mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại trọng tâm là xuất khẩu và ưu tiên cao
cho các ngành đem lại thu nhập cao cho đất nước. Đó là các ngành nông, công
nghiệp sản xuất các sản phẩm có nhiều lượng tài nguyên thiên nhiên lớn và lao động
cao để sản xuất ra các sản phẩm để xuất khẩu. Ngoài ra nhà nước ta còn có các biện
pháp sau:
- Đưa các luật đầu tư hấp dẫn có nhiều ưu đãi để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài
nhằm phát triển các ngành công nông nghiệp xuất khẩu, đổi mới và hiện đại hoá cơ
sở hạ tầng kinh tế đa dạng hoá nền sản xuất xã hội
- Khuyến khích phát triển kinh tế hàng hoá, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần phát
triển quan hệ kinh tế hàng hoá, tiền tệ
- Thực hiện cơ chế quản lý có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua các chương
trình và kế hoạch hoá có tính chất hướng dẫn và hệ thống chính sách điều chỉnh kinh
tế theo các chương trình kinh tế đó. Điều này được thể hiện rõ trong các chính sách
về thuế, đầu tư, tỷ giá hối đoái, tín dụng ngân hàng.
Qua việc thực hiện một loạt các biện pháp nêu trên chúng ta đã thu được một
số kết quả nhất định về hoạt động kinh tế đối ngoại trong đó có xuất khẩu. Chúng ta
đã có cơ sở để khẳng định trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, phương hướng đổi mới
do đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, đề ra là đúng đắn. Tuy nhiên để vượt qua thử
thách của thời đại, phải tiếp tục đổi mới kinh tế đối ngoại một cách đồng bộ và có hệ
thống, cơ sở khoa học.
Trong điều kiện đó, các đơn vị trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu không
tránh khỏi khó khăn, vấp váp nhất định. Cơ chế kinh tế mới đòi hỏi các đơn vị phải
nhanh chóng thích nghi với môi trường mới, kinh doanh theo những định hướng của
nhà nước đồng thời phải tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Không ngừng hoàn thiện hoạt động sản xuất kinh




doanh theo hướng ngày càng gắn với thị trường, lấy thị trường làm điểm xuất phát
và mục tiêu của hoạt động kinh doanh tốt là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và
phát triển
3) Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là quá trình tiêu thụ hàng hoá được thực hiện qua biên giới quốc gia
nên có đặc điểm chủ yếu sau:
- Khách hàng trong hoạt động xuất khẩu là người nước ngoài, loại khách hàng
này có những đặc điểm khác biệt với khách hàng trong nước về ngôn ngữ, lối sống,
mức sống, phong tục, tập quán, tôn giáo Do đó, trước khi xuất khẩu đòi hỏi doanh
nghiệp phải nghiên cứu kĩ thị trường và tìm hiểu về nhu cầu nhằm thoả mãn nhu cầu
của họ bằng hàng hoá thích hợp
- Thị trường trong hoạt động xuất khẩu thường phức tạp và khó tiếp cận do
cách xa về mặt địa lý, khó khăn về thu nhập và sử lý thông tin, sự khác biệt về môi
trường pháp lý. Sự khó khăn trong vận chuyển hàng hoá
- Xuất khẩu thông qua hợp đồng với khối lượng lớn nên đòi hỏi kĩ càng,
chặt chẽ, tránh nhầm lẫn, khiếu nại, tranh chấp về sau.
Các nghiệp vụ liên quan đến xuất khẩu như : Thanh toán, vận chuyển, kí kết
hợp đồng đều phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro. Xuất khẩu có thể đem lại những
hiệu quả cao về kinh tế hơn so với tiêu thụ trong nước.
4) Các hình thức xuất khẩu hàng hoá:
Khi tiến hành kinh doanh xuất khẩu, các doanh nghiệp phải nghiên cứu và
đánh giá ưu điểm, nhược điểm của từng hình thức kinh doanh xuất khẩu và đưa ra
quyết định chính xác để lựa chọn được hình thức kinh doanh phù hợp nhất với môi
trường và khả năng của mình
a) Xuất khẩu trực tiếp:
Doanh nghiệp có giấy phép xuất khẩu của nhà nước, trực tiếp xuất khẩu sản
phẩm của mình ra nước ngoài, không thông qua đơn vị trung gian. Doanh nghiệp
trực tiếp kí kết các hợp đồng xuất khẩu, tổ chức sản xuất giao hàng và tổ chức các

nguồn hàng, bao bì vận chuyển và thanh toán nguồn hàng



- Ưu điểm: Do doanh nghiệp chủ động, tìm kiếm, thâm nhập thị trường,
trực tiếp tiếp xúc, đàm phán với khách hàng nước ngoài, do đó dễ nắm bắt được
thông tin và nhu cầu của khách hàng, đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường,
gợi mở và kích thích nhu cầu. Doanh nghiệp hiểu rõ sản phẩm của mình làm ra nên
có quyết định nhanh chóng, chính xác về giá cả, thời hạn giao hàng, tăng tính cạnh
tranh của sản phẩm, giảm chi phí gián tiếp
- Nhược điểm: Trong điều kiện doanh nghiệp mới tham gia vào hoạt động kinh
doanh xuất khẩu nếu áp dụng hình thức này rất khó do điều kiện vốn sản xuất hạn
chế, do đó khó chủ động trong việc tìm kiếm nguồn hàng và khả năng chớp thời cơ
thấp, kinh nghiệm, am hiểu thương trường quốc tế còn thấp kém, uy tín, nhãn hiệu
sản phẩm còn xa lạ với khách hàng
b) Xuất khẩu uỷ thác :
Là hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp phải kí hợp đồng uỷ thác cho doanh
nghiệp chức năng xuất khẩu thay mặt mình làm thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng
hoá. Doanh nghiệp đó hưởng phần trăm chi phí uỷ thác theo giá trị hàng xuất khẩu
và trực tiếp đứng ra chịu trách nhiệm toàn bộ các công việc đã thoả thuận trong hợp
đồng uỷ thác xuất khẩu như thu gom, vận chuyển, hoá đơn chứng từ giao nhận
hàng hoá và thanh toán trực tiếp cho nhà sản xuất
- Ưu điểm: Công ty xuất khẩu uỷ thác không phải bỏ vốn vào kinh doanh tránh
được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là hoa hồng xuất
khẩu. Do chỉ thực hiện hoạt động xuất khẩu nên tất cả các chi phí từ nghiên cứu thị
trường, giao dịch đàm phán, kí kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng không phải chi,
dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh của công ty
- Nhược điểm: Công ty xuất khẩu uỷ thác do không phải bỏ vốn vào kinh
doanh nên hiệu quả kinh doanh thấp, không đảm bảo tính chủ động trong kinh
doanh, thị trường và khách hàng bị thu hẹp do hoạt động này không chủ động tìm

kiếm thị trường và tìm kiếm khách hàng, không có bước đột phá trong việc sinh lời
cũng như tạo ra siêu lợi nhuận
c) Gia công quốc tế :



Là loại hình chế biến sản phẩm theo mẫu mã, tiêu chuẩn kĩ thuật của hai quốc
gia. Bên sản xuất( bên B ) nhận trước nguyên liệu, thiết bị kĩ thuật để sản xuất ra sản
phẩm giao cho bên đặt làm ( bên A ) và nhận tiền công theo hợp đồng
Gia công quốc tế xuất phát từ lợi ích của hai bên. Bên A có nguyên liệu, có
nhu cầu và thành phẩm ổn định, có thị trường tiêu thụ, tận dụng nguồn nhân công rẻ
mạt, nhàn hạ, giá thành thấp nên đưa công đoạn chế biến ra nước ngoài. Bên B
thiếu vốn và kĩ thuật nhưng lại có nhân công, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu
nhập, thiếu thiết bị kĩ thuật mới và kinh nghiệm quản lý, tiếp xúc với thị trường
nước ngoài
- Ưu điểm: Doanh nghiệp không phải bỏ vốn vào kinh doanh, không phải lo
đầu vào, và quan trọng là không phải lo đầu ra, rủi ro ít, thị trường đảm bảo và an
toàn. Do vậy Việt Nam là nước hay nhận gia công do có nguồn nhân lực phong phú,
giá nhân công rẻ nhưng công nghệ sản xuất kém nên các doanh nghiệp nhận đặt
hàng gia công thường đầu tư máy móc thiết bị dây truyền công nghệ phù hợp cho
quá trình sản xuất. Vì thế các doanh nghiệp nhận gia công vừa được đầu tư thiết bị
công nghệ, vừa có điều kiện học hỏi kinh nghiệm, tạo điều kiện cho sản xuất phát
triển, từ đó nâng cao được chất lượng sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh trên thị
trường thế giới
- Nhược điểm: Hình thức này đòi hỏi phải làm nhiều thủ tục nhập và xuất,
qua nhiều khâu trung gian. Đòi hỏi đội ngũ cán bộ xuất nhập khẩu có năng lực, trình
độ, kinh nghiệm tốt trong lĩnh vực XNK. Các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động
này thường bị động về vấn đề thị trường, không biết sự biến động của nó, chính
vì vậy lợi nhuận đạt được từ hoạt động này thường là quá thấp so với các doanh
nghiệp xuất khẩu trực tiếp

d) Hình thức hàng đổi hàng:
Là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập
khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng nhập có giá trị tương đương
với lượng hàng xuất khẩu



Doanh nghiệp tăng được tiêu thụ sản phẩm về đối tượng hàng mình có nhu cầu
và mua được những mặt hàng trong nứơc cần để hoàn thu được lợi nhuận đồng thời
tạo được sự tin tưởng và lệ thuộc vào nhau hơn, hình thức này tiết kiệm được chi phí
vận chuyển
e) Xuất khẩu theo nghị định thư:
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá ( thường là gán nợ ) được kí theo nghị
định thư giữa hai chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có nhiều ưu đãi hơn
nhưng khả năng thanh toán chắc chắn do nhà nước trả, giá cả hàng hoá tương đối
cao, việc sản xuất thu mua có nhiều sự ủng hộ ưu tiên. Song trên thực tế, hình thức
này được sử dụng chủ yếu ở các nước XHCN trước đây, còn hiện nay ít được áp
dụng
f) Xuất khẩu tại chỗ :
Hình thức này rất mới nhưng đang được phổ biến rộng rãi. Đặc điểm của hình
thức này là hàng hoá không bắt buộc phải vượt ra biên giới quốc gia
Do vậy giảm được chi phí cũng như rủi ro trong quá trình vận chuyển và bảo quản
hàng hoá. Thủ tục xuất khẩu trong hình thức này cũng đơn giản, không nhất thiết
phải có các hợp đồng phụ trợ như hợp đồng vận tải, bảo hiểm hàng hoá và thủ tục
hải quan.
II. Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
1) Đối với nền kinh tế thế giới.
Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên
của thương mại quốc tế, xuất khẩu có một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như của toàn thế giới. Do những điều kiện

khác nhau nên một quốc gia có thế mạnh về lĩnh vực này nhưng lại yếu về lĩnh vực
khác. Vì vậy, để có thể khai thác được lợi thế, tạo ra sự cân bằng trong quá trình sản
xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi với nhau dựa trên lý thuyết
lợi thế so sánh của D.Ricardo.
Ông nói rằng :” Nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với quốc gia khác
trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào



thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích của chính mình ’’ và khi tham gia vào thương
mại quốc tế thì ’’quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất các loại hàng hoá sẽ tiến
hành chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những loại hàng hoá mà việc sản xuất
ra chúng là ít bất lợi nhất và nhập khẩu những loại hàng hoá mà việc sản xuất ra
chúng có bất lợi lớn hơn ’’. nói cách khác, một quốc gia trong tình huống bất lợi vẫn
có thể tìm ra điểm có lợi để khai thác. Bằng việc khai thác các lợi thế này các quốc
gia tập chung vào sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế tương đối
Sự chuyên môn hoá đó làm cho mỗi quốc gia khai thác được lợi thế của mình
một cách tốt nhất, giúp tiết kiệm được nguồn lực như vốn, kỹ thuật, nhân
lực trong quá trình sản xuất hàng hoá. Do đó tổng sản phẩm trên quy mô toàn thế
giới cũng sẽ được gia tăng
2) Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia.
Xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại chủ yếu của một quốc gia. Các lý
thuyết về thương mại quốc tế đã chỉ ra tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu là
một trong những yếu tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế nước
nhà. Thực tế đã chứng minh rằng các nước đã tiến nhanh trên con đường tăng
trưởng và phát triển kinh tế là các nước có nền ngoại thương mạnh và năng động
a) Tạo nguồn vốn cho nhập khẩu : Để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước
- Các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều chỉ ra rằng tăng trưởng
và phát triển kinh tế quốc gia cần 4 điều kiện : Nguồn lực – Tài nguyên – Vốn – Kĩ

thuật công nghệ. Song hầu hết các quốc gia đang phát triển đều thiếu 2 yếu tố quan
trọng là vốn và kĩ thuật công nghệ. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với những bước
đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu của một
quốc gia, đòi hỏi một lượng vốn lớn để nhập máy móc thiết bị kĩ thuật, công nghệ
tiên tiến và chuyên gia giỏi. Nguồn vốn nhập khẩu có thể được đáp ứng từ các
nguồn sau:
+ Vốn đầu tư nước ngoài (Trực tiếp, gián tiếp). Vay nợ, viện trợ
+ Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ



+ Thu từ xuất khẩu hàng hoá
Ta thấy rằng các nguồn đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ tuy quan trọng nhưng về
lâu dài đều phải trả hoặc nhượng bộ đối với đối tác trong nhiều lĩnh vực. Đảng và
nhà nước ta đã khẳng định, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải dựa chủ
yếu vào nội lực. Vì vậy nguồn vốn thu được từ hoạt động xuất khẩu là rất quan
trọng, nó giúp ta có thể chủ động trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước
Mặt khác xuất khẩu sẽ quyết định quy mô và tốc độ phát triển của nhập khẩu,
mọi cơ hội đầu tư, vay nợ hoặc viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư
hay người cho vay thấy được khả năng sản xuất và nhập khẩu của nước đó
- Năm 1986 – 1990 nguồn thu từ xuất khẩu của nước ta chiếm 75% tổng thu
ngoại tệ và nguồn thu từ xuất khẩu năm 1994 đã đảm bảo được 80% nguồn vốn cho
nhập khẩu. Năm 1995 là 65,9% và càng những năm trở lại đây tỷ lệ nhập khẩu được
bù đắp bằng xuất khẩu tăng lên đáng kể
b) Xuất khẩu góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế : Thúc đẩy sản xuất
phát triển
Có hai xu hướng xuất khẩu :
- Xuất khẩu đa dạng : Là xuất khẩu nhiều mặt hàng để thu ngoại tệ, nhưng ở
xu hướng này quy mô các mặt hàng nhỏ bé, khả năng cạnh tranh trên thị trường về

giá cả và chất lượng đều không cao, do không được tập chung đầu tư, vì thế kết quả
thu được không cao
- Xuất khẩu mũi nhọn : Là tập chung xuất khẩu những mặt hàng mà mình có
điều kiện nhất, có lợi thế so sánh nhất. Đó chính là chuyên môn hoá trong sản xuất
và phân công lao động quốc tế. Khi chuyên sâu phát triển một mặt hàng nhất định
thì ta có điều kiện khả năng chiếm lĩnh thị trường, từ đó có thể thu được lợi nhuận
cao, khi mặt hàng xuất khẩu thu được lợi nhuận cao thì các doanh nghiệp sẽ tập
chung đầu tư phát triển mặt hàng đó và dẫn đến phát triển ngành hàng có liên quan



Chẳng hạn sự phát triển của ngành thuỷ sản xuất khẩu sẽ tạo cơ hội tốt cho
việc tập hợp các ngành nghề liên quan như chế biến, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản
để cung cấp nguyên liệu phục vụ cho ngành thuỷ sản xuất khẩu
c) Xuất khẩu góp phần giải quyết công ăn việc làm: Dẫn đến cải thiện đời sống
nhân dân
Để tập chung phát triển các ngành hàng xuất khẩu thì phải cần thêm lao động.
Còn để xuất khẩu có hiệu quả thì phải tận dụng được lợi thế đó là lao động có số
lượng lớn, có trình độ văn hoá, giá nhân công rẻ. Chính vì vậy, nước ta chủ
trương phát triển ngành nghề cần nhiều lao động. Sản xuất hàng xuất khẩu thu hút
hàng triệu lao động vào làm việc và làm cho họ có thu nhập khá hơn. Ngoại tệ xuất
khẩu được dùng để nhập khẩu các vật phẩm tiêu dùng đáp ứng ngày một phong phú
nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
d) Là điều kiện thúc đẩy và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc
lẫn nhau. Xuất khẩu là một nội dung của kinh tế đối ngoại và tạo điều kiện thúc đẩy
các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư,
vận tải giữa các quốc gia với nhau
Qua hoạt động xuất khẩu, hàng hoá của Việt Nam được bày bán trên thị trường
quốc tế sẽ thu hút được sự chú ý của các đối tác nước ngoài. Các doanh nghiệp nước

ngoài sẽ tìm đến đầu tư, hợp tác, liên doanh để cùng tìm kiếm lợi nhuận. Từ đó quan
hệ kinh tế đối ngoại ngày càng được mở rộng
2) Đối với một doanh nghiệp:
Đối với nước ta thì nhiệm vụ của nền ngoại thương là góp phần thực hiện
đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và đường lối đối ngoại của Đảng
cộng sản Việt Nam. Xuất khẩu góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề
sau:
- Nhờ thu nhập thông qua xuất khẩu để tăng lợi nhuận. Các sản phẩm của
doanh nghiệp khi đem xuất khẩu đều là những sản phẩm có chất lượng cao, đạt
tiêu chuẩn nhất định, hình thức mẫu mã đẹp. Thông thường giá một mặt hàng xuất



khẩu cũng cao hơn giá của mặt hàng đó khi tiêu thụ ở thị trường nội địa. Thông qua
xuất khẩu nhất là xuất khẩu trực tiếp thì doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận
nhiều hơn từ đó doanh nghiệp có cơ sở để tăng lợi nhuận
- Nhờ hoạt động xuất khẩu mà doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường
Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp mở rộng việc tiêu thụ sản phẩm, xuất khẩu
tạo điều kiện cho doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào thị trường thế giới, mở rộng
quan hệ kinh doanh với bạn hàng trong và ngoài nước.
- Qua xuất khẩu doanh nghiệp có điều kiện cải thiện đời sống cán bộ công
nhân viên. Như ta đã biết, xuất khẩu là biện pháp chủ yếu để doanh nghiệp tăng lợi
nhuận, lợi nhuận thu được từ xuất khẩu giúp doanh nghiệp có điều kiện cải thiện đời
sống cho người lao động. Từ nguồn lợi nhuận này doanh nghiệp có nguồn ngoại tệ
để đầu tư máy móc thiết bị, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động, giúp
cho sức khoẻ của họ ngày càng tốt hơn. Lợi nhuận thu được từ xuất khẩu, doanh
nghiệp có thể bổ xung vào quỹ lương, quỹ phúc lợi, góp phần nâng cao thu nhập và
đời sống của người lao động
- Góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề sử dụng có hiệu quả hơn
nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc đưa các nguồn tài nguyên này tham gia vào sự

phân công lao động quốc tế, thông qua việc phát triển các ngành chế biến xuất khẩu
đã góp phần nâng cao giá trị hàng hoá
III. Nội dung chủ yếu của công tác kinh doanh
xuất khẩu của doanh nghiệp XNK
Kinh doanh xuất nhập khẩu là một hoạt động kinh tế thương mại đối ngoại rất
phức tạp. Đó là một quá trình kinh doanh bao gồm rất nhiều khâu khác nhau. Mỗi
khâu lại bao gồm nhiều loại hoạt động mang những đặc điểm riêng và được tiến
hành theo cách thức nhất định. Hoạt động thương mại này rất phức tạp bởi lẽ chịu sự
điều tiết của nhiều hệ thống pháp luật, hệ thống tiền tệ và tín dụng thanh toán,
chính sách đối nội, đối ngoại của từng nước và có những đặc thù riêng hơn nữa bạn
hàng lại ở xa, thông tin liên lạc qua fax, điện thoại, dẫn đến chi phí cao, phải dùng
hệ thống ngôn ngữ quốc tế để trao đổi giao dịch. Do đó yêu cầu đối với người cán



bộ ngoại thương phải có cái nhìn tổng quát, có những kiến thức chuyên môn về kinh
doanh thương mại để phân tích, sàng lọc những thông tin để nắm vững những nội
dung của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, để đi đến một quyết định đúng đắn
trước khi bắt tay vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu nhằm tạo mọi thuận lợi đi đến
kết quả thành công
Vậy nội dung chủ yếu của hoạt động xuất khẩu gồm:
1) Nghiên cứu thị trường quốc tế:
Đây là đầu tiên cần tiến hành hết sức cẩn thận và chu đáo. Nghiên cứu thị
trường tốt tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận được quy luật vận động của
từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu cung cấp và giá cả hàng hoá
đó trên thị trường
a) Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới:
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại quốc tế việc nghiên cứu thị
trường trong nước chưa đủ mà còn phải nghiên cứu thị trường nước ngoài. Thị
trường nước ngoài có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong kinh doanh xuất nhập

khẩu. Khi nghiên cứu và tiếp cận thị trường nước ngoài yêu cầu với cán bộ ngoại
thương phải nắm vững nội dung sau:
- Những điều kiện về thương mại quốc tế nói chung
- Luật pháp và những chính sách về kinh tế đối ngoại của từng nước, của
mỗi khu vực thị trường trên thế giới
- Điều kiện về chính sách tiền tệ và thanh toán của từng nước
- Dung lượng thị trường, phong tục tập quán và thị hiếu tiêu dùng, khả năng
tiêu thụ, uy tín chất lượng của từng mặt hàng xuất khẩu đó trên mỗi khu vực thị
trường
- Doanh nghiệp còn phải kết hợp nghiên cứu, vận dụng các chính sách cho
đúng pháp luật, đồng thời phải phù hợp với đường lối kinh tế đối ngoại của Việt
Nam
+ Chính sách kinh tế đối nội, đối ngoại
+ Chính sách về xuất nhập khẩu



+ Chính sách về tài chính tín dụng tiền tệ và thanh toán ngoại tệ
b) Lựa chon khai thác mặt hàng kinh doanh
Hàng hoá để kinh doanh xuất nhập khẩu cần phải tìm hiểu kĩ về khía cạnh
thương phẩm để hiểu biết giá trị sử dụng, công dụng cũng như giá trị kinh tế của nó.
Nắm được những đặc tính của hàng hoá và những yêu cầu của thị trường về hàng
hoá đó như quy cách, phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu trên thị trường quốc tế, cách
phân loại đóng gói để chủ động giao dịch mua bán
Phải khai thác nguồn hàng tại khu vực địa phương, đúng thời vụ, cách thu
mua nguyên liệu, khả năng sản xuất chế biến ra nguồn hàng đó có thể kinh doanh
xuất nhập khẩu được, khả năng thu mua vận chuyển hàng hoá, chi phí và giá cả đầu
vào của một đơn vị hàng hoá
c) Lựa chọn đối tác kinh doanh:
Việc nghiện cứu thị trường giúp cho doanh nghiệp kinh doanh chọn được thị

trường thích hợp, thời cơ thuận lợi, phương thức kinh doanh và điều kiện giao dịch
dễ dàng hơn
Tuy nhiên kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh còn phụ thuộc vào phần lớn
là khách hàng. Trong nhiều trường hợp khách hàng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng
đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong những điều kiện như
nhau, việc giao dịch với khách hàng này thì bất lợi nhưng với khách hàng khác thì
thành công hoặc có khi giao dịch thành công rồi nhưng lúc đang thực hiện hợp đồng
lại xảy ra những bất khả kháng gây khó khăn và ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả
kinh doanh. Vì vậy một nhiệm vụ quan trọng của doanh nghiệp khi kinh doanh xuất
nhập khẩu là phải nghiên cứu lựa chọn khách hàng
Để nghiên cứu lựa chọn khách hàng ngoài việc cần tìm hiểu kĩ về uy tín, khả
năng phát triển và thái độ chính trị của thương nhân ta còn phải đặc biệt chú ý đến
sở trường của họ trong lĩnh vực kinh doanh, khả năng tài chính, khả năng thanh toán
của họ. , không nên chỉ căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới thiệu. Và từ đó ta
có thể dựa vào những đặc điểm, số lượng, chủng loại, chất lượng mặt hàng để lựa
chọn khách hàng, chào hàng để họ có thể trả giá cho mặt hàng xuất khẩu đó. Từ đó



ta có thể xác định được đầu ra và đầu vào của mặt hàng mà doanh nghiệp kinh
doanh. Sau đó doanh nghiệp lập phương án kinh doanh
d) Nghiên cứu giá cả trên thị trường thế giới:
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu hiện một cách
tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế như quan hệ cung cầu hàng
hoá, tích luỹ tiêu dùng. Giá cả luôn gắn với thị trường và chịu tác động của nhiều
nhân tố
Trong buôn bán quốc tế, giá cả thị trường rất phức tạp do việc buôn bán diễn ra
ở các khu vực khác nhau và trong thời gian dài. Mặt khác, hàng hoá được vận
chuyển qua nhiều nước có các chính sách thuế khác nhau nên giá cả cũng khác
nhau. Do vậy, để thích ứng với sự biến động của thị trường các nhà kinh doanh phải

thực hiện việc định giá linh hoạt và phù hợp với mục đích cơ bản của doanh nghiệp.
Thông thường việc định giá dựa vào giá thành và các chi phí khác ( chi phí vận tải,
bảo hiểm ), sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng cũng như gía cả của hàng hoá
cạnh tranh khác
Khi định gía cần tuân thủ các bước sau:
- Bước 1: Phân tích chi phí
- Bước 2: Phân tích và dự đoán thị trường
- Bước 3: Vùng giá và các mức giá dự kiến
- Bước 4: Lựa chọn giá tối đa
- Bước 5: Xác định cơ cấu giá
- Bước 6: Báo giá cho khách hàng
Nghiên cứu giá cả được coi là vấn đề chiến lược ưu tiên vì nó ảnh hưởng trực
tiếp tới sức tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp. Định giá đúng sẽ đem lại thắng
lợi cho nhà xuất khẩu, tránh cho họ những rủi ro và thua lỗ
e) Thanh toán trong thương mại quốc tế:
Thanh toán quốc tế là một trong những khâu quan trọng trong kinh doanh xuất
nhập khẩu hàng hoá. Hiệu quả kinh doanh phần lớn phụ thuộc vào sự lựa chọn
phương thức thanh toán. Thanh toán đảm bảo cho người xuất khẩu thu được tiền và



người nhập khẩu nhận được hàng. Thanh toán quốc tế có thể hiểu đó là việc chi trả
những khoản tiền tệ, tín dụng có liên quan đến việc xuất khẩu hàng hoá đã được
thoả thuận trong hợp đồng kinh tế. Để giảm bớt được rủi ro trong kinh doanh, khi
thanh toán ta phải xem xét kĩ vấn đề tiền tệ trong thanh toán quốc tế, thời hạn thanh
toán, phương thức thanh toán và các điều kiện đảm bảo thanh toán
2) Lập phương án kinh doanh:
Trên cơ sở những kết quả thu lượm được trong quá trình nghiên cứu thị
trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án này là kế
hoạch hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt tới những mục tiêu xác định trong kinh

doanh. Việc xây dựng phương án này bao gồm:
- Đánh giá tình hình thị trường, phác hoạ bức tranh tổng quát về hoạt động
kinh doanh và đưa ra những khó khăn thuận lợi.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa
chọn này phải có tính thuyết phục dựa trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan.
- Đề ra mục tiêu cụ thể : Khối lượng, giá bán và thị trường xuất khẩu
- Đưa ra các biện pháp để thực hiện các mục tiêu đó.
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua các chỉ tiêu
chủ yếu như: tỷ suất ngoại tệ, thời gian hoàn vốn, điểm hoà vốn
3) Nguồn hàng cho xuất khẩu:
Chúng ta đều biết rằng, việc nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng tốt sẽ góp phần
đáp ứng kịp thời, chính xác nhu cầu thị trường và thực hiện đúng thời hạn hợp đồng
với chất lượng tốt. Vậy nguồn hàng cho xuất khẩu là gì ? Đó là toàn bộ hàng hoá
của một công ty hay một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng
xuất khẩu được. Để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể đầu
tư trực tiếp hoặc gián tiếp cho sản xuất, có thể là thu gom hoặc kí hợp đồng với các
đơn vị sản xuất và với các chủ hàng
Nguồn hàng cho xuất khẩu ổn định là tiền đề cho việc phát triển kinh doanh
của các doanh nghiệp. Thông thường người ta tìm nguồn hàng cho xuất khẩu thông



qua việc nắm bắt khả năng cung ứng hàng xuất khẩu của các đơn vị trong và ngoài
ngành
4) Đàm phán ký kết hợp đồng:
a) Các hình thức đàm phán
Đàm phán là việc bàn bạc, trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến ký kết hợp đồng. Thông thường có các hình
thức : Đàm phán qua thư tín, đàm phán qua điện thoại, đàm phán bằng cách gặp gỡ
trực tiếp Hình thức thứ ba thường được dùng khi có điều kiện phải giải quyết cặn

kẽ để thuyết phục nhau hoặc là những hoạt động lớn phức tạp.
Khi đàm phán ta phải tiến hành theo các bước sau:
- Bước 1: Chào hàng: Đây là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng
của mình, là lời đề nghị ký kết hợp đồng
- Bước 2: Hoàn giá: Khi người nhận được đơn chào hàng nhưng không chấp
nhận hoàn toàn đơn chào hàng đó mà đưa ra một lời đề nghị mới thì lời đề nghị này
gọi là hoàn giá
- Bước 3: Chấp nhận: Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào hàng
mà phái bên kia đưa ra. Sau đó tiến hành ký kết hợp đồng
- Bước 4: Xác nhận: Sau khi hai bên thoả thuận với nhau về điều kiện giao
dịch, có thể ghi lại tất cả các thoả thuận gửi cho bên kia. Đó là văn kiện có chữ ký
của cả hai bên
b) Hợp đồng kinh tế về xuất khẩu hàng hoá
Đối với quan hệ mua bán hàng hoá, sau khi các bên mua và bán tiến hành giao
dịch, đàm phán có kết quả thì phải thực hiện lập và ký kết hợp đồng. Trong đó,
quyền hạn và nghĩa vụ các bên phải được quy định rõ ràng và đầy đủ. Đối với các
đơn vị xuất khẩu nước ta, hợp đồng thể hiện bằng văn bản là một hình thức bắt
buộc. Đây là hình thức tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên.
Khi ký kết hợp đồng cần chú ý những điểm sau:
- Hợp đồng cần trình bày rõ ràng, sáng sủa, phản ánh nội dung đã thoả thuận,
không để tình trạng mập mờ và tránh suy luận



- Hợp đồng cần đề cập đầy đủ mọi vấn đề, tránh việc phải áp dụng tập quán để
giải quyết những vấn đề bên kia không đề cập đến. Trong hợp đồng không được có
những điều khoản trái với luật lệ hiện hành ở nước người xuất khẩu và nhập khẩu.
- Ký kết hợp đồng phải là người thực sự có thẩm quyền ký kết.
- Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng là ngôn ngữ phổ biến mà hai bên đều thông
thạo.

c) Thực hiện hợp đồng
Sau khi hợp đồng được ký kết thì đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải thực hiện
theo các qui định ghi trong hợp đồng, tiến hành sắp xếp lại những phần việc phải
làm, ghi thành bảng biểu theo dõi tiến bộ thực hiện hợp đồng, ghi lại những diễn
biến kịp thời, những văn bản phát đi và nhận được để xử lý và giải quyết cụ thể.
Đồng thời phải đảm bảo được quyền lợi quốc gia và suy tính kinh tế của đơn vị.
Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu như sau:

III. Đặc điểm của mặt hàng thuỷ sản và vai trò
của xuất khẩu thuỷ sản trong kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam
1) Đặc điểm của mặt hàng thuỷ sản:
a) Tiềm năng:
Ký kết hợp
đ
ồng xuất
Kiểm tra L/C
Xin gi
ấy phép

xu
ất khẩu

Chuẩn bị

hàng hoá

Gửi hàng

lên tàu


Làm thủ tục


h
ải quan

Kiểm nghiệm

hàng hoá

Uỷ thác

lên tàu

Mua

b
ảo hiểm

Làm thủ tục

thanh toán

Giải quyết

khi
ếu nại

Thanh lý


h
ợp
đ
ồng




Việt Nam là một nước có một bờ biển dài 3260 km, cùng với hàng trăm con
sông lớn nhỏ và hàng chục vạn ao, hồ, đầm và có rất nhiều đảo và quần đảo ở ngoài
biển Đông. Đồng thời với đó là điều kiện về khí hậu nhiệt đới cũng là một yếu tố
đóng góp vào tiềm năng phát triển và khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản
Vùng đặc quyền kinh tế biển của Việt Nam rộng tới trên 1 triệu km, ngoài
khơi có trên 4000 dảo lớn nhỏ là điều kiện thuận lợi cho việc khai thác nguồn lợi hải
sản.Theo số liệu điều tra chưa đầy đủ, sản lượng khai thác hải sản hàng năm của
Việt Nam khoảng 1, 2-1, 4 triệu tấn trong đó ngoài cá là sản phẩm chính còn có
khoảng 50-60 nghìn tấn tôm biển và 40 nghìn tấn mực và nhiều loại đặc sản có giá
trị kinh tế cao
Tiềm năng nghề nuôi thuỷ sản ở VN cũng rất lớn, VN có khoảng 1,4 triệu ha
các loại hình mặt nước có thể nuôi trồng thuỷ sản trong đó, có 30 vạn ha bãi triều và
gần 40 vạn ha ao, hồ, sông, suối, 60 vạn ha ao hồ nhỏ ruộng trũng và hơn 80 vạn ha
là vùng vịnh, đầm phá. Điều kiện tự nhiên thuận lợi giúp cho VN có thể đạt sản
lượng nuôi trồng hàng năm khoảng 500 vạn tấn gồm cá nước ngọt và các loại hải
sản khác. Hiện nay ở VN đã hình thành các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung tại
đồng bằng sông Cửu Long và ven biển miền Trung. VN đã đầu tư xây dựng 115 cơ
sở sản xuất tôm con giống
Hình thức nuôi quản canh năng suất thấp, phụ thuộc phần lớn vào tự nhiên vẫn
là phổ biến do các hình thức nuôi trồng khác đòi hỏi nhiều vốn đầu tư. Nhìn chung
hoạt động nuôi trồng thuỷ sản mới chỉ được triển khai trên một diện tích chưa đáng

kể, khoảng 600 ngàn ha mặt nước.VN là một trong những nước sản xuất cá là chủ
yếu, đứng thứ 2 Châu á Thái Bình Dương về sản lượng cá nội địa tính trên diện tích
đất đạt năng xuất 4,2 kg/ha.Tính về tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản VN đứng thứ
11 trong các nước Châu á với sản lượng nuôi trồng tính theo đầu người 2,3 kg/ng.
Mức bình quân đầu người này so với các nước khác trong khu vực chỉ bằng 1/4 của
Philiphin, Nhật và Đài Loan bằng 1/10 sản lượng nuôi trồng thuỷ sản theo đầu
người của Nam Triều Tiên



Tỷ lệ sản lượng nuôi trồng thuỷ sản ven biển chiếm 12,6% vào năm 1984. Đây
là tỷ lệ khá thấp so với nguồn lợi ven biển của cả nước, kể từ năm 1994 tỷ lệ này đã
tăng lên gấp đôi chứng tỏ tiềm năng nghề nuôi trồng thuỷ sản ven biển ở VN. Theo
số liệu mới nhất thì đến năm 2000 tỷ lệ này tăng lên gấp bốn lần và theo dự báo thì
năm 2001 tỷ lệ nuôi trồng thuỷ sản tăng lên một cách đầy biến động.Do vậy Bộ
Thuỷ Sản cần phải có những chính sách hợp lý để quy hoạch những khu tập chung
và loại bỏ những hộ dân nuôi trồng bất hợp lý trên biển ảnh hưởng đến dòng chảy
của các con sông và dòng chảy của biển, tránh sự nuôi trồng tràn lan mà không có
hiệu quả, gêy ra nạn dịch bệnh mà ảnh hưởng đến đời sống của bà con nông ngư
dân. Tìm đầu ra cho sản phẩm, nâng cao chất lượng con giống, nâng cao khả năng
chế biến Để tiềm năng thuỷ sản được khai thác triệt để
b) Cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu:
Trong cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, tôm vẫn là mặt hàng chủ lực, tỷ lệ tôm đông
lạnh trong hàng thuỷ sản xuất khẩu luôn chiếm vị trí cao nhất (xem bảng1) Theo bản
tin thương mại tháng 1/2000, tôm đang là mặt hàng thuỷ sản quan trọng nhất của thị
trường thế giới, chiếm 20% tổng kim ngạch thuỷ sản toàn cầu.Tuy nhiên do nhu cầu
của thị trường thế giới nên các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuỷ sản phải đa dạng
hoá các mặt hàng xuất khẩu. Do đó, tỷ lệ tôm đông trong các mặt hàng xuất khẩu
tuy vẫn dẫn đầu trong các mặt hàng xuất khẩu nhưng có xu hướng giảm dần và tỷ lệ
các loại thuỷ sản khác có xu hướng gia tăng. Đặc biệt trong các năm 1995 đến năm

1997 dịch bệnh tôm xảy ra liên tiếp nên sản lượng tôm tăng chậm hơn, xuất khẩu
tôm đông giảm mạnh.Năm 1995 sản lượng tôm chiếm 52% thì đến năm 1999 vẫn
giữ nguyên, năm1997 thì giảm chỉ là 38,75%.Thị trường tôm có sự chuyển dịch từ
thị trường Nhật sang các nước khác như Mỹ và Châu Âu do suy thoái kinh tế
Bên cạnh đó, các loại thuỷ sản xuất khẩu khác có xu hướng gia tăng (xem
bảng1) như mực đông, mực khô và thuỷ sản khác. Mực đông xuất khẩu năm 1995
chiếm 8,85% sản lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu và đến năm 1999 chiếm 11,5%.
Các hàng thuỷ sản khác như cua, ghẹ, sò, ốc, rong biển cũng có sự gia tăng đáng kể.
Nhuyễn thể đông lạnh năm 1997 mới chiếm 10,5% thì năm 1999 đã chiếm 11,1%.



Đặc biệt trong năm 1999, nhuyễn thể đông lạnh đứng thứ 3 trong số các mặt hàng
thuỷ sản xuất khẩu sau tôm, cá.
Bảng1: `Cơ cấu sản lượng các nhóm hàng thuỷ sản xuất khẩu 1995-1999
Ch
ỉ tiêu

1995

1996

1997

1998

1999

T
ổng sản


phẩm(tấn)
127.700

150.500

187.850

200.000

200.500

Tôm đông, T

Tỷ lệ(%)
66.500

52,08
70.000

46,51
728.000

38,75
115.180

57,59
104.741

52,24

M
ực
đông, T

Tỷ lệ(%)
11.300

8,85
14.500

9,36
18.800

10,00
18.000

9
23.077

11,51
Cá các lo
ại,T

Tỷ lệ(%)
31.400

24,59
41.000

27,24

49.200

26,19
25.660

12,83
26.787

13,36
M
ực khô, T

Tỷ lệ(%)
4.000

3,13
4.000

2,65
6.000

3,19
9.540

4,77
11.228

5,6
Lo
ại khác, T


Tỷ lệ(%)
14.500

11,35
21.000

13,95
41.050

21,85
31.620

15,81
34.666

17,29

Do yêu cầu của các thị trường nhập khẩu thuỷ sản nên hàm lượng công nghệ
của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu đã có bước tiến bộ :các mặt hàng thuỷ sản tươi
sống phát triển nhanh, những mặt hàng giá trị gia tăng, tăng trưởng cả về chủng loại
lẫn số lượng. Năm 1990 tỷ trọng hàng thuỷ sản có giá trị gia tăng mới đạt
8,6%/năm, năm 1998 đã nâng lên 19% và năm1999 khoản 20,5% tổng giá trị kim
ngạch xuất khẩu (xem bảng 2)
Hy vọng rằng trong tương lai những mặt hàng có giá trị gia tăng ngày càng được
xuất khẩu ra thị trường nước ngoài nhiều, điều đó cũng phải ánh răng trình độ chế
biến hàng thuỷ sản đông lạnh của nước ta ngày càng được đầu tư hơn
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm giá trị gia tăng 1990-1999
Ch
ỉ tiêu


Đơn v


1990

1996

1997

1998

1999

×