Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Chính sách phúc lợi ở địa phương: Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.07 KB, 12 trang )

CHÍNH SÁCH PHÚC LỢI Ở ĐỊA PHƢƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN
ThS. Nguyễn Thu Hà - Học viện Cán bộ TP. Hồ Chí Minh
Tóm tắt: Chính sách phúc lợi xã hội đ ng vai trò quan trọng nhằm đảm bảo các
nhu cầu xã hội thiết yếu của các tầng lớp dân cư và hình thành những quan hệ xã hội
cơ bản. Đồng thời, chính sách phúc lợi xã hội có vai trị lớn trong việc khắc phục phân
hóa xã hội, tăng cường liên kết xã hội, đảm bảo ổn định chính trị xã hội. Tuy nhiên,
hàng loạt vấn đề chính sách phúc lợi xã hội nói chung và chính sách phúc lợi ở địa
phương n i riêng bức xúc đang đặt ra ở địa phương, đòi hỏi những giải pháp và cơng
cụ chính sách vừa cơ bản vừa cấp bách phù hợp với yêu cầu của thực tế. Bài viết góp
phần vào nhận diện, xác định vấn đề và giải pháp chính sách phúc lợi, từ đ hình
thành những vấn đề lý luận cho q trình phân tích, xây dựng, thực hiện và đánh giá
chính sách này.
Từ khóa: Phúc lợi xã hội; chính sách phúc lợi ở địa phương; vấn đề và giải
pháp chính ách phúc lợi; phân tích, xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách phúc
lợi ở địa phương.
Kể từ năm 1990 đến nay, Việt Nam đã thay đổi mạnh về cấu trúc xã hội và văn
hóa phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Sau 30 năm đổi
mới, Việt Nam đã đạt đƣợc nhiều thành tựu phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, chính
sách phúc lợi ở địa phƣơng có vai trị ngày càng tăng khi tiến trình đổi mới đi vào
chiều sâu nhằm duy trì sự ổn định và phát triển bền vững về chính trị, kinh tế, văn hóa
của mọi địa phƣơng. Thực hiện chính sách phúc lợi ở địa phƣơng là biện pháp để Nhà
nƣớc và các cấp chính quyền địa phƣơng đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội, hạn
chế khoảng cách bất bình đẳng trong xã hội ở địa phƣơng. Đặc biệt, Luật Tổ chức
chính quyền địa phƣơng năm 2015 ra đời đã tạo ra khung thể chế chính sách cho chính
quyền địa phƣơng và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đối với đời sống kinh tế
- xã hội ở địa phƣơng. Ở địa phƣơng, đối tƣợng thụ hƣởng chính sách phúc lợi là
tƣơng đối lớn, bởi lẽ ngƣời dân địa phƣơng cần đƣợc hƣởng và đảm bảo các phúc lợi
chung. Tuy nhiên, vấn đề phúc lợi ở địa phƣơng còn bất cập, yếu kém và bộc lộ những
hạn chế nhất định, địi hỏi phải có những giải pháp chính sách phù hợp, đồng bộ, ổn
định và lâu dài.


1. Những vấn đề lý luận về chính sách phúc lợi
Thuật ngữ ―Phúc lợi xã hội‖ đƣợc sử dụng từ vài chục năm qua ở Việt Nam với
phạm vi khác nhau. Từ những năm 60, thuật ngữ này sử dụng ở miền Bắc để chỉ chế
độ chính sách áp dụng cho cán bộ công nhân viên nhà nƣớc (chẳng hạn, quỹ phúc lợi
xã hội xí nghiệp), đây là một thực tế vẫn cịn tồn tại đến ngày nay. Đơi khi cũng thấy
thuật ngữ ―Phúc lợi hợp tác xã‖ khi nói đến chế độ chính sách cho xã viên hợp tác xã
nông nghiệp, thủ công nghiệp, cũng nhƣ thành viên gia đình ăn theo. Sau này, ngƣời ta
sử dụng một số thuật ngữ khác, nhƣ an toàn xã hội, bảo đảm xã hội, an sinh xã hội,
357


dịch vụ xã hội…1. Theo hƣớng đó, ở Việt Nam và hầu hết các nƣớc xã hội chủ nghĩa
trƣớc đây, khái niệm phúc lợi xã hội đƣợc hiểu là: phúc lợi là những lợi ích mà ngƣời
lao động và các thành viên trong gia đình đƣợc hƣởng từ thành quả lao động của mình
thơng qua việc đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần, nhằm duy trì và nâng cao chất
lƣợng lao động và chất lƣợng cuộc sống.
Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 2000 của Hoàng Phê đƣa ra định nghĩa: phúc
lợi xã hội là ―lợi ích cơng cộng mà ngƣời dân đƣợc hƣởng không phải trả tiền hoặc chỉ
phải trả một phần‖(Hoàng Phê, 2000). Nhƣ vậy, phúc lợi xã hội đồng nghĩa với những
gì xã hội đem lại, hay những lợi ích mà Nhà nƣớc đem lại thông qua các dịch vụ xã hội
mà ngƣời dân không phải trả tiền hoặc chỉ trả một phần. Cách hiểu này xuất phát từ
quan niệm về phúc lợi xã trong mơ hình quản lý theo phƣơng thức kế hoạch hóa tập
trung trƣớc đây, khi mà ngƣời ta hiểu ―phúc lợi‖ là phần thù lao mà ngƣời lao động
nhận từ cơ quan hay xí nghiệp, ngồi phần tiền lƣơng, tiền phụ cấp và tiền thƣởng,
nhằm hỗ trợ thêm về mặt đời sống. Nói tóm lại, thuật ngữ ―phúc lợi xã hội‖ có thể hiểu
chung nhất là: hệ thống các định chế, các chính sách và các hoạt động nhằm bảo đảm,
đáp ứng những nhu cầu thiết yếu nhất của người dân, với mục tiêu là làm sao cho mọi
người dân c được một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Vấn đề phúc lợi, đƣợc Aristotle đƣa ra khi ông đƣa ra thuật ngữ ―Chính trị‖,
theo đó: chính trị là hình thức cộng sinh văn minh, đƣợc sử dụng để đạt tới phúc lợi

chung và cuộc sống hạnh phúc2. Chính vì vậy, xác định vấn đề chính sách phúc lợi là
một trong việc xác định vấn đề xã hội đƣợc chuyển thành vấn đề chính trị. Một khi vấn
đề kinh tế - xã hội trở thành vấn đề chính trị thì là khi bắt đầu chu trình chính sách bắt đầu giai đoạn khởi đầu là xác định vấn đề chính sách phúc lợi.
Vấn đề bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội không chỉ là bảo vệ quyền
của mỗi ngƣời dân nhƣ đã nêu trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con ngƣời (đƣợc
Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua năm 1948, điều 25: ―Mọi ngƣời dân và hộ gia
đình đều có quyền có mức sống tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội bao gồm
ăn, mặc, chăm sóc y tế, dịch vụ xã hội thiết yếu và có quyền đƣợc an sinh khi có các
biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa phụ, tuổi già... hoặc các trƣờng hợp bất khả
kháng khác‖), mà còn là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình
phát triển. Tuy nhiên, mức độ, quy mô, phạm vi an sinh xã hội và phúc lợi xã hội của
các nƣớc có sự khác nhau, tùy thuộc vào quan niệm, chế độ chính trị - xã hội, trình độ
phát triển và chính sách của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, thời kỳ đổi mới, các nhà khoa học xã hội cũng đã đƣa ra nhiều
cách định nghĩa phúc lợi xã hội. Thuật ngữ ―Phúc lợi xã hội‖ trong tiếng Việt tƣơng
ứng vơi cụm từ ―Social welfare‖ trong tiếng Anh, còn phúc lợi tƣơng ứng với cụm từ
―welfare‖. Trong bài viết này chúng tôi cũng đồng ý với khái niệm mà Bùi Thế Cƣờng
1

Bùi Thế Cƣờng (2014), Một số vấn đề về chính sách xã hội ở Việt Nam, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.
Dẫn theo sách: Võ Khánh Vinh & Đỗ Minh Hợp (Đồng chủ biên), Chính trị học – những vấn đề cơ bản, Nxb
Khoa học xã hội, 2014.
2

358


đƣa ra: “Phúc lợi xã hội là một hệ thống hay một thiết chế, mà chức năng xã hội của
nó là bảo đảm những nhu cầu thiết yếu của các tầng lớp dân cư theo những điều kiện
của cấu trúc xã hội. Thông thường, phạm vi các nhu cầu cơ bản này liên quan đến nhu

cầu về lương thực, thực phẩm, việc làm, phát triển nghề nghiệp, thu nhập, nhà ở, chăm
sóc sức khỏe và học tập. Với những chức năng như vậy, phúc lợi xã hội có vai trị lớn
trong việc khắc phục những khác biệt xã hội, tăng cường liên kết xã hội và bảo đảm ổn
định chính trị - xã hội”3.
Nhƣ vậy, Phúc lợi xã hội, chung nhất đƣợc hiểu là một hệ thống các chính sách,
các chƣơng trình và các dịch vụ nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của xã hội
hoặc các nhóm xã hội khác nhau về đời sống, kinh tế, văn hoá, tinh thần, giáo dục và
chăm sóc sức khoẻ… nhằm hƣớng tới sự công bằng xã hội và phúc lợi chung cho mọi
ngƣời trong xã hội.
Còn thuật ngữ ―An sinh xã hội‖ tƣơng ứng với cụm từ ―Social security‖ trong
tiếng Anh. Ở Việt Nam khi nghiên cứu về an sinh xã hội, Trần Hữu Quang đã đánh giá
mối quan hệ giữa phúc lợi xã hội và an sinh xã hội: “Trong các tài liệu Anh ngữ, đôi
lúc người ta sử dụng hoán chuyển nhau giữa thuật ngữ social welfare với thuật ngữ
social security (an sinh xã hội) thường được hiểu theo nghĩa hẹp hơn thuật ngữ social
welfare (phúc lợi xã hội), và chỉ bao gồm hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và
các chính sách trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội”4. Cũng tƣơng tự nhƣ cách hiểu này,
cơng trình nghiên cứu Lý thuyết và mơ hình An sinh xã hội (phân tích thực tiễn ở tỉnh
Đồng Nai) đƣa ra định nghĩa: ―An sinh xã hội bao gồm: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, trợ cấp xã hội và xóa đói giảm nghèo‖5. Theo đó, An sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã
hội cung cấp cho thành viên của mình thơng qua một số biện pháp đƣợc áp dụng rộng
rãi để đƣơng đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế và xã hội, làm mất hoặc
suy giảm nghiêm trọng do ốm đau, thai sản, thƣơng tâm do lao động, mất sức lao
động, hoặc tử vong, cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho gia đình nạn nhân, trẻ em.
Rõ ràng, giữa phúc lợi xã hội và an sinh xã hội có sự khác biệt. Nếu nhƣ mục
tiêu phúc lợi xã hội là giảm bớt sự bất công bằng xã hội thì mục tiêu của an sinh xã hội
là góp phần đảm bảo thu nhập, các chính sách và giải pháp phúc lợi xã hội tập trung
vào nhóm ngƣời yếu thế, nhóm ngƣời thiệt thịi trong xã hội nhiều hơn nhằm hƣớng
tới sự công bằng xã hội và phúc lợi chung cho mọi ngƣời trong xã hội. An sinh xã hội
có phạm vi hẹp hơn phúc lợi xã hội. Phúc lợi xã hội là một trong những là một trong
những thành tố của sự phát triển và nâng cao chất lƣợng sống của ngƣời dân. Chính

sách phúc lợi xã hội hƣớng tới đảm bảo sự cân bằng đƣợc giữa hiệu quả và công bằng.
3

Đỗ Hồng Quân (2010), Tổng quan những cơng trình nghiên cứu về phúc lợi xã hội, an sinh xã hội; Đề tài cấp
viện: Cơ sở dữ liệu, thông tin và tri thức phục vụ chiến lược nghiên cứu 2006 - 2010 của Viện Phát triển bền
vững vùng Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh.
4
Trần Hữu Quang (Chủ biên), Cơ sở dữ liệu, thông tin và tri thức phục vụ chiến lược nghiên cứu 2006 - 2010
của Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh.
5
Phạm Văn Sáng, Ngơ Quang Minh, Bùi Văn Huyền, Nguyễn Anh Dũng (2009), Lý thuyết và mơ hình An sinh
xã hội (phân tích thực tiễn ở Đồng Nai), Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Đồng Nai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

359


Chính sách phúc lợi xã hội phải là động lực để tăng trƣởng kinh tế và phát triển xã
hội.
Bên cạnh đó, thuật ngữ ―Chính sách cơng‖ đƣợc hiểu là tập hợp các quyết định
có liên quan để ―lựa chọn‖ mục tiêu và những giải pháp, cơng cụ chính sách nhằm giải
quyết các vấn đề chính sách theo mục tiêu tổng thể đã xác định của đảng chính trị cầm
quyền (Đỗ Phú Hải, 2017).
Nhƣ vậy, chính sách phúc lợi là tập hợp các quyết định có liên quan của Nhà
nƣớc để ―lựa chọn‖ mục tiêu và những giải pháp, công cụ chính sách phúc lợi nhằm
giải quyết các vấn đề chính sách phúc lợi theo mục tiêu tổng thể đã xác định. Theo đó,
chính sách phúc lợi ở địa phƣơng là tập hợp các quyết định có liên quan của Nhà nƣớc
và chính quyền địa phƣơng để ―lựa chọn‖ mục tiêu và những giải pháp, cơng cụ chính
sách phúc lợi nhằm giải quyết các vấn đề chính sách phúc lợi theo mục tiêu tổng thể đã
xác định, để đạt tới phúc lợi chung và cuộc sống hạnh phúc của ngƣời dân ở địa

phƣơng.
2. Thực tiễn thực hiện chính sách phúc lợi ở địa phƣơng hiện nay
Ở Việt Nam, bảo đảm ngày càng tốt hơn phúc lợi xã hội luôn là một chủ
trƣơng, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nƣớc, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta
và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền
vững của đất nƣớc.
Trong đó, đội ngũ thực hiện chính sách phúc lợi là đội ngũ cán bộ,công chức viên chức, đặc biệt là cán bộ quản lý công chức Nhà nƣớc và chính quyền các cấp,
những ngƣời đứng đầu doanh nghiệp Nhà nƣớc trong việc tổ chức thực hiện chính
sách phúc lợi xã hội, phúc lợi xã hội trong doanh nghiệp nhà nƣớc. Vì vậy, trong q
trình thực hiện chính sách phúc lợi xã hội thì năng lực đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên
chức của chính sách phúc lợi xã hội cần phải đƣợc cân nhắc. Đội ngũ thực hiện chính
sách phúc lợi cần phải nhận thức và xem xét chính sách phúc lợi là một tập hợp các
quyết định chính trị có liên quan của Nhà nƣớc, chứ khơng phải là nhận thức giản đơn
hay đồng nhất chính sách phúc lợi xã hội với một quyết định hành chính thông thƣờng
hay một đạo luật riêng lẻ về lĩnh vực phúc lợi. Do đó, đội ngũ thực hiện chính sách
phúc lợi là cán bộ, công chức, viên chức tham gia trong các lĩnh vực, đặc biệt là cụ thể
ở lĩnh vực phúc lợi xã hội.
Hệ thống chính trị ở địa phƣơng dƣới sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp
ủy Đảng, chính quyền địa phƣơng (Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp),
Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Bộ Y tế và các đơn vị liên quan từ TW đến cơ
sở, với sự phối hợp tích cực của các ngành, đồn thể các cấp và của nhân dân nhƣ Sở
Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Sở Y tế, Sở Kế hoạch và Đầu tƣ, Sở Tài chính, Sở
Thơng tin & Truyền thơng và các sở ngành có liên quan phối hợp thực hiện, cùng với
đội ngũ cán bộ, công chức trên địa bàn điều hành hƣớng dẫn và triển khai thực hiện và
đánh giá chính sách phúc lợi xã hội. Trên thực tế, nƣớc ta hiện nay quỹ phúc lợi có ba
nhóm cơ bản sau: Quỹ tập trung của Nhà nƣớc quản lý; Quỹ phúc lợi của các đơn vị,
360


xí nghiệp kinh doanh; Quỹ phúc lợi tập thể của các hộp tác xã, các đơn vị sản xuất.

Các quỹ này hoạt động dƣới hai hình thức đó là: hình thức trả bằng tiền và các hình
thức ƣu đãi thơng qua các dịch vụ không mất tiền hoặc chỉ phải trả một phần nào đó
nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của ngƣời dân.
Nhìn lại Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã
hội, cùng với việc không ngừng cải tiến chế độ tiền lƣơng, tiền công và nâng cao thu
nhập cho ngƣời lao động, Đảng và Nhà nƣớc rất quan tâm chăm lo đến phúc lợi xã hội
cho nhân dân. Đặc biệt, là thực hiện chính sách phúc lợi ở địa phƣơng nhằm đảm bảo
đời sống của ngƣời dân, duy trì sự ổn định và phát triển bền vững ở địa phƣơng, thể
hiện vai trị của chính quyền địa phƣơng đối với vấn đề phúc lợi trong xu thế xây dựng
nhà nƣớc kiến tạo phát triển hiện nay. Thực tiễn thực hiện chính sách phúc lợi ở địa
phƣơng hiện nay đƣợc thể hiện nhƣ sau6:
Trong 10 năm qua, việc thực hiện Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội 2001 2010, công tác bảo đảm phúc lợi xã hội đã đạt đƣợc nhiều kết quả quan trọng. Hệ
thống các chính sách phúc lợi xã hội ngày càng đồng bộ và hồn thiện trên các lĩnh
vực: xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm, ƣu đãi
ngƣời có cơng với nƣớc, trợ giúp xã hội, mở rộng các dịch vụ xã hội công cộng, tạo
điều kiện để ngƣời dân đƣợc hƣởng thụ nhiều hơn về văn hóa, y tế và giáo dục. Cùng
với nguồn lực khơng ngừng tăng lên và những nỗ lực trong tổ chức thực hiện, phúc lợi
xã hội ngày càng đƣợc bảo đảm tốt hơn, góp phần quan trọng vào nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
Cụ thể, thời gian qua Đảng và Nhà nƣớc ta đã tập trung chỉ đạo thực hiện chƣơng trình
mục tiêu quốc gia về việc làm với nhiều chính sách trợ giúp thiết thực, hằng năm giải
quyết đƣợc hơn 1,6 triệu việc làm mới cho ngƣời lao động, giảm tỉ lệ lao động thất
nghiệp ở thành thị từ 6,42% (năm 2000) xuống còn khoảng 4,6% (năm 2010), tăng
thời gian sử dụng lao động ở nơng thơn, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho
nhân dân. Thu nhập thực tế bình quân đầu ngƣời 10 năm qua tăng khoảng 2,3 lần.
Hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế đƣợc quan tâm phát triển với nội
dung và hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho
những ngƣời tham gia. Bảo hiểm xã hội đƣợc triển khai đồng bộ với ba loại hình là:
bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Số ngƣời tham gia
bảo hiểm bắt buộc tăng nhanh, từ 4,8 triệu (năm 2001) lên 9,4 triệu (năm 2009), chiếm

18% tổng số lao động. Sau gần ba năm triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện, đến năm
2010 có khoảng 96.600 ngƣời tham gia. Dự kiến đến hết năm 2010 có khoảng 5,8 triệu
ngƣời tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 13,4% dân số (năm
2000) lên khoảng 62% (năm 2010). Đặc biệt, đã thực hiện chính sách bảo hiểm y tế
miễn phí cho trẻ em đến 6 tuổi, một số đối tƣợng chính sách, ngƣời nghèo và hỗ trợ
bảo hiểm y tế cho các hộ cận nghèo...
6

/>
361


Các chính sách ƣu đãi đối với ngƣời có cơng khơng ngừng đƣợc hồn thiện.
Mức trợ cấp ƣu đãi năm 2009 tăng 2,1 lần so với năm 2006. Năm 2010 ngân sách
trung ƣơng đã dành gần 19.000 tỉ đồng để thực hiện chính sách ƣu đãi thƣờng xuyên
cho hơn 1,4 triệu ngƣời có cơng. Đến nay, hơn 90% gia đình ngƣời có cơng có mức
sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân cƣ cùng địa bàn.
Các chính sách trợ giúp xã hội, cả thƣờng xuyên và đột xuất đƣợc thực hiện
rộng hơn về quy mô, đối tƣợng thụ hƣởng với mức trợ giúp ngày càng tăng. Kinh phí
trợ giúp thƣờng xuyên từ ngân sách nhà nƣớc và số ngƣời đƣợc thụ hƣởng tăng nhanh,
từ 113 tỉ đồng cho hơn 180.000 ngƣời (năm 2001) tăng lên 4.500 tỉ đồng cho hơn 1,6
triệu ngƣời (năm 2010). Hằng năm Nhà nƣớc cịn trợ cấp đột xuất hàng nghìn tỉ đồng
(riêng năm 2009 là 5.000 tỉ đồng) và hàng chục nghìn tấn lƣơng thực, chủ yếu là để trợ
giúp khắc phục thiên tai. Từ đầu năm 2008, Chính phủ đã có nhiều chính sách và giải
pháp kịp thời, thiết thực nhằm hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Hệ thống các dịch vụ xã hội trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân,
giáo dục và đào tạo, văn hóa, thơng tin, cung cấp điện, nƣớc sinh hoạt, bảo đảm điều
kiện đi lại... đã đƣợc quan tâm phát triển, nhất là ƣu tiên đầu tƣ cho vùng sâu, vùng xa,
miền núi, biên giới, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chất lƣợng các dịch vụ

nhiều mặt đƣợc cải thiện và khả năng tiếp cận của nhân dân ngày càng đƣợc nâng cao.
Đến nay 100% số xã, phƣờng đã có trạm y tế, trong đó khoảng 75% số xã có bác sĩ; cả
nƣớc hiện có khoảng 23 triệu ngƣời đang theo học ở các cấp bậc học, đã hoàn thành
phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; 82,5% số hộ nông thôn đã đƣợc sử dụng
nƣớc hợp vệ sinh; 96,1% số hộ đã đƣợc sử dụng điện lƣới; 86,9% số hộ sử dụng máy
thu hình; trên 97% số xã đã có đƣờng ơtơ đi tới trung tâm xã; khoảng 90% số xã có
trạm bƣu điện văn hóa...
Các phong trào ―tƣơng thân tƣơng ái‖, ―đền ơn đáp nghĩa‖, ―uống nƣớc nhớ
nguồn‖ do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội,
các doanh nghiệp, cộng đồng ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài, các đơn vị và cá nhân chủ
động thực hiện và hƣởng ứng tham gia đã phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
đóng góp đáng kể vào việc nâng cao phúc lợi xã hội cho mọi ngƣời, nhất là những
ngƣời nghèo, vùng nghèo.
Bƣớc sang giai đoạn chiến lƣợc mới, Đảng và Nhà nƣớc ta tiếp tục coi bảo đảm
an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nhiệm vụ chủ yếu thƣờng xuyên. Chiến lƣợc
phát triển kinh tế - xã hội 2016 - 2020 xác định: “Nhà nước sử dụng thể chế, các
nguồn lực, cơng cụ điều tiết, chính sách phân phối và phân phối lại để phát triển văn
hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, từng
bước nâng cao phúc lợi xã hội, chăm lo cải thiện đời sống mọi mặt của nhân dân, thu
hẹp khoảng cách giàu – nghèo”.Liên quan đến định hƣớng về lĩnh vực phúc lợi xã hội,
Văn kiện Đại hội XII của Đảng năm 2016 cũng đã nêu rõ: “Phát triển văn h a, thực
hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi
362


xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”. Đồng thời, cần ―tập trung vào cung cấp dịch
vụ công, bảo đảm an sinh xã hội, an toàn xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và cải thiện
đời sống cho người dân”; “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội,
phát triển kinh tế với nâng cao chất lƣợng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân
dân đƣợc hƣởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và

phát triển đất nƣớc. Khơng lồng ghép các chính sách xã hội trong giá. Hồn thiện pháp
luật về phí, lệ phí; rà sốt, chuyển đổi chính sách phí, lệ phí đối với một số dịch vụ
công sang áp dụng chế độ giá dịch vụ‖.
Tuy nhiên, việc bảo đảm phúc lợi xã hội vẫn còn bất cập và yếu kém: giảm
nghèo chƣa bền vững, số hộ cận nghèo còn nhiều, tỉ lệ hộ tái nghèo hằng năm còn cao.
Đời sống của một bộ phận dân cƣ, nhất là ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa cịn nhiều
khó khăn, khoảng cách thu nhập của các tầng lớp dân cƣ cịn lớn. Tình trạng thiếu việc
làm ở nơng thơn, ở vùng đơ thị hóa và thất nghiệp ở thành thị còn nhiều. Nguồn lực
cho phúc lợi xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nƣớc, với diện bao
phủ và mức hỗ trợ cịn thấp. Các hình thức bảo hiểm chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu đa
dạng của ngƣời dân; chất lƣợng các dịch vụ nhìn chung cịn thấp, vẫn cịn khơng ít tiêu
cực, phiền hà.
Những yếu kém, bất cập trên đây trƣớc hết là do công tác lãnh đạo, quản lý còn
nhiều yếu kém, hiệu lực hiệu quả chƣa cao, nhận thức về bảo đảm phúc lợi xã hội chƣa
đầy đủ. Chƣa hình thành đƣợc hệ thống phúc lợi xã hội rộng khắp với những cơ chế
chủ động tích cực, bền vững, làm chỗ dựa vững chắc cho ngƣời nghèo, hộ nghèo tự
vƣơn lên thoát nghèo. Chƣa huy động đƣợc mạnh mẽ sự tham gia của tồn xã hội vào
cơng tác bảo đảm phúc lợi xã hội7.
Có thể khẳng định rằng nếu chúng ta thực hiện chính sách phúc lợi ở địa
phƣơng tốt sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ, kích thích phát triển kinh tế – xã hội ở địa
phƣơng. Các chính sách phúc lợi xã hội về trợ cấp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
điều kiện làm việc, nghỉ ngơi, học bổng cho học sinh, hƣu trí, dịch vụ nghỉ ngơi, y tế,
các cơng trình cơng cộng phục vụ giải trí…nếu đƣợc quy định hợp lý và thực thi kịp
thời sẽ là nguồn động viên to lớn, phát huy đƣợc khả năng tối đa của ngƣời dân trong
q trình làm việc. Mặt khác, bản thân mỗi chính sách khi hƣớng vào giải quyết tốt
một vấn đề bức xúc, sẽ tác động lên các vấn đề khác, làm phát sinh những mâu thuẫn
cần phải đƣợc giải quyết và những chính sách mới lại ra đời. Q trình này lặp đi lặp
lại và thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển khơng ngừng.
3. Giải pháp hồn thiện chính sách phúc lợi ở địa phƣơng
Thứ nhất, giải pháp hoàn thiện thể chế chính sách phúc lợi ở địa phƣơng.

Chính sách phúc lợi xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản, thể
hiện đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta hƣớng vào mục tiêu phát triển
con ngƣời, thúc đẩy công bằng và tiến bộ, nâng cao chất lƣợng cuộc sống của nhân
7

/>
363


dân, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nƣớc. Để chính sách này đảm bảo
tốt hơn cho đời sống của ngƣời dân, góp phần tích cực vào ổn định và an toàn xã hội ở
địa phƣơng thì việc xây dựng và hồn thiện thể chế pháp luật về chính sách phúc lợi là
hết sức cần thiết. Pháp luật về phúc lợi xã hội phải dựa trên cơ sở kế thừa và phát huy
những thành tựu lập pháp đã đạt đƣợc cũng nhƣ diều chỉnh các quan hệ mới theo điều
kiện thực tế ở từng địa phƣơng để có thể có đƣợc một hệ thống chính sách phúc lợi xã
hội phát triển, đủ sức chống đỡ đối với các rủi ro xã hội. Để làm đƣợc điều này trƣớc
hết cần:
Khuyến khích tối đa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát
triển mạnh sản xuất kinh doanh để tạo nhiều việc làm, đồng thời hỗ trợ ngƣời dân có
việc làm, tăng thu nhập là giải pháp xóa đói giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội tích
cực, hiệu quả, bền vững. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm;
chú trọng xây dựng quan hệ lao động hài hòa, điều kiện và mơi trƣờng lao động an
tồn. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với yêu cầu của
giai đoạn mới, gắn với điều chỉnh lƣơng hƣu và lộ trình cải cách tiền lƣơng. Xây dựng
chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện cho ngƣời lao động, trong đó có chính sách hỗ
trợ ngƣời lao động có thu nhập thấp, lao động ở nơng thơn tham gia các loại hình bảo
hiểm xã hội. Thực hiện tốt chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
Bên cạnh đó, tiếp tục hồn thiện đồng bộ các chính sách về bảo hiểm y tế, viện
phí và khám chữa bệnh. Đặc biệt chú trọng chính sách đối với bà mẹ, trẻ em, ngƣời
nghèo, ngƣời dân ở vùng khó khăn, ngƣời lao động trong các khu vực phi chính thức.

Phấn đấu thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân thời gian qua, hệ thống cơ sở y tế đã đƣợc
hình thành trong cả nƣớc; số bác sĩ, số giƣờng bệnh trên một vạn dân tăng nhanh; hệ
thống dịch vụ y tế ngày càng mở rộng và nâng cao chất lƣợng. Trong 10 năm gần đây,
các quan điểm, chủ trƣơng, chính sách của Đảng đã đƣợc thể chế hóa trong Hiến pháp
2013 và 20 luật liên quan đến lĩnh vực y tế, dân số, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho
việc chăm sóc sức khỏe ngƣời dân. Các chủ trƣơng, giải pháp phát triển hệ thống y tế
tƣơng đối toàn diện, coi trọng cả về xây dựng thể chế và phát triển đồng bộ: y tế dự
phòng, y học cổ truyền, quản lý thuốc, khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, vệ sinh
an toàn thực phẩm... Tỷ lệ ngƣời tham gia bảo hiểm y tế hiện nay là trên 70% dân số
(khoảng trên 61 triệu ngƣời); phấn đấu đến năm 2020, cơ bản hồn thành lộ trình bảo
hiểm y tế toàn dân.
Thứ hai, cần nâng cao năng lực của chủ thể chính sách phúc lợi ở địa phƣơng.
Cần có nhận thức mới, đầy đủ hơn về phúc lợi xã hội, phát huy thành quả và
những kinh nghiệm tốt đã đạt đƣợc, khắc phục những yếu kém bất cập để xây dựng
một hệ thống phúc lợi xã hội đồng bộ, hiệu quả cao. Để làm đƣợc điều này trƣớc hết
cần: Nâng cao năng lực hoạch định đƣờng lối, chủ trƣơng phát triển kinh tế - xã hội
của Ðảng. Tăng cƣờng lãnh đạo việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện đƣờng lối, chủ
trƣơng của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc về thực hiện chính sách phúc lợi
ở địa phƣơng. Tiếp theo cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng
364


thuận trong Ðảng và trong xã hội đối với các chủ trƣơng, chính sách của Ðảng về
chính sách phúc lợi cho ngƣời dân theo từng giai đoạn phù hợp với sự phát triển của
xã hội. Cuối cùng cần tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết; kịp thời
phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề lớn, quan trọng về những bất cập, hạn
chế gây bức xúc cho ngƣời dân khi thực hiện chính sách phúc lợi xã hội ở địa phƣơng.
Để nâng cao năng lực của chủ thể chính sách phúc lợi ở địa phƣơng một mặt
cần đổi mới phƣơng thức quản lý của các chủ hoạch định và thực thi chính sách thì
mặt khác phải nâng cao năng lực phân tích, dự báo, nhất là dự báo chiến lƣợc đối với

các vấn đề xã hội đang diễn ra ngày càng phức tạp và đa dạng. Trong đó việc nắm bắt
thơng tin là một nội dung rất quan trọng, thực tế cho thấy trong q trình hoạch định
chính sách phúc lợi xã hội ở địa phƣơng chƣa tạo đƣợc kênh thông tin tốt nhất để tiếp
thu ý kiến đóng góp của những đối tƣợng chịu ảnh hƣởng của chính sách. Trong khi
đó, chính sách không thể là ý muốn chủ quan của cơ quan nhà nƣớc, càng khơng phải
là ý chí áp đặt của cá nhân có thẩm quyền mà xuất phát từ hiện thực khách quan, từ
việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức một cách biện chứng các vấn đề nảy sinh trong đời
sống kinh tế – xã hội và có các phƣơng án giải quyết phù hợp với thực tế. Một chính
sách đúng đắn phải từ thực tế khách quan.
Bên cạnh đó cần đổi mới công tác thống kê phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Nghiên cứu, rà soát, đổi mới việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
về phúc lợi xã hội. Nâng cao chất lƣợng văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm tính
minh bạch, tính nhất quán, ổn định và dự đoán đƣợc của pháp luật.
Thứ ba, giải pháp nguồn lực chính sách phúc lợi ở địa phƣơng.
Một là, hồn thiện các chính sách khuyến khích đầu tƣ, chính sách ƣu đãi đối
với các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nhiều lao động, nhất là ở địa bàn nông thôn;
mặt khác phải tiếp tục thực hiện chƣơng trình mục tiêu quốc gia về việc làm gắn với
thực hiện đề án đổi mới và phát triển dạy nghề đến năm 2020, chƣơng trình dạy nghề
cho lao động nơng thơn với các giải pháp tồn diện, đồng bộ và có hiệu quả; phát triển
mạnh thị trƣờng lao động. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ cho cả ngƣời học và cơ
sở dạy nghề, nhƣ cho vay ƣu đãi học nghề, hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông
thôn, bộ đội xuất ngũ, phụ nữ, thanh niên...;đẩy mạnh việc đƣa lao động Việt Nam đi
làm việc ở nƣớc ngồi. Thực hiện tốt chính sách ƣu đãi đối với ngƣời có cơng và chính
sách trợ giúp xã hội cho các đối tƣợng bảo trợ xã hội. Nhà nƣớc tăng thêm nguồn lực
và phát huy vai trò chủ đạo để nâng cao phúc lợi xã hội và phát triển đa dạng hệ thống
các dịch vụ xã hội cơ bản.
Hai là, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội và khả năng tiếp cận các dịch vụ
xã hội, trƣớc hết là các dịch vụ công cộng cơ bản, bảo đảm cơng bằng, bình đẳng cho
mọi ngƣời. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội và
phân phối lại một bộ phận thu nhập quốc dân, nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu

về vật chất và tinh thần, giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các
thành viên, các tầng lớp dân cƣ, các nhóm xã hội và các vùng miền. Trong điều kiện
365


đất nƣớc cịn nhiều khó khăn, thực hiện tốt u cầu này cũng là một biểu hiện thực tế
và sinh động bản chất ƣu việt của chế độ ta.
Ba là, xây dựng và triển khai có hiệu quả các chƣơng trình quốc gia về phát
triển giáo dục, y tế, văn hóa, thơng tin, thể thao, dân số, gia đình và trẻ em. Tiếp tục
đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nhất là ở các vùng nghèo, đặc biệt
khó khăn; đồng thời hồn thiện các chính sách về miễn giảm học phí, học bổng, tín
dụng ƣu đãi cho ngƣời học, phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi; chính sách khám, chữa
bệnh, thụ hƣởng văn hóa, thơng tin, trợ giúp pháp lý; chính sách nhà ở... cho các đối
tƣợng chính sách, đối tƣợng khó khăn. Đặc biệt, phải quan tâm làm tốt hơn cơng tác
chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em để con em chúng ta phát triển tồn diện cả về thể
chất, trí tuệ, tinh thần và nhân cách. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn
hóa, ấm no, hạnh phúc.
Bốn là, do việc nghiên cứu vấn đề chính sách phúc lợi cịn nằm rải rác trong các
tạp chí chun ngành, chủ yếu là tạp chí Xã hội học và đƣa nội dung này lịng ghép
giảng dạy trong học phần ―Chính sách xã hội‖ xuất phát từ đồng nhất ―chính sách phúc
lợi‖ cũng là ―chính sách xã hội‖. Vì vậy, cần đƣa nội dung học phần ―Chính sách phúc
lợi ở địa phƣơng‖ vào nghiên cứu và giảng dạy đối với các khối ngành khoa học xã hội
và nhân văn, đặc biệt là đối với ngành Quản lý Nhà nƣớc. Điều này đã đƣợc Trƣờng
Đại học Thủ Dầu Một thiết kế trong chƣơng trình đạo tạo bậc đại học ngành Quản lý
Nhà nƣớc, đây là hƣớng thiết kế chƣơng trình mới của Nhà Trƣờng và thể hiện tính
phù hợp, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho xã hội, đào tạo nguồn nhân lực, cán bộ,
quản lý, quản trị địa phƣơng trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng và cuộc cách
mạng cơng nghiệp lần thứ tƣ. Chính vì vậy, thiết nghĩ các trƣờng Đại học, học viện có
đào tạo ngành Quản lý Nhà nƣớc cũng theo hƣớng tiếp cận, thiết kế mới này. Đồng
thời, việc nghiên cứu và giảng dạy về phúc lợi xã hội và chính sách phúc lợi xã hội là

cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Thứ tư, tiếp tục nâng cao nhận thức, đổi mới quy trình hoạch định chính sách
phúc lợi xã hội theo hướng dân chủ, huy động sự tham gia đắc lực của toàn xã hội,
nhất là của đội ngũ chuyên gia vào xây dựng chính sách. Tích cực lấy ý kiến và tiếp
thu ý kiến từ các đối tượng chịu tác động trực tiếp của chính sách phúc lợi xã hội.
Phúc lợi xã hội có bản chất xã hội sâu sắc gắn kết hữu cơ giữa quyền lợi và
trách nhiệm của mỗi ngƣời với mỗi đơn vị, cộng đồng và tồn xã hội. Do đó, phúc lợi
xã hội phải bảo đảm chủ động, tích cực và có tính xã hội hoá cao. Cho nên cùng với
tăng cƣờng vai trò của Nhà nƣớc, phải huy động mọi nguồn lực của xã hội, nâng cao
trách nhiệm và năng lực tự an sinh của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng; vừa trợ
giúp kịp thời, hiệu quả trong việc bảo đảm mức sống tối thiểu của ngƣời dân, vừa góp
phần quan trọng thúc đẩy xố đói giảm nghèo, khơng ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.
Cùng với việc nâng cao vai trò, chức năng và tăng thêm nguồn lực của Nhà
nƣớc, phải thực hiện chủ trƣơng ―các chính sách xã hội đƣợc tiến hành theo tinh thần
366


xã hội hóa (văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam)‖; ―tập trung vào cung
cấp dịch vụ cơng, bảo đảm an sinh xã hội, an tồn xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và
cải thiện đời sống cho ngƣời dân; Khơng lồng ghép các chính sách xã hội trong giá.
Hồn thiện pháp luật về phí, lệ phí; rà sốt, chuyển đổi chính sách phí, lệ phí đối với
một số dịch vụ công sang áp dụng chế độ giá dịch vụ (văn kiện Đại hội XII của Đảng
Cộng sản Việt Nam)”. Phải huy động các nguồn lực của toàn xã hội để nâng cao an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Xây dựng một hệ thống phúc lợi xã hội đa tầng, linh
hoạt, bền vững, có thể hỗ trợ lẫn nhau, công bằng về trách nhiệm và lợi ích, chia sẻ rủi
ro, hƣớng tới bao phủ toàn dân, tập trung hỗ trợ cho những ngƣời nghèo, hộ nghèo,
những đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng, đặc biệt là những trẻ em có hồn cảnh khó khăn,
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nƣớc và tiếp cận với thông lệ quốc tế.
Để đổi mới quy trình hoạch định chính sách phúc lợi xã hội theo hƣớng dân chủ

cần lấy ý kiến của ngƣời dân để có những chính sách phúc lợi sát với thực tế, tránh
việc ―chính sách trên trời đƣợc ban hành cho dân dƣới đất‖ vì khơng đủ điều kiện để
thực hiện. Từng bƣớc tạo lập một quy trình làm chính sách phúc lợi xã hội tinh gọn,
tiện lợi nhƣng khoa học, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn
thiện cơ chế thẩm định và phê duyệt chính sách, nhất là với những chính sách lớn,
quan trọng, có tác động trực tiếp và lâu dài tới lợi ích chung của tồn xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng nhƣ hiện nay thì việc đảm
bảo chính sách phúc lợi ở địa phƣơng tốt là mốt yêu cầu bức thiết góp phần đảm bảo
an ninh và ổn định chính trị của đất nƣớc, đồng thời bảo đảm quyền con ngƣời ở nƣớc
ta ngày càng tốt hơn. Với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nƣớc và quyết
tâm của toàn xã hội trong thời gian tới, việc bảo đảm phúc lợi xã hội gắn với đẩy mạnh
phát triển các dịch vụ xã hội phải vừa trợ giúp mọi ngƣời dân đƣợc tiếp cận với các
dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu về khám chữa bệnh, học hành, nhà ở, điện, nƣớc sinh
hoạt, văn hóa, thơng tin và truyền thông, bảo đảm vệ sinh môi trƣờng, đi lại...,vừa đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của nhân dân đối với các dịch vụ này. Mặt khác,
quy định rõ công khai, minh bạch mức thụ hƣởng các phúc lợi xã hội và dịch vụ cơ
bản tối thiểu của ngƣời dân; đồng thời phải khắc phục các tiêu cực, phiền hà, tạo điều
kiện thuận lợi cho mọi ngƣời dân tiếp cận hệ thống dịch vụ này; có chính sách hỗ trợ
phù hợp cho các đối tƣợng khó khăn từ đó đời sống của ngƣời dân sẽ ngày càng đƣợc
cải thiện hơn./.

367


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Thế Cƣờng (2014), Một số vấn đề về chính sách xã hội ở Việt Nam, Viện
Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.
2. Nguyễn Văn Chiểu (2014), Chính sách an sinh xã hội và vai trị của nhà
nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.

3. Lê Quốc Lý (2014), Chính sách an sinh xã hội: Thực trang và giải pháp,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Võ Khánh Vinh & Đỗ Minh Hợp (Đồng chủ biên), (2014) Chính trị học –
những vấn đề cơ bản, Nxb Khoa học xã hội.
5. Trƣờng Đại học Thủ Dầu Một (2015), Phúc lợi xã hội: Hiện trạng và mức độ
tiếp cận của công nhân nhập cư tại các khu cơng nghiệp tỉnh ình Dương, Nxb Chính
trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
6. />7. />
368



×