LỜI MỞ ĐẦU
Sau nhiều thập kỷ hình thành và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu công nghệ cao với nhiều mô hình khác nhau, đang được các quốc gia trên
thế giới, nhất là các nước chậm phát triển vận dụng như một phương thức
hiệu quả nhất huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, tạo động
lực thúc đẩy quá trình hội nhập.
Là một quốc gia thuộc nhóm nước chậm phát triển, Việt Nam không
nằm ngoài quỹ đạo và xu hướng phát triển nói trên. Hơn 20 năm qua, cùng
với sự nghiệp đổi mới toàn diện nền kinh tế, quá trình hình thành và phát triển
các khu công nghiệp đã tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng mới hiện đại, góp
phần từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng hợp tác quốc tế.
Trong gần 20 năm hình thành và phát triển, các khu công nghiệp, khu
chế xuất đã thể hiện được vai trò của mình bằng những thành tựu nổi bật,
khẳng định được sự lựa chọn của Đảng ta là đúng đắn.
Đồng bằng sông Cửu Long, một vùng đất trù phú của đất nước ta, luôn
được biết đến với những cánh đồng màu mỡ, những vườn cây trái sum sê,
những con kênh con rạch chằng chịt... Giờ đây, theo chủ trương của Đảng và
Nhà nước, để công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đất thuần nông nay, những
khu công nghiệp cũng đã mọc lên. Trong những năm qua, rất nhiều khu công
nghiệp của vùng đã hoạt động rất hiệu quả, đã đóng góp đáng kể vào phát
triển nền công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung của vùng.
Qua thời gian thực tập, em đã có dịp được tìm hiểu kỹ hơn về các khu
công nghiệp, khu chế xuất và em thấy rằng: Bên cạnh những thành tựu đã đạt
được, các khu công nghiệp, khu chế xuất vùng đồng bằng sông Cửu Long
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
1
cũng còn rất nhiều vấn đề đang được đặt ra. Trong đó vấn đề nổi cộm là các
khu công nghiệp hoạt động không hiệu quả, không thu hút được vốn đầu tư
của các thành phần trong và ngoài nước, làm cho hiệu quả sử dụng đất rất
thấp. Đây là một vùng đất có nhiều tiềm năng để phát triển nhưng khả năng
thu hút vốn đầu tư nói chung, và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng vào
các khu công nghiệp, khu chế xuất còn rất hạn chế, chiếm tỷ lệ thấp so với
tổng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế
xuất trong cả nước, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của vùng. Vì
vậy, làm sao để thu hút được nhiều hơn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài là một bài toán đang được đặt ra với các khu công nghiệp, khu chế xuất
trong vùng.
Xuất phát từ thực tiễn đó, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế
xuất vùng đồng bằng sông Cửu Long” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp
của mình.
Chuyên đề thực tập của em gồm 3 phần:
Chương I: Khu công nghiệp, khu chế xuất và vai trò của vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào các khu công nghiêp, khu chế xuất
Chương II: Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các
khu công nghiệp, khu chế xuất vùng đồng bằng sông Cửu Long
Chương III: Phương hướng và các giải pháp thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất vùng đồng bằng sông
Cửu Long.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề thực tập này, em
đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của cô giáo – Tiến sỹ Nguyễn
Thị Kim Dung, của các bác, các cô chú, các anh chị trong ban Nghiên cứu và
phát triển các ngành sản xuất, Viện Chiến lược phát triển, đặc biệt là sự giúp
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
2
đỡ rất nhiệt tình của anh Nguyễn Đăng Hưng. Nhân dịp này, em xin được bày
tỏ lòng biết ơn tới cô giáo, cùng toàn thể các bác, các cô chú, các anh chị đã
giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Do thời gian không dài, kiến thức của em còn nhiều hạn chế, và việc
tìm kiếm số liệu cũng gặp nhiều khó khăn, nên bài viết của em còn nhiều
thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô để em hoàn thiện bài
viết tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
3
Chương I: Khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) và vai trò của
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, KCX
1.1. Vai trò của các KCN, KCX đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội
1.1.1. Khái niệm về KCN, KCX
Theo Nghị định của Chính phủ số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3
năm 2008 quy định về KCN, KCX thì KCN, KCX được hiểu như sau:
• Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.
• Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu,
thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có
ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp
dụng đối với khu công nghiệp quy định tại Nghị định này.
KCN, KCX được gọi chung là khu công nghiệp, trừ trường hợp quy
định cụ thể.
Như vậy, các KCN, KCX là nơi tập trung các doanh nghiệp công
nghiệp, doanh nghiệp chế xuất đảm bảo tiết kiệm và tận dụng tối đa cơ sở hạ
tầng, quản lý hành chính và quản lý môi trường thuận lợi hơn, tốt hơn. Chúng
có những đặc trưng sau đây:
+ KCN, KCX được coi là một địa bàn tự do thu nhỏ về chính sách kinh
tế - xã hội, một “phòng thí nghiệm” các chính sách mở cửa của nước sở tại.
Việc xây dựng các KCN, KCX có thể làm thay đổi diện mạo một vùng kinh
tế, tạo điều kiện cho dân cư được tiếp cận với một nền công nghiệp hiện đại,
làm thay đổi tập quán sinh hoạt ở địa phương.
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
4
+ KCN, KCX là nơi tiếp nhận, chuyển giao và áp dụng có hiệu quả
nhất những thành tựu khoa học công nghệ, áp dụng vào quá trình sản xuất
kinh doanh và dịch vụ bởi một địa bàn tương đối rộng, được quy hoạch theo
chiến lược phát triển lâu dài của nền kinh tế, với một hệ thống cơ sở hạ tầng
kỹ thuật tương đối hiện đại, đồng bộ, cùng với những chính sách ưu đãi mà
Nhà nước giành cho các KCN, KCX , tạo điều kiện thuận lợi cho các khu
công nghiệp tiếp nhận các công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới, tận dụng
được lợi thế của nước đi sau để rút ngắn khoảng cách về khoa học công nghệ
với các nước khác.
+KCN, KCX là bộ phận không thể tách rời của một quốc gia, thường
là những khu vực địa lý riêng biệt thích hợp, có hàng rào giới hạn với các
vùng lãnh thổ còn lại của nước sở tại và được Chính phủ chính thức cho phép
thành lập.
Các KCN, KCX được thành lập phải được Thủ tướng chính phủ phê
duyệt. Các KCN, KCX được hình thành trên địa bàn lãnh thổ phải đáp ứng
các điều kiện và tiêu chí sau đây:
+ Việc hình thành các KCN, KCX phải phù hợp với quy hoạch, kế
hoạch và tình hình phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất của từng địa phương.
+ Các KCN, KCX phải có điều kiện thuận lợi hoặc có khả năng xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, triển khai đồng bộ
và kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển KCN, KCX với quy hoạch phát
triển đô thị, phân bố dân cư, nhà ở, các công trình xã hội phục vụ công nhân
trong KCN, KCX.
+ Các KCN, KCX phải có quỹ đất dự trữ để mở rộng và có điều kiện
liên kết thành cụm các khu công nghiệp; riêng đối với các địa phương thuần
túy nông nghiệp, khi phát triển các khu công nghiệp để thực hiện mục tiêu
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
5
chuyển đổi cơ cấu kinh tế cần tiến hành phân kỳ đầu tư chặt chẽ nhằm đảm
bảo sử dụng đất có hiệu quả.
+ Các KCN, KCX phải có khả năng thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu
tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Đây là một điều kiện hết sức quan
trọng, bởi vì vốn đầu tư là đầu vào quan trọng nhất đối với tất cả các KCN,
KCX, là điều kiện cần để phát triển các khu công nghiệp.
+ KCN, KCX phải được xây dựng ở những địa phương có khả năng
cung cấp và đáp ứng nhu cầu về lao động một cách tốt nhất.
+ Phải đảm bảo được các yêu cầu về an ninh quốc phòng.
+ Đối với các địa phương đã phát triển khu công nghiệp, việc thành lập
mới các khu công nghiệp chỉ được thực hiện khi tổng diện tích đất công
nghiệp của các khu công nghiệp đã được thuê ít nhất là 60%.
+ Đối với khu công nghiệp có quy mô diện tích trên 500ha và có nhiều
chủ đầu tư tham gia đầu tư xây dựng – kinh doanh kết cấu hạ tầng, phải tiến
hành lập quy hoạch chung xây dựng khu công nghiệp theo hướng dẫn của Bộ
Xây dựng trược khi lập kế hoạch chi tiết khu công nghiệp để đảm bảo tính
thống nhất và tính đồng bộ của hệ thống hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp.
+ Trong các KCN, KCX không có khu dân cư. Trong khu công nghiệp
có thể có khu chế xuất, có doanh nghiệp chế xuất.
1.1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển các
KCN, KCX.
a) Chủ trương phát triển các KCN, KCX
Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, việc phát triển các
KCN, KCX được coi là nhân tố cơ bản trong việc khai thác tốt tiềm năng nội
sinh, thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài, đây là con
đường ngắn nhất để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, và
cũng chính là con đường mà Việt Nam đã chọn.
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
6
KCN, KCX của Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với công
cuộc đổi mới được khởi xướng từ Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thữ VI (1986). Thông qua nghị quyết của Đảng từ các kỳ
Đại hội từ năm 1986 đến nay, đã hình thành hệ thống các quan điểm nhất
quán của Đảng về phát triển KCN, KCX ; khẳng định vai trò của KCN, KCX
trong việc “tạo nền tảng để đến cuối năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Sau gần 15 năm phát triển, với những thành tựu nổi bật trong phát triển
kinh tế, góp phân quan trọng trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, các KCN,
KCX đã khẳng định sự lựa chọn của Đảng ta là đúng đắn, là hợp lý.
b) Cơ chế chính sách cho phát triển các KCN, KCX
Để phát triển các KCN, KCX, cần phải thu hút được các nhà đầu tư đầu
tư vào đó. Muốn vậy, phải tạo ra được một môi trường đầu tư thật thuận lợi.
Một trong những yếu tố “hấp dẫn” các nhà đầu tư là cơ chế chính sách ưu tiên
của Đảng, Nhà nước, của địa phương về đầu tư vào các KCN, KCX
Trong suốt thời kỳ hình thành và phát triển các KCN, KCX, quản lý
Nhà nước về phát triển các khu công nghiệp luôn luôn được đổi mới, hoàn
thiện hơn. Các chính sách ưu đãi và những điều kiện về mặt hành chính được
cải cách sao cho lợi ích của nhà đầu tư là cao nhất. Điển hình là các cơ chế,
chính sách sau:
+ Cơ chế “một cửa, tại chỗ”: Các KCN, KCX thực sự là nơi thử
nghiệm mô hình “một cửa, tại chỗ”. Ở những địa phương có KCN, KCX thì
Ban quản lý các KCN, KCX cũng được thành lập nhằm thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước ngay tại địa phương có KCN, KCX đó. Ban quản lý các
KCN, KCX được Bộ Kế hoạch và đầu tư ủy quyền quản lý Nhà nước về hoạt
động đầu tư (bao gồm tiếp nhận hồ sơ, cấp phép và giải quyết các vấn đề phát
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
7
sinh trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp). Ban quản lý các KCN, KCX
là đầu mối liên kết giữa nhà đầu tư với KCN, KCX, thông qua Ban quản lý
các KCN, KCX, nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận với các thông tin về KCN, KCX,
nắm bắt được tình hình của các khu công nghiệp một cách rõ ràng, chi tiết
hơn và được giải quyết thủ tục đầu tư ngay tại địa phương chứ không phải qua
nhiều “cửa” như trước đây. Nhờ đó, giúp cho nhà đầu tư nước ngoài nhanh
chóng và đơn giản hóa việc xin phép đầu tư, giảm bớt được chi phí về thời
gian và tiền bạc; đồng thời giúp giảm bớt khối lượng công việc của cơ quan
Trung ương, tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, nắm bắt tình hình hoạt
động của các doanh nghiệp trong KCN, KCX một cách trực tiếp và sâu sát
hơn thông qua Ban quản lý các KCN, KCX.
+ Chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp: những dự án đầu
tư vào KCN, KCX được hưởng ưu đãi cao hơn đối với các dự án cùng
ngành nghề, cùng lĩnh vực nhưng đầu tư ngoài KCN, KCX như giảm 50%
thuế thu nhập đối với người có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập, kể
cả người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại các KCN, KCX ; khu
vực đầu tư nước ngoài được khuyến khích, ưu tiên cao hơn đối với khu vực
đầu tư trong nước.
+ Chính phủ đã bãi bỏ một số quy định về thuế theo hướng khuyến
khích đầu tư nước ngoài như: thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; áp dụng
một số chính sách giá trị gia tăng (VAT), thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
theo hướng ưu đãi đặc biệt đối với doanh nghiệp khu chế xuất.
Một số chính sách về đất đai cũng được xây dựng, sửa đổi theo hướng
ưu đãi tiền thuê đất đối với doanh nghiệp KCN, KCX
+ …
1.1.3. Vai trò của các KCN, KCX đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
8
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm của Việt
Nam trong gần 15 năm qua cho thấy, hình thành và phát triển các KCN, KCX
đã đóng góp một phần rất lớn vào quy mô, tốc độ tăng trưởng của ngành công
nghiệp nói riêng và vào quy mô, tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế
đất nước nói chung. Nhờ vận hành mô hình này thành công, nhiều quốc gia đã
thoát nghèo và ngày càng trở nên giàu mạnh. KCN, KCX ngày càng khẳng
định được vai trò quan trọng của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Điều đó được thể hiện nổi bật trong những khía cạnh sau:
Thứ nhất, sự hình thành các KCN, KCX sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn
trong việc huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài
nước phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vốn là một yếu tố cơ bản của quá trình công nghiệp hóa. Theo tính toán
của các chuyên gia kinh tế: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng
bước phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải có một lượng đầu tư
rất lớn. Vì vậy, làm sao để thu hút được nhiều nhất nguồn vốn đầu tư trong
nước và các nguồn lực của nước ngoài là câu hỏi được đặt ra ở các nước đang
phát triển. Phát triển các KCN, KCX là một mô hình lý tưởng để giải đáp một
phần câu hỏi trên. Là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, với nhiều
điều kiện ưu đãi, cơ sở hạ tầng thuận lợi cho công việc sản xuất kinh doanh…
nên các KCN, KCX ngày càng là một điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư,
nhất là các nhà đầu tư nước ngoài.
Ở Việt Nam, vốn đầu tư thu hút vào các KCN, KCX liên tục tăng lên
qua các thời kỳ. Tính đến cuối tháng 12/2005, các KCN, KCX ở nước ta đã
thu hút được 2120 dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng số
vốn đăng lý đạt 16.843 triệu USD; 2376 dự án trong nước còn hiệu lực với
tổng số vốn đầu tư trên 117 nghìn tỷ đồng. Đến tháng 9/2008, các khu công
nghiệp đã thu hút thêm được 1041 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
9
đăng ký tăng thêm là 14.259 triệu USD, 715 dự án đầu tư trong nước với tổng
số vốn đăng ký tăng thêm là 68.363 tỷ đồng so với thời điểm T12/2005.
Như vậy có thể thấy rằng các KCN, KCX có đóng góp không nhỏ
trong việc huy động nguồn lực vào thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước
Thứ hai, sự phát triển các KCN, KCX góp phần đáng kể vào GDP,vào
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đa dạng
hóa ngành nghề, nâng cao trình độ công nghệ và khả năng cạnh tranh của sản
phẩm, góp phần chuyển dịch cơ cấu chung của cả nước.
Các KCN, KCX đóng góp lớn vào việc nâng cao giá trị sản xuất công
nghiệp , nâng cao giá trị gia tăng của ngành công nghiệp, do đó góp phần làm
tăng GDP của địa phương nói riêng, và của cả nước nói chung, đồng thời
trực tiếp làm tăng tỷ trọng ngành công nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Mặt
khác, các KCN, KCX hình thành và phát triển kéo theo các ngành dịch vụ
phục vụ đời sống và sản xuất bên trong KCN, KCX cũng được phát triển
mạnh mẽ hơn, làm cho tỷ trọng ngành dịch vụ tăng lên. Vì vậy, các KCN,
KCX góp phần đáng kể làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Các dự án đầu tư vào KCN, KCX rất đa dạng, với nhiều ngành nghề
khác nhau, trong đó có nhiều ngành nghề mới. Thêm vào đó, sự xuất hiện của
các ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu của các KCN, KCX. Do đó, các KCN,
KCX góp phần làm đa dạng hóa các ngành nghề.
Các KCN, KCX là nơi thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước, các dự án trong KCN, KCX thường có công nghệ tiên
tiến, vì vậy năng lực sản xuất cao hơn. Vì vậy, các doanh nghiệp ở ngoài các
KCN, KCX muốn tồn tại và phát triển thì phải nâng cao năng lực cạnh tranh
của mình. Như vậy, các KCN, KCX đã gián tiếp thúc đẩy khả năng cạnh tranh
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
10
của các doanh nghiệp, làm cho thị trường càng năng động hơn, hiệu quả hơn,
hội nhập với thế giới tốt hơn.
Thứ ba, phát triển KCN, KCX tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng công
nghiệp mới, có giá trị lâu dài, đồng thời góp phần hiện đại hóa hệ thống kết
cấu hạ tầng trên cả nước
Việc phát triển các KCN, KCX góp phần đáng kể vào việc hiện đại hóa
hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, KCX, tạo điều kiện
thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa, mở rộng thị trường tiêu thụ.
Để thu hút đầu tư, thì cần phải có một cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh và
thuận lợi cho nhà đầu tư. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng không chỉ được
tiến hành bên trong KCN, KCX mà còn phải được đầu tư cả ở bên ngoài
KCN, KCX, tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại.
Có thể thấy rằng, việc hình thành các KCN, KCX đã đẩy mạnh phát
triển hệ thống kết cấu hạ tầng, có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tế địa
phương, góp phần rút ngắn sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
Thứ tư, phát triển các KCN, KCX tạo điều kiện để tập trung xử lý chất
thải, bảo vệ môi trường sinh thái.
KCN, KCX là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, do đó có
điều kiện tập trung các chất thải do các doanh nghiệp thải ra dể xử lý, tránh
tình trạng khó kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp do phân tán về địa
điểm sản xuất
KCN, KCX góp phần thực hiện mục tiêu di dời các cơ sở sản xuất từ
nội đô vào, do đó góp phần giải quyết ô nhiễm đô thị, xử lý tập trung ô nhiễm.
KCN, KCX tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan quản lý nhà
nước về môi trường trong việc kiểm soát ô nhiễm và có biện pháp xử lý kịp
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
11
thời đối với hành vi gây ô nhiễm của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp
ngoài KCN, KCX.
Thứ năm, các KCN, KCX đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết
việc làm, nâng cao dân trí và thực hiện các chính sách xã hội
Lao động là một đầu vào quan trọng, không thể thiếu đối với tất cả các
doanh nghiệp dù là ở lĩnh vực nào. Vì vậy, việc hình thành các KCN,
KCX_nơi tập trung một số lượng lớn các doanh nghiệp công nghiệp, đã mở ra
một không gian kinh tế rộng lớn, một kênh mới rất có tiềm năng thu hút lao
động ở nhiều trình độ khác nhau, nhờ đó đã giải quyết vấn đề việc làm cho
hàng chục vạn lao động, trong đó có một phần đáng kể là lao động nông thôn
dư thừa, giúp họ có một công việc ổn định, được đào tạo tay nghề, chuyên
môn, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, góp phần tích cực vào việc đẩy lùi các
tệ nạn xã hội. Tính đến T8/2008, các KCN, KCX ở nước ta đã thu hút được
khoảng 1.064.000 lao động trực tiếp, nếu tính đến cả lao động gián tiếp thì số
lao động thu hút được ước tính khoảng 1,5 – 1,8 triệu lao động.
KCN, KCX là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp
vói công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. Do
đó, KCN, KCX đóng góp rất lớn vào đào tạo nguồn nhân lực để hình thành
đội ngũ lao động của nền công nghiệp hiện đại. Ở nước ta, nhiều khu công
nghiệp đã xây dựng các cơ sở dạy nghề (trường cao đẳng kỹ thuật công nghệ
Biên Hòa, Trung tâm dạy nghề Việt Nam – Singapore…). Đặc biệt đã hình
thành mô hình liên kết đào tạo và sử dụng nhân lực giữa các khu công nghiệp
và Nhà trường.
KCN, KCX là nơi doanh nghiệp được thử thách trong môi trường cạnh
tranh sôi động không chỉ trong nước, mà còn thử thách trong môi trường cạnh
tranh quốc tế. Cạnh tranh và quan hệ cung – cầu lao động diễn ra ở khu vực
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
12
này rất gay gắt, tạo động lực để lao động không ngừng phấn đấu, nâng cao tay
nghề, nâng cao trình độ chuyên môn.
Thứ sáu, các doanh nghiệp trong KCN, KCX góp phần làm tăng nguồn
thu cho ngân sách Nhà nước
Thông qua việc thực hiện nghĩa vụ thuế, các doanh nghiệp trong các
KCN, KCX đã đóng góp một phần không nhỏ vào nguồn thu ngân sách Nhà
nước.
Cuối cùng, KCN, KCX có tác dụng lan tỏa tích cực tới trình độ phát
triển của các vùng, các ngành, các lĩnh vực
Mối liên kết thể hiện trước tiên trong phạm vi nội bộ KCN, KCX bởi
những ngành nghề bổ trợ lẫn nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư trong
KCN, KCX đã tạo điều kiện cho các ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào phát
triển và bản thân các doanh nghiệp trong KCN, KCX có điều kiện tiêu thụ sản
phẩm của nhau.
Các KCN, KCX ra đời đã tạo nên những vùng công nghiệp tập trung,
tác động rất tích cực tới việc phát triển các cơ sở nguyên liệu, thúc đẩy phát
triển các loại hình dịch vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản
hàng hóa, nâng cao hiệu quả tổng hợp của các ngành sản xuất. Hiệu quả này
đặc biệt rõ nét ở các KCN, KCX thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, đồng
bằng sông Cửu Long.Khu công nghiệp là nơi tiêu thụ các yếu tố đầu vào,
cung cấp các đầu ra cho địa phương và các vùng lân cận, do đó nó có sức lan
tỏa tích cực tới các vùng lân cận, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các vùng
đó theo hướng tích cực.
Việc phát triển các KCN, KCX có tác động rõ rết đến quá trình quy
hoạch, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cũng như quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động của địa phương nơi có khu công nghiệp và ở các vùng lân cận.
Bởi vì, các địa phương đề ra các chương trình và giải pháp cụ thể về đào tạo
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
13
nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động, cung cấp lao
động cho các KCN, KCX; mặt khác, khi nhận thức được cơ hội có việc làm,
tự người dân đến tuổi lao động tại các địa phương sẽ chủ động định hướng
cho minh trong việc học nghề.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, một trong những yếu tố quan
trọng hàng đầu giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh chính là chất
lượng sản phẩm. Trong lĩnh vực này, các KCN, KCX cũng có tác động lan
tỏa rất lớn đến công nghiệp địa phương. Các doanh nghiệp trong KCN, KCX
thường là những dự án đầu tư mới, phần lớn được trang bị máy móc thiết vị
thế hệ mới, đồng bộ. Với thế mạnh về công nghệ, thiết bị, cộng với phương
pháp quản lý tiến bộ, cac doanh nghiệp này sản xuất ra sản phẩm có chất
lượng tốt và ổn định. Vì vậy, để cạnh tranh có hiệu quả và tồn tại được trên
thị trường, các doanh nghiệp ngoài KCN, KCX sản xuất sản phẩm cùng loại
không còn cách nào khác là phải áp dụng mọi biện pháp để không ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, góp phần giúp công nghiệp địa
phương từ chỗ phục vụ nhu cầu tại chỗ là chính đã vươn ra thị trường cả nước
và xuất khẩu.
Như vậy, vai trò của KCN, KCX trong quá trình đô thị hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn là rất quan trọng. Các KCN, KCX khong chỉ
trực tiếp thúc đẩy công nghiệp của địa phương và của vùng phát triển mạnh
mẽ, mà cón có tác động lan tỏa rộng rãi tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của
đời sống kinh tế từng địa phương và cả nước. Đó chính là hạt nhân của
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước.
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
14
1.2. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và hoạt động thu hút
FDI vào các KCN, KCX
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức của FDI
a)Khái niệm
FDI là nguồn vốn lớn, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế ở
các nước đang phát triển. FDI trở thành một tất yếu kinh tế trong điều kiện
quốc tế hóa sản xuất và lưu thông. Không có một quốc gia nào, dù lớn hay
nhỏ, dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa lại
không cần đến FDI và tất cả đều coi đó là nguồn lực quốc tế quan trọng cần
khai thác để từng bước hòa nhập vào cộng đồng quốc tế.
Theo luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thì “ Đầu tư trực
tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng
tiền hoặc bằng bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư”. Như
vậy, hình thức đầu tư này không đơn thuần chỉ là sự chu chuyển tài chính
quốc tế, mà cùng với nó là sự chuyển giao công nghệ, bí quyết quản lý và các
tài sản vô hình khác. FDI là một loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó chủ
sở hữu đồng thời là người trực tiếp quản lý điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Theo khái niệm của Quỹ Tiền tệ quốc tế đưa ra năm 1977 thì: “Đầu tư
trực tiếp nước ngoài là quá trình đầu tư mà nhà đầu tư thực hiện công việc đầu
tư kinh doanh hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất nước
mình nhằm thu về những lợi ích lâu dài.” Định nghĩa này đề cao mục đích của
các nhà đầu tư_ thu về những lợi ích lâu dài, nó phân biệt rõ ràng đầu tư trực
tiếp với đầu tư gián tiếp nước ngoài. Đầu tư gián tiếp nhà đầu tư không tham
gia vào quá trình quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Như vậy, có thể định nghĩa: “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động
đầu tư do các tổ chức kinh tế và cá nhân nước ngoài tự mình hoặc cùng với
các tổ chức kinh tế của nước sở tại bỏ vốn vào một đối tượng nhất đinh, trực
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
15
tiếp quản lý và điều hành để thu lợi trong kinh doanh. Hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài thường được tiến hành thông qua các dự án – gọi là dự án đầu
tư trực tiếp nước ngoài”.
b) Đặc điểm của FDI
Thứ nhất, FDI không dể lại gánh nặng nợ nần cho Chính phủ nước tiếp
nhận đầu tư
Khi thực hiện hình thức FDI, các nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn ra
kinh doanh, trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh, làm ăn lâu dài ở nước sở
tại, hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư. Nước tiếp nhận FDI
không phải chịu những điều kiện ràng buộc kèm theo của người cung ứng vốn
như tiếp nhận ODA, hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay
thương mại, viện trợ không hoàn lại… Do vậy, FDI là hình thức thu hút và sử
dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư.
Đây là điều nhiều nước đang phát triển và chậm phát triển rất quan tâm, vì
khả năng trả nợ của họ thường là yếu kém.
Thứ hai, FDI là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn
khỏi nước sở tại
Kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực
năm 1997 đã cho thấy, những nước chịu tác động nặng nề của khủng hoảng
thường là những nước nhận nhiều vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài; ngược
lại những nước thu hút nhiều FDI thường chịu tác động của cuộc khủng
hoảng ít hơn, nhẹ hơn. Chính vì vậy, sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ,
các nước đang phát triển được khuyến cáo nên thay đổi chính sách theo
hướng thận trong hơn với đầu tư gián tiếp, chú trọng hơn đến việc thu hút
FDI. Bởi vì trong trường hợp không muốn đầu tư tiếp, nhà đầu tư trực tiếp
cũng không thể rút vốn dễ dàng, nhanh chóng như đầu tư gián tiếp, vì vốn của
họ nằm trực tiếp trong nhà xưởng, thiết bị trên nước sở tại.
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
16
Thứ ba, FDI không đơn thuần chỉ là vốn, mà kèm theo đó là công nghệ,
kỹ thuật,phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo ra những sản phẩm mới,
mở ra thị trường mới cho nước tiếp nhận đầu tư.
Đây là điểm hấp dẫn quan trọng của FDI. Các nước đang phát triển
thường có trình độ khoa học và công nghệ thấp, lạc hậu. Để rút ngắn khoảng
cách và đuổi kịp các nước công nghiệp phát triển, thì những nước này cần
nhanh chóng tiếp cận với các kỹ thuật mới, tiên tiến. Tùy theo hoàn cảnh cụ
thể của mình, mỗi nước có cách đi riêng để nâng cao trình độ công nghệ của
mình, thông qua FDI là cách tiếp cận nhanh, trực tiếp, thuận lợi. Đồng thời,
FDI có tác dụng rõ nét hơn các hình thức đầu tư nước ngoài khác trong việc
chấn hưng, làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư.
c)Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI tồn tại dưới nhiều hình thức, song những chủ yếu là 3 hình thức:
hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên
(gọi là hợp doanh) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh
cho mỗi bên để tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư
mà không thành lập một pháp nhân.
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình doanh nghiệp do hai bên hoặc
nhiều bên nước ngoài, hợp tác với nước tiếp nhận đầu tư cùng góp vốn, cùng
kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh
nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn,
có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của
nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài) do nhà đầu tư nước
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
17
ngoài thành lập tại nước tiếp nhận đầu tư, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm
hoàn toàn về kết quả sản xuất, kinh doanh của mình.
1.2.2. Lợi ích chung và những hạn chế của việc thu hút FDI đối với
nước nhận đầu tư.
a) Lợi ích
Cùng với nguồn vốn trong nước, FDI đóng vai trò rất quan trọng đối
với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở các nước đang phát
triển. Việc tiếp nhận FDI mang lại rất nhiều lợi ích cho nước sở tại, điều đó
thể hiện ở những khía cạnh sau:
FDI bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế. Các nước đang phát
triển cần có một lượng vốn lớn để đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều
kiện khoa học, kỹ thuật thế giới phát triển ngày càng mạnh mẽ; tuy nhiên,
do năng suất lao động thấp, thu nhập người dân còn thấp dẫn đến khả năng
tích lũy nội bộ thấp, cản trở họ tiếp cận với những công nghệ tiên tiến. Do
đó FDI là một nguồn vốn quan trọng để giải quyết một phần bài toán thiếu
vốn ở các nước này.
Thông qua FDI, các nước sở tại tiếp thu được công nghệ, kỹ thuật
tiên tiến hiện đại. Cùng với việc cung cấp vốn, qua hình thức này, các công
ty nước ngoài đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác tiên
tiến hơn sang cho nước tiếp nhận đầu tư, do đó các nước tiếp nhận đầu tư
có thể nhân được nhưng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại (thực tế, có
những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn
thuần), những kinh nghiệm quản lý, năng lực Marketing, đội ngũ lao động
được đào tạo, rèn luyện về mọi mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp làm
việc, kỷ luật lao động…).
FDI có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đầu tư FDI làm cho hoạt động đầu tư trong
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
18
nước phát triển. Các doanh nghiệp trong nước được tham gia vào mạng lưới
sản xuất toàn cầu, để tồn tại được trong môi trường đó, đòi hỏi các doanh
nghiệp trong nước phải nâng cao tính năng động và khả năng cạnh tranh trong
nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các tiềm năng của đất nước. Điều đó
có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực,
phù hợp với xu hướng chung của phân công lao động quốc tế.
Các doanh nghiệp FDI thu hút một số lượng lớn lao động, giải quyết
được việc làm cho một bộ phận không nhỏ lực lượng lao động.
Việc tiếp nhận FDI không đẩy các nước vào cảnh nợ nần, không chịu
những ràng buộc về chính trị, xã hội.
FDI góp phần bổ sung đáng kể vào nguồn thu ngân sách quốc gia thông
qua việc thực hiện nghĩa vụ về thuế cho doanh nghiệp có vốn FDI.
Như vậy, có thể thấy lợi ích của FDI với nước sở tại có thể chia thành
hai loại: Tác động trực tiếp được tạo ra thông qua những mối quan hệ giữa
nước đầu tư và nước nhận đầu tư trên cơ sở chuyển giao vốn, công nghệ tiên
tiến và bí quyết quản lý hiện đại, nâng cao trình độ quản lý và kinh doanh của
các công ty địa phương. Tác động gián tiếp được tạo ra thông qua việc tăng
cường tính cạnh tranh của cả hai phía đối tác hoặc lợi ích bên ngoài, hiện
tượng này gọi là “hiệu ứng lan tỏa” của FDI.
b) Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì FDI cũng có những hạn chế
nhất định, đó là:
Khai thác và sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhiều
nước sở tại có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đây chính là một
điểm rất hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Họ sử dụng tài nguyên thiên
nhiên làm nguyên liệu đầu vào, và thường có xu hướng khai thác, sử dụng quá
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
19
mức để đạt được mức lợi nhuận cao nhất. Điều này, nếu không được kiểm
soát một cách chặt chẽ, sẽ làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt.
Chuyển giao công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm môi trường. Không phải
tất cả các công nghệ của các dự án FDI đều là công nghệ tiên tiến, hiện đại,
mà trong đó, bên đầu tư chuyển giao cả công nghệ đã lỗi thời, lạc hậu, biến
nước nhận đầu tư trở thành “bãi rác” để thải bỏ những công nghệ không thể
dùng được ở nước họ nữa, gây ra ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Gây ra những xung đột về mặt xã hội: Do có khác biệt về văn hóa của
nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư, sự khác biệt trong nhận thức về luật
pháp, cách hiểu khác nhau về thái độ và hành vi trong quá trình điều hành,
giao tiếp và xử sự làm phát sinh những xung đột giữa giới chủ với công nhân.
Mặt khác, nguồn vốn nước ngoài di chuyển vào trong nước làm tăng thu nhập
của vốn nước ngoài trên thị trường trong nước và làm giảm thu nhập của vốn
trong nước. Về thực chất, đây là việc tái phân phối thu nhập của vốn trong
nước cho vốn nước ngoài, do đó có thể gây ra làn sóng “bài ngoại”, của vốn
trong nước và hiện tượng phân biệt ngấm ngầm hoặc công khai trong quan hệ
giữa vốn trong và ngoài nước. Điều này thể hiện nhiều ở các xung đột giữa
các bên mang quốc tịch khác nhau trong liên doanh và trên thực tế có rất
nhiều liên doanh bị đổ vỡ do những bất đồng phát sinh không thể dung hòa.
FDI làm tăng khoảng cách giữa các vùng trong nước, giữa thành thị và
nông thôn, gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Vì mục đích cuối cùng và quan
trọng nhất của nhà đầu tư là luôn luôn tối đa hóa lợi nhuận, họ thực hiện quá
trình sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật của quốc gia sở tại, nhưng chỉ
đầu tư vào những vùng, những ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận cao.
1.2.3. Quan niệm về hoạt động thu hút FDI vào các KCN, KCX
Thu hút FDI vào các KCN, KCX là một quá trình bao gồm nhiều hoạt
động khác nhau và các quyết định nối tiếp nhau nhằm vận động và giúp đỡ
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
20
các nhà đầu tư nước ngoài ra quyết định và thực hiện đầu tư vào một KCN,
KCX cụ thể của một quốc gia.
Hoạt động thu hút có nghĩa là các hoạt động nhằm gia tăng sự chú ý và
quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế vào các dự án đầu tư cụ thể trong một
KCN, KCX, có thể mang lại lợi ích thương mại cho các nhà đầu tư. Hoạt
động này bao gồm nhiều nội dung, liên quan chặt chẽ với nhau. Việc thực
hiện tốt và có sự phối hợp đồng bộ giữa các nội dung sẽ mang lại kết quả cao
cho hoạt động thu hút FDI vào các KCN, KCX của một quốc gia.
Thu hút FDI vào KCN, KCX có các hình thái chủ động và bị động.
Hình thái chủ động là hình thái các chủ thể trong nước sở tại tích cực, chủ
động tìm kiếm nhà đầu tư nước ngoài, thuyết phục họ đầu tư vào các KCN,
KCX thông qua các hoạt động mang tính chuyên nghiệp như tham gia triển
lãm quốc tế, chủ động tìm kiếm đối tác đầu tư bằng cách tiếp xúc với các
doanh nghiệp khác tham gia triển lãm; quảng cáo trên các tờ báo quốc tế có
uy tín; quảng bá hình ảnh của các KCN, KCX trong nước thông qua hoạt
động quan hệ công chúng. Những khu công nghiệp áp dụng hình thái chủ
động thường thành công hơn trong hoạt động thu hút FDI. Thông qua hình
thái chủ động, ban quản lý các khu công nghiệp luôn tìm cơ hội được thể hiện
mình rõ nét nhất, ấn tượng nhất trước mắt các nhà đầu tư nước ngoài, làm cho
họ biết đến mình để so sánh, cân nhắc với các đối tượng khác trước khi quyết
định đầu tư. Từ đó cũng làm tăng cơ hội được lựa chọn trước các nhà đầu tư.
Hình thái bị động là các KCN, KCX chờ đối tác nước ngoài đến, giới thiệu và
đề xuất với các nhà đầu tư những lợi thế về địa điểm, nhân lực của khu công
nghiệp để giúp nhà đầu tư đi đến quyết định đầu tư vào một khu công nghiệp
mà họ kỳ vọng. Hình thái này luôn mang lại hiệu quả kém hơn trong hoạt
động thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp. Chính vì luôn chờ đợi các nhà
đầu tư tìm đến mà các KCN, KCX thuộc hình thái bị động nhiều khi đã đánh
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
21
mất đi những cơ hội thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài khi cuộc chiến
cạnh tranh để thu hút FDI vào các KCN, KCX đang diễn ra rất quyết liệt giữa
các quốc gia trong khu vực và giữa các địa phương trong cả nước. Hiện nay,
các KCN, KCX ở Việt Nam hầu như đang ở hình thái bị động.
1.2.4. Các nhân tố tác động tới việc thu hút FDI vào các KCN, KCX
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, KCX là hoạt động mà nhà
đầu tư nước ngoài bỏ nguồn lực vào để tiến hành sản xuất và cung cấp dịch
vụ trong khu vực nhất định do nước sở tại quyết định thành lập. Khi đầu tư
vào KCN, KCX, nhà đầu tư nước ngoài có thể lựa chọn hai hình thức: đầu tư
vào xây dựng cơ sở hạ tầng và đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Mục đích của tất cả các nhà đầu tư đều là nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì
vậy, trước khi bỏ vốn ra đầu tư, nhà đầu tư sẽ phải xem xét, tính toán, lựa
chọn rất kỹ càng. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI của một
khu công nghiệp. Có thể phân những yếu tố đó theo hai nhóm sau:
1.2.4.1. Các nhân tố thuộc môi trường đầu tư của nước sở tại
-Nhân tố chính trị - xã hội
Sự ổn định chính trị và an ninh là yếu tố cơ bản đảm bảo cho quá trình
đầu tư lâu dài, đảm bảo an toàn cho nguồn vốn đầu tư, vì vậy đây chính là yếu
tố đầu tiên khiến các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm khi có ý định đầu tư vào
một quốc gia. Cho dù một quốc gia có đầy đủ các điều kiện thuận lợi về tài
nguyên thiên nhiên và con người; có môi trường đầu tư thuận lợi và ưu đãi
với các nhà đầu tư nước ngoài cũng không thể hấp dẫn được họ vì những rủi
ro là quá lớn mỗi khi có sự thay đổi thể chế chính trị. Những sự thay đổi này
sẽ làm đảo lộn phương hướng, chiến lược hay đình trệ hoạt động sản xuất
kinh doanh của họ. Có ổn định chính trị thì những cam kết của chính quyền
địa phương nước sở tại đối với nhà đầu tư về sở hữu vốn đầu tư, các chính
sách ưu tiên, định hướng phát triển mới được đảm bảo. Sự ổn định về mặt xã
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
22
hội, tức là nhà đầu tư nước ngoài được đảm bảo an toàn về con người, về tài
sản, hạn chế tối đa các tệ nạn xã hội có thể tác động tới tâm lý của các nhà
đầu tư. Như vậy, sự ổn định về chính trị - xã hội là nhân tố tích cực tác động
đến tình hình thu hút FDI và ngược lại, sự bất ổn về chính trị - xã hội là
nguyên nhân để các nhà đầu tư nước ngoài xa lánh.
-Nhân tố kinh tế
Đây là nhân tố tập hợp của những yếu tố như: cơ sở hạ tầng, khả năng
vốn đầu tư trong nước, mức độ phát triển kinh tế và các chính sách kinh tế
ảnh hưởng tới việc thu hút FDI vào quốc gia sở tại. Cơ sở hạ tầng có ý nghĩa
rất quan trọng đối với việc thu hút FDI. Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống kho,
cảng, đường xá, sân bay, điện, nước, dịch vụ bưu chính viễn thông… tốt sẽ
giảm bớt chi phí đầu vào và thúc đẩy quá trình lưu thông, tiêu thụ sản phẩm.
Bên cạnh đó, để thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài, cần phải có một
nguồn vốn trong nước tương đối lớn để đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật. Chi
phí này bao gồm: chi phí đất đai, chi phí xây dựng, chi phí mua sắm trang
thiết bị máy móc, chi phí công trình phụ trợ… Nguồn vốn trong nước dồi dào
sẽ là một nguồn lực quan trọng hình thành nên những cơ sở hạ tầng hiện đại,
đáp ứng nhu cầu và thu hút được vốn cảu các nhà đầu tư nước ngoài. Mức độ
phát triển kinh tế thể hiện qua tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, GDP/đầu người có
ảnh hưởng tới quyết định đầu tư vào một quốc gia của nhà đầu tư nước ngoài.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế khẳng định rằng nền kinh tế của nước sở tại đang
tăng trưởng theo chiều hướng tốt hay xấu, các chính sách kinh tế của Nhà
nước có hợp lý hay không, có phát huy được tác dụng hay không, và nền kinh
tế ổn định ở mức độ nào. Ngoài ra, các chính sách kinh tế đặc biệt là các
chính sách liên quan đến đầu tư nước ngoài như các quy định về chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách thuế, chính sách
khuyến khích FDI, chính sách tỷ giá hối đoái…là những công cụ quan trọng
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
23
của chính quyền nước sở tại nhằm tác động vào việc ra quyết định đầu tư của
nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một quốc gia/
-Nhân tố hệ thống pháp luật đầu tư
Hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài vào một quốc gia bao gồm luật
và các văn bản pháp lý khác của quốc gia sở tại điều chỉnh hoạt động đầu tư
nước ngoài như: quá trình hình thành, thẩm định, cấp giấy phép đầu tư và
quản lý hoạt động của các dự án FDI. Hệ thống pháp luật đầu tư của nước sở
tại càng phù hợp với thông lệ quốc tế, luật khuyến khích và tạo thuận lợi cho
các nhà đầu tư nước ngoài thì cùng với các yếu tố khác như cơ sở hạ tầng tốt,
hệ thống tài chính, tiền tệ ổn định và hiệu quả, ổn định chính trị - xã hội sẽ
xây dựng nên một môi trường kinh doanh hấp dẫn, thu hút ngày càng nhiều
các nhà đầu tư nước ngoài.
-Nhân tố văn hóa
Bên cạnh kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kết cấu hạ tầng xã hội cũng rất quan
trọng. Việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần phong phú cho các nhà đầu
tư nước ngoài có ý nghĩa không nhỏ vì sau những giờ làm việc căng thẳng,
các nhà đầu tư cần đến các hoạt động thể thao, giải trí, nghỉ ngơi lành mạnh.
Nghiên cứu và xây dựng mô hình đời sống văn hóa đa dạng, phù hợp với thói
quen, tâm lý các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo ra sức hút mạnh mẽ đối với họ.
Ngoài ra, đặc điểm của nền văn hóa xã hội của địa phương cũng sẽ tạo ra điều
kiện thuận lợi hay không thuận lợi về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán
để trở thành yếu tố khuyến khích hay kìm hãm việc thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài. Khi thực hiện quy hoạch các KCN, KCX, phải gắn với yếu tố văn
hóa của địa phương. Các công trình văn hóa không chỉ phục vụ cho lợi ích
tinh thần cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn phải quan tâm đến nhu cầu
của người lao động; dành một tỷ lệ thích đáng diện tích mặt bằng cho giao
thông, thông tin bưu chính, khu cây xanh, nhà văn hóa, sân thể thao phục vụ
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
24
người lao động… đời sống văn hóa, tinh thần phong phú sẽ mang lại hiệu quả
làm việc cao cho người lao động và cũng là mang lại lợi ích cho nhà đầu tư
nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiêm, nhân tố văn
hóa cũng rất được chú ý khi lựa chọn địa điểm đầu tư.
1.2.4.2. Nhân tố thuộc môi trường đầu tư của KCN, KCX
Bên cạnh những nhân tố thuộc về môi trường đầu tư chung ảnh hưởng
tới hoạt động thu hút FDI, thì có rất nhiều những yếu tố bên trong KCN, KCX
và yếu tố thuộc về địa phương có KCN, KCX ảnh hưởng mạnh mẽ tới xu
hướng phát triển của dòng vốn FDI vào các KCN, KCX:
-Hệ thống các ngành công nghiệp phụ trợ và dịch vụ phục vụ kinh
doanh tại địa phương
Một doanh nghiệp muốn hoạt động được thì ngoài những nguyên,
nhiên vật liệu chính còn phải sử dụng những hàng hóa và dich vụ do các
doanh nghiệp khác cung ứng. Trong điều kiện ngày nay, mức độ chuyên môn
hóa trong sản xuất kinh doanh ngày một tăng dẫn đến sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các doanh nghiệp ngày càng lớn. Chính vì vậy, khi quyết định lựa chọn
một KCN, KCX làm địa điểm kinh doanh, các nhà đầu tư quan tâm đến các
ngành công nghiệp phụ trợ và các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ phục vụ
kinh doanh ngay tại KCN, KCX và ngay tại địa phương đó. Các ngành công
nghiệp phụ trợ sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư những vật tư phu, dịch vụ gia
công, cung cấp các chi tiết sửa chữa máy móc, thiết bị… Các doanh nghiệp
cung ứng dịch vụ kinh doanh sẽ cung cấp các dịch vụ như là tư vấn, kiểm
toán, ngân hàng, tài chính, tư vấn luật, đào tạo… Địa phương có ngành công
nghiệp phụ trợ và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh được thỏa mãn được nhu cầu của
nhà đầu tư sẽ giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của địa phương. Chính vì
vậy, địa phương cần quy hoạch và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ đi
Lª ThÞ Thanh – Líp KÕ Ho¹ch 47A
25