Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Thuỷ sản của VN thời kỳ hậu WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.87 KB, 64 trang )

A-LỜI MỞ ĐẦU
Sau 20 tiếp nhận nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, nền kinh tế Việt
Nam đã có những bước đi khởi sắc. Cơ cấu các ngành kinh tế đã có những sự
chuyển dịch tích cực mang tính thị trường. Từ khi nguồn vốn FDI được thu
hút đầu tư Việt Nam các ngành kinh tế đã được đầu tư thích đáng, thúc đẩy
nhanh công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Thuỷ sản cũng là một trong
số ngành đó. Sau những năm đổi mới. Thuỷ sản Việt Nam đã có những bước
đi khẳng định mình trong nền kinh tế Việt Nam cũng như trong nền kinh tế
thế giới. Tuy còn nhiều bất cập và yếu kém về nhiều mặt nhưng Thuỷ sản
Việt Nam cũng đã vươn lên đứng vị trí thứ 10 trong các nước xuất khẩu Thuỷ
sản.
Và đặc biệt hơn sau khi Việt Nam ra nhập WTO thì cơ hội cho ngành Thuỷ
sản càng được nâng cao hơn. Khi các nhà đầu tư liên tục đăng ký vốn đầu tư
vào Việt Nam. Mặc dù vậy, ngành Thuỷ sản hầu như vẫn chưa được quan tâm
tương xứng với tiềm năng sẵn có, lượng vốn đầu tư vào ngành chiếm một tỷ
lệ rất nhở so với lượng vốn đầu tư cho Nông nghiệp.
Với tính cần thiết và cấp bách của vấn đề, Tôi đã chọn đề tài : “ Giải pháp
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Thuỷ sản của Việt Nam
thời kỳ hậu WTO” làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình.
Do hạn chế về kiến thức, thời gian và số liệu nên bài viết này Tôi không tránh
khỏi những thiếu sót. Mong được sự góp ý của Thày giáo TS. Nguyễn Ngọc
Sơn và các bạn để hoàn thiện chuyên đề thực tập của Tôi.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Ngọc Sơn và các cán bộ phòng Nông
– Lâm – Ngư nghiệp Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp
đỡ Tôi hoàn thành chuyên đề thực tập này.
B - NỘI DUNG
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ FDI VÀ SỰ CẦN THIẾT
THU HÚT FDI VÀO NGÀNH THUỶ SẢN.
I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ FDI
1. Khái niệm về FDI.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức


đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách
thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ
nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với
những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chứ trong một nền kinh thế (nhà đầu tư
trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế
khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong
việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó. Hội nghị Liên Hợp
Quốc về TM và Phát triển UNCTAD cũng đưa ra một doanh nghiệp về FDI.
Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông
qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các
doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ
doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ phận : vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư
và các khoản vay nợ trong nội bộ công ty. Các nhà kinh tế quốc tế định
nghĩa : đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc
kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà
đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết
định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực
thể kinh tế ấy.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu tư
trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền nước ngoái hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam
chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí
nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định
của luật này.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “ một doanh
nghiệp đầu tư trực tiếp là một DN có tư cách pháp nhân hoặc không có tư
cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu
thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ
định thực hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên không phải tất cả các QG

nào đều sử dụng mức 10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những
trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn
10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi
nhiều lúc lớn hơn nhưng vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra Định nghĩa như sau về FDI :Đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu
tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền
quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công
cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà
người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường
hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được
gọi là “ công ty con hay chi nhánh công ty”. ( Nguồn Cục đầu tư nước ngoài -
Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp
nước ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc
nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào
quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một
thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiên tối đa hoá lợi ích của mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình
(máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và
giấy phép có giá trị …), tài sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và kinh
nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy
ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố
nước ngoài. Hai đặc điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong
phạm vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào
hoạt động sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.
2. Các hình thức FDI.
2.1. Doanh nghiệp liên doanh :
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức
được sử dụng rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ

trước đến nay. Nó công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách
hợp pháp và có hiệu quả thông qua hoạt động hợp tác.
Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất quốc
tế, hình thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ
thống tài chính, luật pháp và bản sắc văn hoá; hoạt động trên cơ sở sự đóng
góp của các bên về vốn, quản lí lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi
nhuận cũng như rủi ro có thể xảy ra; hoạt động của liên doanh rất rộng, gồm
cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ
bản và nghiên cứu triển khai.
Đối với nước tiếp nhận đầu tư :
Ưu điểm : giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, giúp đa dạng hoá sản phẩm,
đổi mới Công nghệ, tạo ra thị trường mới và tạo cơ hội cho người lao động
làm việc và học tập kinh nghiệm quản lý của nước ngoài.
Nhược điểm: mất nhiều thời gian thương thảo vác vấn đề liên quan đến dự án
đầu tư, thường xuất hiện mẫu thuẫn trong quản lý điều hành doanh nghiệp;
đối tác nước ngoài thương quan tâm đến lợi ích toàn cầu, vì vậy đôi với liên
doanh phải chịu thua thiệt vì lợi ích ở nơi khác.; thay đổi nhân sự ở công ty
mẹ có ảnh hưởng tới tương lai phát triển của liên doanh.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài :
Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại;
được đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh dễ thu lời, lình vực bị cấm hoặc
hạn chế đối với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; thâm nhập
được những thị trường truyền thống của nước chủ nhà. Không mất thời gian
và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ.
Chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư.
Nhược điểm: khác biệt về nhìn nhận chi phí đầu tư giữa hai bên đối tác; mất
nhiều thời gian thương thảo mọi vấn đề liên quan đến dự án đầu tư, định giá
tài sản góp vốn giải quyết việc làm cho người lao động của đối tác trong
nước; không chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp, dễ bị mất cơ hội
kinh doanh khó giải quyết khác biệt về tập quán, văn hóa.

2.2. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là một hình thức doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt
động đầu tư quốc tế.
Khái niệm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh có
tư cách pháp nhân, được thành lập dựa trên các mục đích của chủ đầu tư và
nước sở tại.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của
chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về môi
trường kinh doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh tế,
luật pháp, văn hóa, mức độ cạnh tranh…
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân là 1 thự thể pháp
lý độc lập hoạt động theo luật pháp nước sở tại. Thành lập dưới dạng công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Đối với nước tiếp nhận :
Ưu điểm: Nhà nước thu được ngay tiền thuê đất, tiền thuế mặc dù DN bị lỗ;
giải quyết được công ăn việc làm mà không cần bỏ vốn đầu tư; tập trung thu
hút vốn và công nghệ của nước ngoài vào những linh vực khuyến khích xuất
khẩu; tiếp nhận được thị trường nước ngoài.
Nhược điểm : Khó tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ nước ngoài đê
nâng cao trình độ cán bộ quản lý, cán bộ kĩ thuật ở các doanh nghiệp trong
nước.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài :
Ưu điểm: chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp thực hiện được
chiến lược toàn cầu của tập đoàn; triển khai nhanh dự án đầu tư; được quyền
chủ động tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
chung của tập đoàn.
Nhược điểm: chủ đầu tư phải chịu toàn bộ rủi ro trong đầu tư; phải chi phí
nhiều hơn cho nghiên cứu tiếp cận thị trường mới; không xâm nhập được vào
những lĩnh vực có nhiều lợi nhuận thị trường trong nước lớn, khó quan hệ với

các cơ quan quản lý Nhà nước sở tại.
2.3. Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đòng hợp tắc kinh
doanh.
Hình thức này là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân
hia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không
thành lập pháp nhân mới.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giữa đại diện có thẩm
quyền của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định rõ việc
thực hiện phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên
Đặc điểm là các bên kí kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong quá trình kinh
doanh các bên hợp doanh có thể thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát
việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phân chia kết quả kinh doanh:
hình thức hợp doanh không phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân
chia kết quả kinh doanh chung theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo thoả thuận giữa
các bên. Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước sở
tại một cách riêng rẽ. Pháp lý hợp doanh là một thực thể kinh doanh hoạt
động theo luật pháp nước sở tại chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại.
quyền lợi và nghĩa vụ của các bên hợp doanh được ghi trong hợp đồng hợp
tắc kinh doanh.
Đối với nước tiếp nhận :
Ưu điểm: giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, thiếu nghệ, tạo ra thị trường
mới nhưng vấn đảm bảo được an ninh quốc gia và nắm được quyền điều hành
dự án.
Nhược điểm: khó thu hút đầu tư ,chỉ thực hiện được đối với một số ít lĩnh
vực dễ sinh lời.
Đối với nước nhận đầu tư :
Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của dối tác nước sở tại
vào được những linh vực hạn chế đầu tư thâm nhập được nhưng thị trường
truyền thống của nước chủ nhà; không mất thời gian và chi phí cho việc
nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ; không bị tác động

lớn do khác biệt về văn hoá; chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư.
-Nhược điểm: không được trực tiếp quản lý điều hành dự án, quan hệ hợp tác
với đối tá nước sở tại thiếu tính chắc chắn làm các nhà đầu tư e ngại.
2.4. Đầu tư theo hợp đồng BOT.
BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ một số mô
hình hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhan để thực hiện xây dựng cơ sở hạ
tầng vẫn được dành riêng cho khu vực nhà nước. Trong một dự án xây dựng
BOT, một doanh nhân tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận hành một
công trình mà thường do chính phủ thực hiện. Công trình này có thể là nhà
máy điện, sân bay, cầu, cầu đường… Vào cuối giai đoạn vận hành doanh
nghiệp tư nhân sẽ chuyển quyền sở hữu dự án về cho chính phủ.
Hợp đồng BOT là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan
có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ
tầng (kể cả mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình) và kinh doanh trong
một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển
giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.
Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây dựng
chuyển giao BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT nhưng có
điểm khác là: đối với hợp đồng BTO sau khi xây dựng xong công trình nhà
đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chinh phủ nước
chủ nhà dành cho quyền kinh doanh công trình đó hoặc công trình khác trong
một thời gian đủ để hoàn lại toàn bộ vốn đầu tư và có lợi nhuận thoả đáng về
công trình đã xây dựng và chuyển giao.
Đối với hợp đồng BT, sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước
ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ nước chủ nhà
thanh toán bằng tiền hoặc bằng tài sản nào đó tương xứng với vốn đầu tư đã
bỏ ra và tỉ lệ lợi nhuận hợp lý.
Doanh nghiệp được thành lập thực hiện hợp đồng BOT, BTO, BT mặc dù hợp
đồng dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài nhưng đối tác cùng thực hiện hợp đồng là các cơ quan quản lí nhà

nước ở nước sở tại. Lĩnh vực hợp đồng hẹp hơn các doanh nghiệp FDI khác,
chủ yếu áp dụng cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng; được hưởng các ưu
đãi đầu tư cao hơn sơ với các hình thức đầu tư khác và điểm đặc biệt là khi
hết hạn hoạt động, phải chuyển giao không bồi hoàn cơ sở hạ tầng đã được
xây dựng và khai thác cho nước sở tại.
Đối với nước chủ nhà :
Ưu điểm: thu hút được vốn đầu tư vào những dự án có sở hạ tầng đòi hỏi vốn
đầu tư lớn, do đó giảm được sức ép cho ngân sách nhà nước, đồng thời nhanh
chóng có được công trình kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh giúp khơi dậy các nguồn
lực trong nước và thu hút thêm FDI để phát triển kinh tế.
Nhược điểm: khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lí và khó kiểm soát công trình.
Mặt khác, nhà nước phải chịu mọi rủi ro ngoài khả năng kiểm soát của nhà
đầu tư.
Đối với đầu tư nước ngoài :
Ưu điểm: hiệu quả sử dụng vốn được bảo đảm; chủ động quản lí, điều hành
và tự chủ kinh doanh lợi nhuận, hông bị chia sẻ và được nhà nước sở tại đảm
bảo, tránh những rủi ro bất thường ngoài khả năng kiểm soát.
Nhược điểm: việc đàm phán và thực thi hợp đồng BOT thường gặp nhiều khó
khăn tốn kém nhiều thời gian và công sức.
2.5. Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con (Holding company).
Holding company là một trong những mô hình tổ chức quản lí được thừa nhận
rộng rãi ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
Holding company là một công ty sở hữu vốn trong một công ty khác ở mức
đủ để kiểm soát hoạt động quản lí và điều hành công ty đó thông qua việc gây
ảnh hưởng hoặc lựa chọn thành viên hợp đồng quản trị.
Holding company được thành lập dưới dạng công ty cổ phần và chỉ giới hạn
hoạt động của mình trong việc sở hữu vốn, quyết định chiến lược và giám sát
hoạt động quản lí của các công ty con, các công ty con vẫn duy trì quyền
kiểm soát hoạt động kinh doanh của mình một cách độc lập, tạo rất nhiều
thuận lợi.

Cho phép các nhà đầu tư huy động vốn để triển khai nhiều dự án đầu tư khác
nhau mà còn tạo điểu kiện thuận lợi cho họ điều phối hoạt động và hỗ trợ các
công ty trực thuộc trong việc tiếp thị, tiêu thụ hàng hoá, điều tiết chi phí thu
nhập và các nghiệp vụ tài chính.
Quản lí các khoản vốn góp của mình trong công ty khác như một thể thống
nhất và chịu trách nhiệm về việc ra quyết định và lập kế hoạch chiến lược
điều phối các hoạt động và tài chính của cả nhóm công ty.
Lập kế hoạch, chỉ đạo, kiểm soát các luồng lưu chuyển vốn trong danh mục
đầu tư. Holding company có thể thực hiện cả hoạt động tài trợ đầu tư cho các
công ty con và cung cấp dịch vụ tài chính nội bộ cho các công ty này.
Cấp cho các công ty con các dịch vụ như kiểm toán nội bộ, quan hệ đối ngoại,
phát triển thị trường, lập kế hoạch, nghiên cứu và phát triển
2.6. Hình thức công ty cổ phần :
Công ty cổ phần (công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn)là doanh nghiệp trong
đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần các cổ
đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi vốn đã góp vào doanh nghiệp cổ đông có thể là tổ chức
cá nhân với số lượng tối đa không hạn chế, nhưng phải đáp ứng yêu cầu về số
cổ đông tối thiểu. Đặc trưng của công ty cổ phần là nó có quyền phát hành
chứng khoán ra công chúng và các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ
phần của mình cho người khác.
Cơ cấu tổ chức, công ty cổ phần phải có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và
giám đốc. Thông thường ở nhiều nước trên thế giới, cổ đông hoặc nhóm cổ
đông sở hữu trên 10% số cổ phiếu thường có quyền tham gia giám sát quản lý
hoạt động của công ty cổ phần. Đại hội cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền
biểu quyết là co quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần
Ở một số nước khác, công ty cổ phần hữu hạn có vốn đầu nước ngoài được
thành lập theo cách: thành lập mới, cổ phần hoá doanh nghiệp FDI (doanh
nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang hoạt động,
mua lại cổ phần của doanh nghiệp trong nước và cổ phần hoá.

2.7. Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài :
Hình thức này được phân biệt với hình thức công ty con 100% vốn nước
ngoài ở chỗ chi nhánh không được coi là một pháp nhân độc lập trong khi
công ty con thường là một pháp nhân độc lập. Trách nhiệm của công ty con
thường giới hạn trong phạm vi tài sản ở nước sở tại, trong khi trách nhiệm của
chi nhánh theo quy định của 1 ố nước, không chỉ giới hạn trong phạm vi tài
sản của chi nhánh, mà còn được mở rộng đến cả phần tài sản của công ty mẹ
ở nước ngoài.
Chi nhánh được phép khấu trừ các khoản lỗ ở nước sở tại và các khoản chi
phí thành lập ban đầu vào các khoản thu nhập của công ty mẹ tại nước ngoài.
Ngoài ra chi nhánh còn được khấu trừ một phần các chi phí quản lý của công
ty mẹ ở nước ngoài vào phàn thu nhập chịu thuế ở nước sở tại
Việc thành lập chi nhánh thường đơn giản hơn so với việc thành lập công ty
con. Do không thành lập 1 pháp nhân độc lập, việc thành lập chi nhánh không
phải tuân thủ theo các quy định về thành lập công ty, thường chỉ thông qua
việc đăng kí tại các cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà.
2.8. Hình thức công ty hợp danh :
Công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất hai thành viên hợp danh,
ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp
danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp và phải
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ của công ty;
thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh không được phát hành
bất kì loại chứng khoán nào. Các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau
khi quyết định các vấn đề quản lý công ty, còn thành viên góp vốn có quyền
được chia lợi nhuận theo tỷ lệ quy định tại điều lệ công ty nhưng không được
tham gia quản lý công ty và hoạt động kinh doanh nhân danh công ty.
Khác với doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
hình thức đầu tư này mang đặc trưng của công ty đối nhân tiền về thân nhân
trách nhiệm vô hạn, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ. Hình thức đầu tư này trước hết

rất phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ, nhưng vì có những ưu điểm rõ rệt nên
cũng được các doanh nghiệp lớn quan tâm.
Việc cho ra đời hình thức công ty hợp danh ỏ các nước nhăm tao thêm cơ hội
cho nhà đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư cho phù hợp với yều cầu, lợi ích của
họ. Thực tế cho thấy một số loại hình dịch vụ như tư vấn pháp luật, khám
chữa bệnh, thiết kế kiến trúc.. đã và đang phát triển nhanh chóng. Đó là
những dịch vụ mà người tiêu dùng không thể kiểm tra được chất lượng cung
ứng trước khi sử dụng, nhưng lại có ảnh hưởng đến sức khoẻ tính mạng và tài
sản của người tiêu dùng khi sử dụng. Việc thành lập công ty hợp danh là hình
thức thức đầu tư phù hợp trong việc phát triển và cung cấp các dịch vụ nêu
trên. Trong đó những người có vốn đóng vai trò là thành viên góp vốn và chịu
trách nhiệm hữu hạn còn các nhà chuyên môn là thành viên hợp danh tổ chức
điều hành, cung ứng dịch vụ và chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản
của họ.
2.9. Hình thức mua lại sát nhập ( M&A ):
Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa các TNC lớn và tập trung vào các
lĩnh vực công nghiệp ô tô, dược phẩm, viễn thông và tài chính ở các nước
phát triển.
Mục đích chủ yếu :
Khai thác lợi thế của thị trường mới mà hoạt động thương mại quốc tế hay
đầu tư mới theo kênh truyền thống không mang lại hiệu quả mong đợi. Hoạt
động M&A tạo cho các công ty cơ hội mở rộng nhanh chóng hoạt động ra thị
trường nước ngoài.
Bằng con đường M&A, các TNC có thể sáp nhập các ty của mình với nhau
hình thành một công ty khổng lồ hoạt động trong nhiều lĩnh vực hay các công
ty khác nhau cùng hoạt động trông một lĩnh vực có thể sáp nhập lại nhằm tăng
khả năng cạnh tranh toàn cầu của doanh nghiệp.
Các công ty vì mục đích quốc tế hoá sản phẩm muốn lấp chỗ trống trong hệ
thống phân phối của họ trên thị trường thế giới.
Thông qua con đường M&A các ty có thể giảm chi phí từng lĩnh vực nghiên

cứu và phát triển sản xuất, phân phối và lưu thông.
M&A tao điều kiện thuận lợi cho việc tái cấu trúc các ngành công nghiệp và
cơ cấu ngành công nghiệp ở các quốc gia, do đó, hình thức này đóng vai trò
quan trọng trong sự nghiệp phát triển công nghệ ở mỗi quốc gia.
MA theo chiều ngang xảy ra khi 2 công ty hoạt động trong cùng 1 lĩnh vực
sản xuất kinh doanh muốn hình thành 1 công ty lớn hơn để tăng khả năng
cạnh tranh, mở rộng thị trường của cùng một loại mà trước đó hai công ty
cùng sản xuất.
MA theo chiều dọc diễn ra khi 2 công ty hoạt động ở 2 lĩnh vực khác nhau
nhưng cùng chịu sự chi phối của 1 công ty mẹ, loại hình MA này thường xảy
ra ở các công ty xuyên quốc gia.
MA theo hướng đa dạng hoá hay kết hợp thường xảy ra khi các ty lớn tiến
hành sáp nhập với nhau với mục tiêu tối thiểu hoá rủi ro và tránh thiệt hại khi
một công ty tự thâm nhập vào thị trường.
So với đầu tư truyền thống, từ quan điểm của nước tiếp nhận đầu tư:
Về bổ sung vốn đầu tư trong khi hình thức đầu tư truyền thống bổ ngày một
lượng vốn FDI nhất định cho đầu tư phát triển thì hình thức MA chủ yếu
chuyển sở hữu từ các doanh nghiệp đang tồn tại ở nước chủ nhà cho các công
ty nước ngoài. Tuy nhiên, về dài hạn, hình thức này cũng thu hút mạnh được
nguồn vốn từ bên ngoài cho nước chủ nhà nhờ mở rộng quy mô hoạt động
của doanh nghiệp.
Về tạo việc làm, hình thức đầu tư truyền thống tạo ngay được việc làm cho
nước chủ nhà, trong khi hình thức M&A không những không tạo được việc
làm ngay mà còn có thể làm tang thêm tình trạng căng thẳng về việc làm
(tăng thất nghiệp) cho nước chủ nhà. Tuy nhiên về lâu dài, tình trạng này có
thể được cải thiện khi các doanh nghiệp mở rông quy mô sản xuất.
Về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, đầu tư truyền thống tác động trực tiếp
đến thay đổi cơ cấu kinh tế thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới
trong khi đó M&A không có tác động trong giai đoạn ngắn hạn
Về cạnh tranh và an ninh quốc gia, trong khi đầu tư truyền thống thúc đẩy

cạnh tranh thì M&A không tác động đáng kể đến tình trạng cạnh tranh về mặt
ngắn hạn nhưng về dài hạn có thể làm tăng canh tranh độc quyền. Mặt khác,
M&A có thể ảnh hưởng đến an ninh của nước chủ nhà nhiều hơn hình thức
truyền thống bởi vì tài sản của nước chủ nhà được chuyển cho người nước
ngoài
3. Vai trò của FDI.
3.1. Bổ sung cho nguồn vốn trong nước.
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi
một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu
vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài,
trong đó có vốn FDI. Khi nguồn vốn FDI được đầu tư vào trong nước sẽ được
tận dụng cho các dự án cần đầu tư, đặc biệt với các dự án không có nguồn vốn
thì FDI là một giải pháp tối ưu khi dự án không có vốn đầu tư. Trong nền kinh
tế pháp triển nhanh, ngày càng cần nhiều vốn đầu tư cho các lĩnh vực quan
trọng và vùng kinh tế, thì thu hút vốn FDI vào tăng khả năng thực hiện dự án,
không để tình trạng dự án treo vì không có vốn đầu tư.
3.2. Chuyển giao công nghệ và bí quyết quản lý.
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động
được phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ
và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ
các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí
quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua
nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các
công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất
nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước. Như các lĩnh vực công nghệ cao thì
thu hút FDI vào sẽ tận dụng được khả năng quản lý chặt chẽ và có kỷ luật của
nhà đầu tư. Các công nghệ máy móc hiện đại cũng sẽ được nhập vào nước
cùng với các phương thức vận hành. Các nước tiếp nhận sẽ tiết kiệm được chi
phí cho việc tiếp nhận các công nghệ cao của các nước đầu tư.
3.3. Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu.

Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư
của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan
hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động
khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới
sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu. Các công ty đa quốc gia
đặt các chi nhánh, các cơ sở sản xuất tại nhiều nước, do vậy mà khi các sản
phẩm hoàn chỉnh cần sự kết hợp của nhiều nước tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp trong nước xuất khẩu mặt hàng mình sản xuất, tham gia trực tiếp vào
mạng lưới sản xuất toàn cầu. Kết nối các khu công nghiệp sản xuất của nhiều
nước trên thế giới.
3.4. Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công.
Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được
khi phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn
nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương
được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương.
Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong
nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút
FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ
năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các
nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng
nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
3.5. Nguồn thu ngân sách lớn.
Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do
các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan
trọng. Chẳng hạn, ở Hải Dương riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford
chiếm 50 phần trăm số thu nội địa trên địa bàn tỉnh năm 2006. Đặc biệt là các
công ty có vốn FDI là ăn có lợi nuận càng tạo thêm nguồn thu ngân sách lớn,
với xu hướng hiện nay là thu hút FDI vào trong nước thì việc thu thuế từ các
công ty này là rất nhiều, các nguồn vốn FDI thường được quản lý chặt chẽ
nên tình trạng thất thoát là rất ít.

II : CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN FDI.
1. Môi trường đầu tư
Việt Nam hiện tại được coi là tương đối hấp dẫn, an toàn và có lợi thế lâu dài
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương:
Việt Nam có môi trường chính trị - xã hội ổn định, đáp ứng được nhu cầu làm
ăn lâu dài của các nhà đầu tư, Việt Nam cũng có lợi thế về vị trí địa lý vì nằm
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động, đã tham
gia Hiệp định CEPT/AFTA với quy mô thị trường 500 triệu người; đã tham
gia chương trình thu hoạch sớm (EHP) của Hiệp định khung về hợp tác kinh
tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc, có đường biên giới chung với các tỉnh
phía nam Trung Quốc.
Sau gần 20 năm đổi mới, Việt Nam cũng từng bước hình thành thể chế kinh tế
thị trường, duy trì được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và nhịp độ tăng
trưởng kinh tế cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong cả thập kỷ 90 là
7,2%, cao hơn mức tăng trưởng bình quân cùng kỳ của các nước trong khu
vực là 3,7%. Ba năm gần đây (2001-2003) tốc độ tăng trưởng GDP là 6,9%;
7,0%, 7,2%. Nhờ vậy tổng GDP trong 10 năm đã tăng gấp hơn 2 lần. Cơ cấu
kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sau 12
năm (1991-2003) tỷ trọng GDP của ngành công nghiệp, dịch vụ tăng lên, còn
tỷ trọng ngành nông nghiệp đã giảm đi đáng kể. Ở thời điểm năm 2003 cơ cấu
GDP của các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ là
22,26%/39,94%/37,8%.
Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, có trí thức và tương đối trẻ. với số dân
80 triệu, đứng thứ 13 trên thế giới, đời sống người dân ngày càng được nâng
cao, Việt Nam được đánh giá là một nước có tiềm năng về thị trường lao động
và thị trường hàng hoá. Về chất lượng nguồn nhân lực, chỉ số phát triển nguồn
nhân lực của Việt Nam đang ở mức cao hơn trình độ phát triển kinh tế, có khả
năng tiếp thu và thích nghi nhanh với hoạt động chuyển giao công nghệ, điều
này cũng phản ánh những ưu thế của lao động Việt Nam xét về dài hạn (hiện
tại Việt Nam đứng thứ 5 trong số các nước ASEAN về chỉ số phát triển con

người, sau Singapore, Malaysia, Thailand, Philippines). chi phí sử dụng lao
động của kỹ sư và công nhân Việt Nam cũng được đánh giá là có lợi hơn so
với các nước lân cận (lương trả chỉ bằng 60-70% của Trung Quốc, Thái Lan;
18% của Singapore; 3-5% của Nhật Bản).
2. Công cuộc đổi mới, cải cách nền kinh tế theo hướng hội nhập,
Mở cửa cả bên trong và bên ngoài đã tạo môi trường kinh doanh ngày càng
thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp:
Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam đã từng bước được hình thành, phát
triển và được thúc đẩy theo hướng tự do hoá thương mại và đầu tư, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp hợp tác và cạnh tranh bình đẳng, huy động được
nhiều nguồn lực hơn vào phát triển kinh tế xã hội. Quá trình cải cách trên các
lĩnh vực tài chính, tiền tệ cũng được đẩy mạnh thông qua việc cơ cấu lại hệ
thống các ngân hàng, điều chỉnh tỷ giá hối đoái linh hoạt, cải cách hệ thống
thuế, đổi mới thu chi ngân sách Nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính...
ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước
phát triển sản xuất kinh doanh.
Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần cũng tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hợp tác và cạnh tranh bình đẳng
hơn; huy động được thêm nhiều nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội. Việc phát huy mạnh mẽ nguồn nội lực trong thời
gian qua cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực từ bên ngoài.
Việc Nhà nước đầu tư đáng kể cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
như hệ thống đường sá, cầu cảng, hệ thống thông tin liên lạc, điện nước....đẩy
mạnh cải cách hành chính để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trong
những năm qua đã cải thiện rõ rệt điều kiện và môi trường kinh doanh cho các
doanh nghiệp , góp phần tiết kiệm các chi phí trung gian, hạ giá thành sản
phẩm cho các doanh nghiệp
Việc tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá cũng
tạo điều kiện mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam, Đến nay

Việt Nam đã có quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại với trên 150 nước và
cùng lãnh thổ, tham gia tích cực vào cơ cấu hợp tác khu vực và thế giới như
ASEAN, ASEM, APEC và đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO vào
2005. Việc ký kết các Hiệp định CEPT/AFTA, Hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản
(2003), sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản (12/2003)... đã làm tăng thêm
sức hấp dẫn của môi trường đầu tư của Việt Nam.
3. Chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài nước của Việt Nam
Có nhiều ưu đãi, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài
kinh doanh có hiệu quả:
So với Luật đầu tư nước ngoài của nhiều nước, Luật đầu tư nước ngoài của
Việt Nam được đánh giá là khá thông thoáng. Đặc biệt là sau khi ban hành
Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000, Việt Nam đã có nhiều chính sách
nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ các khó khăn nhằm giúp các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài kinh doanh có hiệu quả. Cụ thể:
Các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư trong hầu hết các lĩnh vực của
nền kinh tế (trừ an ninh, quốc phòng), được quyền chủ động lựa chọn các
hình thức đầu tư, địa điểm, đối tác đầu tư, quy mô dự án; được trực tiếp tuyển
dụng lao động; được khuyến khích, ưu đãi đầu tư vào các khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao.
Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được quyền mua bán ngoại tệ ở các ngân
hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai. Chính phủ bảo đảm cân
đối ngoại tệ cho các dự án quan trọng, bỏ khống chế lãi suất trần đối với các
khoản vay về ngoại tệ và các khoản vay nước ngoài, giảm tỷ lệ kết hối ngoại
tệ từ 80% năm 1998 xuống 30% năm 2002 và 0% năm 2003.
Nhà nước thực hiện giảm giá các dịch vụ cung cấp điện nước, bưu chính viễn
thông: thực hiện từng bước thống nhất một loại giá dịch vụ, không phân biệt
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, áp dụng chính
sách không hồi tố đối với những ưu đãi đã quy định trong giấy phép đầu tư,
đồng thời cho phép các doanh nghiệp được hưởng các ưu đãi ở mức cao hơn

các chính sách được ban hành.
Đối với hoạt động đầu tư trong nước, Luật khuyến khích đầu tư trong nước
cũng tạo nhiều điều kiện thông thoáng khuyến khích các cá nhân, tổ chức bỏ
vốn đầu tư. Nhà nước cũng tạo nhiều điều kiện khuyến khích, hỗ trợ khu vực
kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tiếp cận nguồn vốn tín
dụng; tạo mặt bằng kinh doanh, tiếp cận thông tin thị trường và xúc tiến
thương mại, đặc biệt từ sau khi Luật doanh nghiệp được ban hành (năm
2000). Nhờ vậy, từ năm 2000-2003 đã có khoảng 75.000 doanh nghiệp tư
nhân được thành lập (gấp 1,66 làn thời kỳ 1990-1999), với số vốn đăng ký
khoảng 10 tỷ USD, lớn hơn 4 lần số vốn đăng ký của khu vực tư nhân thời kỳ
1990-1999 và lớn hơn rất nhiều số vốn đầu tư nước ngoài cùng thời kỳ.
4. Một số hạn chế tồn tại của đầu tư FDI vào Việt Nam
Mặc dù đã có những bước phát triển mạnh mẽ song về cơ bản Việt Nam vẫn
là một nước nông nghiệp, quy mô của nền kinh tế còn nhỏ bé, các cơ sở công
nghiệp và trình độ kỹ thuật - công nghệ còn thấp, cơ cấu kinh tế còn chuyển
biến chậm, hiệu quả đầu tư chưa cao, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn chưa
đáp ứng được các yêu cầu phát triển.
Hệ thống luật pháp về kinh tế của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn
thiện, chưa đảm bảo tính bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế; tính ổn định và minh bạch chưa cao, mức độ rủi ro pháp luật còn
lớn và khó dự báo; hệ thống văn bản pháp luật còn nhiều bất cập...
Quá trình cải cách hành chính còn chuyển biến chậm, các thủ tục liên quan
đến hoạt động đầu tư còn phức tạp; nạn tham nhũng còn phổ biến và chưa có
biện pháp ngăn chặn, loại bỏ hữu hiệu; các chi phí dịch vụ về cơ sở hạ tầng hỗ
trợ kinh doanh, chi phí trung gian, chi phí gia nhập thị trường của các doanh
nghiệp còn lớn so với các nước trong khu vực. Sự phối hợp trong các hoạt
động cải cách cơ cấu kinh tế, cải cách thế chế với chiến lược hội nhập kinh tế
quổc tế còn chưa nhịp nhàng, động bộ.
Hệ thống thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường vốn, thị trường lao
động, thị trường đất đai, thị trường khoa học - công nghệ... còn chưa đồng bộ

và kém phát triển. Hệ thống dịch vụ tài chính - ngân hàng cũng chưa phát
triển (hiện tại, tỷ trọng của khu vực tài chính chỉ chiếm khoảng 2% GDP, so
với 6 - 10% ở các nước khác trong khu vực). Quá trình cải cách hệ thống tài
chính - ngân hàng tiến hành chậm; hệ thống ngân hàng dễ bị tổn thương do tỷ
lệ nợ xấu còn cao, rủi ro lãi suất và tỷ giá lớn và khả năng giám sát, quản trị
rủi ro yếu; hệ số tín nhiệm đối với với hoạt động của hệ thống tài chính - ngân
hàng còn thấp. theo đánh giá của Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản
(JETRO). Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng mức độ cải thiện môi trường
đầu tư của Việt Nam vẫn chậm hơn so với các nước khác trong khu vực.
III : SỰ CẦN THIẾT THU HÚT FDI VÀO NGÀNH THUỶ SẢN.
1. Nhu cầu phát triển ngành Thuỷ sản
Với bờ biển trải dài trên 3270 km và vùng biển rộng trên 1 triệu km2 có 4000
hòn đảo lớn nhỏ với nhiều vịnh, vũng; khoảng 2850 con sông, ngòi và có
nhiều hồ tự nhiên lại nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nên rất thuận lợi cho
việc phát triển Thuỷ sản cả trên hai lĩnh vực đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản.
Không phải bất cứ quốc gia nào cũng có được điều kiện tự nhiên thuận lợi để
phát triển Thuỷ sản như Việt Nam. Trung bình cứ 100 km2 diện tích đất liền
lại có 1km chiều dài bờ biển, đây là tỉ lệ rất cao trong số các quốc gia và vùng
lãnh thổ có bờ biển.
Chính vì có điều kiện thuận lợi nên việc phát triển Thuỷ sản của Việt Nam dễ
dàng hơn các nước khác. Bên cạnh đó Việt Nam có một lực lượng nhân công
lành nghề, hơn nữa trong nuôi trồng Thuỷ sản tuy công nghệ lạc hậu, nhưng
người nuôi trồng Thuỷ sản có đủ khả năng và kinh nghiệm để nuôi trồng thuỷ
sản, vốn kinh nghiệm sẵn có của người Việt Nam đã giúp cho họ có được
những kiến thức khá phông phú về nuôi trồng thuỷ sản. giúp cho họ dễ dàng
hơn trong công tắc nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Trong những năm gần
đây, công việc nuôi trồng và chế biến thủy sản đã phụ thuộc và rất nhiều công
nghệ máy móc hiện đại. cũng đã khiến cho người nuôi trồng Thuỷ sản gặp
nhiều khó khăn trong việc tiếp cận công nghệ, nên dẫn đến việc tiêu thụ sản
phẩm của Việt Nam đã thua kém hơn so với một số nước.

Khi xã hội ngày càng phát triển, con người càng có những nhu cầu cao hơn.
Chính vì vậy, cùng với sự phát triển của thế giới, ngành Thuỷ sản Việt Nam
cũng bắt đầu phát triển theo để đáp ứng nhu cầu phục vụ của người tiêu dùng.
Trong những năm qua tốc độ tăng trưởng hàng năm của Thuỷ sản là 4,3%.
Thị trường tiêu thụ ngày nay quan tâm nhiều hơn đến Thuỷ sản như nguồn
thực phẩm dinh dưỡng quan trọng không chỉ cung cấp 16% nhu cầu prôtêin
của con người mà còn đáp ứng các chất khoáng và axit Omega 3 cần thiết cho
cơ thể để phát triển trí não và ngăn ngừa một số bệnh. Cùng với sự gia tăng
dân số và sự phát triển kinh tế xã hội, mức tiêu thụ Thuỷ sản trên thị trường
thế giới ngày càng tăng cao.Lượng cung cấp thực phẩm Thuỷ sản cho tiêu thụ
của con người trên toàn cầu tăng từ 53,4 triệu tấn năm 1981 đến hơn 104 triệu
tấn năm 2003. Mức tiêu thụ Thuỷ sản bình quân theo đầu người trên thế giới
tăng từ 11,8 kg đến 16,5 kg trong giai đoạn này. Theo FAO dự báo, nhu cầu
Thuỷ sản còn có thể tăng mạnh nữa trong tương lai và mức tiêu thụ sẽ có thể
lên đến 18,4 kg/người/năm vào năm 2010 và 19,1 kg/người/năm vào năm
2015 Châu Á và Thái Bình Dương là khu vực khai thác và nuôi trồng Thuỷ
sản quan trọng nhất. Một số nước trong khu vực này có mức tiêu thụ Thuỷ
sản bình quân theo đầu người cao nhất thế giới. Thủy sản là thực phẩm cho
bữa ăn hằng ngày của người dân ở khu vực này nên mức tiêu thụ Thuỷ sản
bình quân theo đầu người cao, đạt 39,6kg/người năm 2003

Tiêu thụ bình quân theo đầu người ở các nước châu á và Ôxtrâylia
Cung cấp bình quân theo đầu người (kg)
Các nước Thuỷ sản
khai thác
Thuỷ sản
nuôi
Tổng thuỷ
sản
Tiêu thụ bình quân

theo đầu người
Ôxtrâylia 10,5 1,9 12,4 10,9
Bănglađét 7,9 5,9 13,8 14,0
Colômbia 30,3 1,5 31,9 1,6
Trung Quốc 12,8 22,1 34,9 36,2
ấn Ðộ 3,4 2,0 5,5 8
Inđônêxia 19,3 4,1 23,4 23,6
Iran 5,1 1,3 6,5 5
Nhật Bản 36,1 6,7 42,8
Hàn Quốc 23,1 0,9 24,0 52,0
Mianma 27,0 5,1 32,1 26,2
Nêpan 0,7 0,6 1,3
Pakixtan 3,5 0,1 3,5 2
Philippin 24,7 5,2 29,9 36
Xrilanca 13,9 0,5 14,4
Thái Lan 43,0 11,8 54,9 32-35
Việt Nam 19,9 11,2 31,2
Mức tiêu thụ ở các nước đang phát triển có xu hướng tăng, nhưng có thể là do
dân số tăng hằng năm ở các nước này mà không hẳn là do nhu cầu Thuỷ sản
tăng.
Tiêu thụ bình quân theo đầu người ở các nước Cận Ðông và Bắc Phi có xu
hướng tăng như Angiêri tăng từ 3,0 kg/người năm 1993 lên 5,1 kg/người năm
2003. Ai Cập tăng từ 5,5 kg/người năm 1982 lên 14,9 kg/người năm 2003.
Các nước châu Mỹ Latinh có mức tiêu thụ Thuỷ sản bình quân theo đầu người
hằng năm từ 2 đến 59 kg/năm, nhưng rất nhiều nước chỉ có mức tiêu thụ
khoảng 10 kg/người/năm. Nhiều nước ở khu vực châu Âu có mức tiêu thụ
Thuỷ sản rất cao. Tiêu thụ thủy sản bình quân theo đầu người của EU-15 đạt
khoảng 25,5 kg/người/năm (2003), với lượng Thuỷ sản chiếm khoảng 10%
tổng lượng protein động vật và 6% tổng lượng prôtêin. Nhìn chung, các nước
này đều có xu hướng gia tăng mức tiêu thụ Thuỷ sản trong các năm qua

2. Sự cần thiết thu hút FDI vào ngành Thuỷ sản
Với xu hướng phát triển mạnh mẽ của thế giới hiện nay, thì nhu cầu tiêu thụ
sản phẩm Thuỷ sản ngày càng cao. Hàng năm mức tiêu thụ sản phẩm của các
nước trên thế giới ngày càng tăng nhanh.
Theo dự báo của FAO, tổng nhu cầu Thuỷ sản ở các nước đang phát triển sẽ
tăng từ 30,5 triệu tấn năm 1979/81 tới gần 140 triệu tấn năm 2015. Châu á
chiếm khoảng 68% tổng nhu cầu Thuỷ sản năm 1979/81 và sẽ tăng tới 86%
vào năm 2010 và năm 2015. Mức tiêu thụ Thuỷ sản bình quân theo đầu người
ở Ðông Nam á sẽ đạt tới 25,8 kg vào năm 2020 và cũng sẽ tăng tới 39,5 kg ở
Trung Quốc. Còn ở các nước đang phát triển sẽ tăng từ 10,7 kg/người/năm
trong giai đoạn 1999-2001 lên 13,5 kg/người/năm vào năm 2015, trong khi
các nước phát triển cũng sẽ tăng từ 16,3 kg lên 17,3 kg
Bảng 1 : Dự báo tình hình tiêu thụ thủy sản toàn cầu
Ðơn vị : kg/người
Năm
Nhóm loài 1961-1965 1981-1985 1991-1995 2001 2010* 2020*
Cá 8,2 9,9 10,6 12,1 13,7 14,3
Loài khác 1,3 2,2 3,2 4,2 4,7 4,8
Tổng 9,5 12,1 13,8 16,3 18,4 19,1
Nguồn : FAO Dự báo
Chính vì nhu cầu ngày càng cao như vậy. Việc thu hút vốn vào lĩnh vực Thuỷ
sản Việt Nam ngày càng được chú trọng. Nguồn vốn trong nước không đủ
đáp ứng được nhu cầu sản xuất trong nước, chính vì vậy FDI là một giải pháp
tối ưu và hiệu quả nhất. Việc thu hút FDI vào Thuỷ sản mang lại nhiều lợi ích
cho người nuôi trồng trong nước. Việc giải quyết nguồn vốn tại chỗ đã được
đáp ứng, không những thế khi có được nguồn vốn FDI người nuôi trồng Thuỷ
sản đã được tiếp thu một công nghệ nuôi trồng tiên tiến hiện đại, với những
cách thức quản lý hiệu quả. tạo tiền đề cho Việt Nam trong tiến trình từng
bước hội nhập kinh tế thế giới. Khi đã tiếp nhận những công nghệ mới giúp
cho người nuôi trồng Việt Nam bớt đi những khâu rườm rà không cần thiết,

kỹ thuật nuôi trồng tiên tiến tăng năng suất lao động, hiệu quả quản lý được
nâng cao. Chính vì việc thu hút FDI vào ngành Thuỷ sản Việt Nam, đã giúp
cho chúng ta rất nhiều về việc giảm bớt được những khâu khó khăn trong sản
xuất tận dụng tối đa nguồn nhân lực, vật lực, tài lực sẵn có của địa phương.
FDI được đầu tư vào ngành Thuỷ sản tạo cho ngành có một lợi thế phát triển
ngang tầm với các nước cùng xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản, không thua kém
họ về mẫu mã trình độ kỹ thuật, thậm trí giá của mặt hàng Thuỷ sản của Việt
Nam còn rẻ hơn so với các nước khác, trên cùng một thì trường cạnh tranh.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO NGÀNH
THUỶ SẢN VIỆT NAM.
I : TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH THUỶ SẢN
VIỆT NAM.
1. Nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản.
1.1 Tình hình nuôi trồng và đánh bắt Thuỷ sản trong thời gian qua.
Về khai thác Thuỷ sản : Từ năm 1986 đến nay sản lượng Thuỷ sản khai thác
tăng liên tục. Năm 2005 sản lượng Thuỷ sản khai thác 1996 nghìn tấn, bằng
58,1 % tổng sản lượng Thuỷ sản và gấp 3,1 lần so với năm 1986, tốc độ tăng
bình quân hàng năm khoảng 6%. Trong đó sản lượng cá 1340,7 nghìn tấn, gấp
gần 2,3 lần. Riêng về khai thác xa bờ do được chú ý đầu tư nên sản lượng gần
đây cũng tăng mạnh, đạt 9%/ năm và chiếm trên 1/3 sản lương hải sản khai
thác. Đồng thời việc khai thác Thuỷ sản nội địa từ sông, hồ, đầm phá và các
vùng nước ngọt tự nhiên khác cũng được chú trọng, sản lượng hàng năm
khoảng 250 - 300 nghìn tấn. Đáng lưu ý là do không được bảo vệ nhất là
việc dùng chất nổ, dùng điện và lưới vét quá nhỏ đánh bắt, nên nguồn lợi cá
sông ở miền Bắc và miền Trung đến nay hầu như đã cạn kiệt.
Từ một nghề cá thủ công, qui mô nhỏ hoạt động gần bờ, đến nay khai thác
Thuỷ sản đang chuyển dần thành nghề cá cơ giới, đánh bắt xa bờ, nhằm vào
các loại hải sản có giá trị kinh tế cao và có khả năng xuất khẩu. Năm 2004 cả
nước có 102,6 nghìn tàu thuyền cơ giới với tổng công suất 4,4 triệu CV, bình
quân đạt 43CV/ tàu. So với năm 2000, tăng 16,3% về số lượng tàu, thuyền

và tăng 45% về công suất. Thực hiên chương trình đánh bắt Thuỷ sản xa bờ,
từ năm 1996 tới năm 2004 Nhà nước đã cho vay 1300 tỷ đồng để đóng mới và
hoán cải 1300 tàu xa bờ có công suất từ 90 CV trở lên, đưa tổng số tàu đánh
bắt xa bờ lên 20 nghìn chiếc, gấp 2,3 lần năm 2000. Cơ sở dịch vụ hậu cần
phục vụ cho khai thác hải sản như: nơi trú đậu, bốc dỡ sản phẩm, cung ứng

×