Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Lý luận về phân cấp và mối quan hệ giữa trung ương với chính quyền địa phương trong phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.77 KB, 8 trang )

LÝ LUẬN VỀ PHÂN CẤP VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUNG ƢƠNG VỚI
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Mai Hữu Bốn
Học viện Hành chính Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Đổi mới cơ chế quản lý nhà nƣớc, sự phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng
xã hội chủ nghĩa và xu hƣớng mở cửa, hội nhập quốc tế tạo ra những tiền đề và đòi hỏi
phải đổi mới, tăng cƣờng phân cấp quản lý nhà nƣớc giữa Trung ƣơng và chính quyền
địa phƣơng nhằm phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng các cấp trong quản lý, thực hiện các nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc hiện nay, cần đẩy mạnh phân cấp
quản lý nhà nƣớc giữa Trung ƣơng và địa phƣơng, tập trung vào phân cấp nhiệm vụ,
thẩm quyền, trách nhiệm giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ƣơng trên các lĩnh vực chủ yếu nhất: quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tƣ phát
triển; ngân sách nhà nƣớc; đất đai, tài nguyên; doanh nghiệp nhà nƣớc; hoạt động sự
nghiệp, dịch vụ công; tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức. Trên cơ sở đó, để tiếp
tục phân cấp quản lý nhà nƣớc giữa chính quyền địa phƣơng các cấp (tỉnh - huyện - xã).
Phân công, phân cấp là mối quan hệ mật thiết giữa trung ƣơng với chính quyền
địa phƣơng trong quản lý nhà nƣớc là một chủ trƣơng lớn, nội dung quan trọng đƣợc
đề cập một cách có hệ thống và nhất quán trong các văn kiện của Đảng ta thời gian gần
đây. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng (Khóa VIII) đề
ra phƣơng hƣớng ―phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo
hƣớng phân cấp rõ hơn cho địa phƣơng, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý
lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ‖.
Từ khóa : Quản lý, quản lý nhà nƣớc, phân cấp, phát triển bền vững
1.Khái niệm quản lý nhà nƣớc và phân cấp
1.1. Quản lý và quản lý nhà nước.
Khái niệm Quản lý là một thuật ngữ khá đa dạng và phức tạp, hiện nay có nhiều
cách giải thích khác nhau. Theo phƣơng Tây, từ quản lý management có nguồn gốc
Italia ―managgiare‖ và bản thân từ này lại đƣợc rút từ chữ La tinh ―manus‖, nghĩa là


bàn tay. Theo từ gốc, thực hiện quản lý là ―nắm vững trong tay‖, ―điều khiển bàn tay‖
Quản lý là sự tác động lên một hệ thống nào đó với mục tiêu đƣa hệ thống đó đến
trạng thái cần đạt đƣợc. Quản lý là một phạm trù xuất hiện trƣớc khi có Nhà nƣớc với
492


tính chất là một loại lao động xã hội hay lao động chung đƣợc thực hiện ở quy mô lớn.
Quản lý đƣợc phát sinh từ lao động, không tách rời với lao động và bản thân quản lý
cũng là một loại hoạt động lao động. ―Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao động
chung nào đó mà đƣợc tiến hành trên quy mô tƣơng đối lớn đều cần có sự quản lý ở
mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức
năng chung... Một nhạc cơng tự điều khiển mình nhƣng một dàn nhạc cần phải có nhạc
trƣởng‖ 1
Nhƣ vậy, quản lý xã hội không phải là sản phẩm của sự phân chia quyền lực, mà
là sản phẩm của sự phân công lao động nhằm liên kết và phối hợp hoạt động chung
của con ngƣời. Là một phạm trù gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nƣớc, quản lý nhà
nƣớc ra đời với tính chất là loại hoạt động quản lý xã hội.
―Quản lý nhà nƣớc, hiểu theo nghĩa rộng, là sự tổ chức và quản lý sự vụ hữu
quan của mội tổ chức và đoàn thể xã hội. đƣợc thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà
nƣớc. Theo nghĩa hẹp, là hoạt động quản lý hành chính do Chính phủ đại diện nhà
nƣớc thực thi và đảm bảo bằng sức cƣỡng chế của nhà nƣớc. Nó khác về tính chất với
sự quản lý sự vụ hành chính trong tồn thể xã hội, đơn vị xí nghiệp. Quản lý hành
chính tồn tại trong đời sống thực tế, đều là sự tổ chức và quản lý sự vụ cụ thể chuyên
môn.‖2
Quản lý nhà nƣớc là hoạt động chấp hành và điều hành đƣợc đặc trƣng bởi các
yếu tố có tính tổ chức; đƣợc thực hiện trên cơ sở và để thi hành pháp luật; đƣợc bảo
đảm thực hiện chủ yếu bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nƣớc (hoặc một số tổ
chức xã hội
trong trƣờng hợp đƣợc giao nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc). Quản lý nhà nƣớc cũng
là sản phẩm của việc phân công lao động nhằm liên kết và phối hợp các đối tƣợng bị

quản lý
1.2. Phân cấp quản lý nhà nước.
Hiện nay, có một số quan niệm khác nhau xung quanh khái niệm ―phân cấp‖.
Theo một số tác giả, phân cấp chính là phân quyền giữa trung ƣơng và địa phƣơng
Phân cấp là phân ra, chia thành các cấp, các hạng. Phân cấp có sự chuyển giao quyền
lực quản lý xuống các cấp dƣới để thực hiện cho sát dân và sát tình hình thực tiễn,
đồng thời, để giảm bớt khối lƣợng cho cấp trên khỏi phải trực tiếp giải quyết những
việc sự vụ. Việc phân cấp phải gắn trách nhiệm với quyền hạn rõ ràng và bảo đảm tính
thống nhất từ trung ƣơng đến cơ sở.

1

GS. Đoàn Trọng Truyến (Chủ biên) - Hành chính học đại cƣơng, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.
744.
2
GS Mai hữu Khuê ―Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính‖, NXB Lao động năm 2002. HN, tr 601

493


Có quan niệm khác cho rằng, phân cấp có thể theo hai hƣớng: một hƣớng nằm
ngang là sự phân chia căn cứ vào sự khác nhau của các công việc của một cấp; hƣớng
nằm dọc (thẳng đứng) là sự phân chia theo cơ cấu thứ bậc công việc giữa các cấp khác
nhau. Có ý kiến cho rằng, cần phân biệt ―phân cấp quản lý‖ với một số khái niệm gần
với nó là phân cơng, phân nhiệm, phân quyền vì ―phân công và phân nhiệm đều để chỉ
sự xác định quyền hạn, trách nhiệm cả theo chiều ngang và chiều dọc. Thông thƣờng,
ngƣời ta sử dụng khái niệm phân công để chỉ quan hệ theo chiều ngang với dụng ý
phân biệt nó với phân cấp. Nếu phân quyền đƣợc hiểu là phân giao quyền hạn cho một
cơ quan hoặc một cấp chính quyền nào đấy thì thực ra sử dụng thuật ngữ phân cơng và
phân cấp là đầy đủ và chính xác hơn‖.

Nhƣ vậy, cho đến nay, mặc dù đƣợc sử dụng một cách rộng rãi, song cách hiểu
về phân cấp cịn chƣa hồn tồn thống nhất.
Dƣới góc độ ngơn ngữ, ―cấp‖ đƣợc hiểu là loại hạng trong một hệ thống (xếp
theo trình độ cao thấp, trên dƣới. Từ đó, phân cấp quản lý đƣợc cắt nghĩa là giao bớt
một phần quyền quản lý cho cấp dƣới, quy định nhiệm vụ và quyền hạn cho mỗi cấp.
Nhƣ vậy, ở đây có hai nội dung cần lƣu ý là chuyển giao thẩm quyền cho cấp dƣới và
xác định thẩm quyền của mỗi cấp trong đó. Hiện nay, căn cứ vào cách phân chia đơn
vị hành chính - lãnh thổ mà ở Việt Nam hình thành các cấp chính quyền: trung ƣơng,
cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Phân cấp quản lý nhà nƣớc, trƣớc hết đƣợc hiểu là phân
cấp giữa trung ƣơng với chính quyền cấp tỉnh; đồng thời, cịn bao hàm cả phân cấp
giữa các cấp chính quyền địa phƣơng với nhau.
Theo các văn kiện của Đảng, phân cấp đƣợc tiến hành theo hƣớng ―phân cấp rõ
hơn cho địa phƣơng, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ và trên cơ sở
nguyên tắc ―chính quyền trung ƣơng quản lý tập trung một số lĩnh vực theo ngành dọc
đƣợc xác định từ yêu cầu thực tế. Đối với một số lĩnh vực khác, trung ƣơng trực tiếp
quản lý một phần, còn một phần phân cấp cho địa phƣơng quản lý‖. Cũng với tinh
thần đó mà hiện nay, phân cấp đƣợc hiểu là việc chuyển giao nhiệm vụ, thẩm quyền từ
cơ quan quản lý nhà nƣớc cấp trên xuống cơ quan quản lý cấp dƣới nhằm đạt mục tiêu
chung là nâng cao hiệu quả quản lý 3.
Việc chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn chỉ có thể đƣợc tiến hành một khi thẩm
quyền và trách nhiệm của cấp chuyển giao và cấp đƣợc chuyển giao đã đƣợc xác định
hết sức rõ ràng. Vì vậy, bản thân khái niệm phân cấp phải hàm chứa trong đó nội dung
phân định thẩm quyền của từng cấp hay nói một cách khác, phân định thẩm quyền là
tiền đề cho việc chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn (hoặc rộng hơn nữa, điều chỉnh khối
lƣợng nhiệm vụ, quyền hạn cho phù hợp với khả năng và điều kiện thực tế của mỗi cấp
chính quyền). Trên cơ sở những lập luận đó, có thể đƣa ra khái niệm về phân cấp quản
lý nhà nƣớc nhƣ sau: Phân cấp quản lý nhà nƣớc là sự phân định thẩm quyền, trách
3

Văn kiện Đại hội Đảng IX. (2011). NXB chính trị QG-Sự thật. HN


494


nhiệm giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp giữa khối lƣợng và
tính chất thẩm quyền với năng lực và điều kiện thực tế của từng cấp nhằm tăng cƣờng
chất lƣợng, hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nƣớc.
2. Cơ sở lý luận và căn cứ pháp lý về mối quan hệ phân cấp giữa trung ƣơng
và địa phƣơng.
2.1. Bản chất của mối quan hệ giữa trung ương và địa phương.
Mối quan hệ giữa trung ƣơng và địa phƣơng là một vấn đề chính trị - pháp lý,
liên quan đến việc xác định hình thức nhà nƣớc và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà
nƣớc trong mơ hình nhà nƣớc tƣơng ứng.
Quy chế pháp lý của từng cấp chính quyền đƣợc thể hiện ở địa vị hiến định, ở
khối lƣợng thẩm quyền mà cấp đó đảm nhiệm. Khi thực hiện những thẩm quyền của
mình, mỗi cấp chính quyền có tính độc lập tƣơng đối, song không biệt lập với các chủ
thể quản lý nhà nƣớc khác. Đồng thời, thực tiễn quản lý nhà nƣớc khơng loại trừ
trƣờng hợp có nhiều chủ thể quản lý có cùng chung khách thể và đối tƣợng quản lý,
nhƣng phạm vi quản lý lại ở mức độ khác nhau.
Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là cần định rõ phạm vi hoạt động của mỗi cấp chính
quyền nhà nƣớc. Do đó, mối quan hệ giữa trung ƣơng và địa phƣơng, xét về bản chất,
thể hiện ở việc phân cấp quản lý nhà nƣớc, có nghĩa là phân định thẩm quyền giữa các
cơ quan nhà nƣớc trung ƣơng với các cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng mà trƣớc hết là
cấp tỉnh. Đối với một số trƣờng hợp khác, phân cấp đƣợc tiến hành để giải quyết mối
quan hệ trực tiếp giữa trung ƣơng và các cấp chính quyền thấp hơn - cấp huyện hoặc
cấp xã.
Tuy nhiên, quá trình đổi mới phân cấp quản lý nhà nƣớc giữa Chính phủ và chính
quyền địa phƣơng các cấp vừa qua xét về tổng thể vẫn chƣa đáp ứng đƣợc những đòi
hỏi bức xúc của thực tiễn, còn nhiều hạn chế, bất hợp lý:
Phân cấp nhƣng chƣa bảo đảm quản lý thống nhất, còn biểu hiện phân tán, cục bộ; kỷ

luật, kỷ cƣơng hành chính chƣa nghiêm; chƣa chú trọng việc thanh tra, kiểm tra đối
với những việc đã phân cấp cho địa phƣơng.
Chƣa phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cấp
chính quyền trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc, tổ chức cung cấp dịch
vụ công, đại diện chủ sở hữu đối với các tổ chức kinh tế nhà nƣớc và tài sản nhà nƣớc.
Chƣa xác định rõ trách nhiệm của mỗi cấp, của tập thể và cá nhân đối với những
nhiệm vụ đã đƣợc phân cấp.
Phân cấp nhiệm vụ cho cấp dƣới, nhƣng chƣa bảo đảm tƣơng ứng các điều kiện
cần thiết để thực hiện, còn thiếu sự ăn khớp, đồng bộ giữa các ngành, các lĩnh vực có
liên quan, chƣa tạo điều kiện thực tế cho địa phƣơng chủ động cân đối các nguồn lực
và các nhu cầu cụ thể của mình.
495


Chính vì vậy, việc phân định thẩm quyền phải đƣợc ghi nhận trong các văn bản
quy phạm pháp luật và nhiệm vụ cấp bách đặt ra hiện nay là hình thành cơ sở lý luận
để xây dựng và tiếp tục hoàn thiện các nguyên tắc pháp lý, các quy định pháp luật về
mối quan hệ giữa trung ƣơng - địa phƣơng.Theo các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là
Đại hội Đảng IX, phân cấp đƣợc đặt trong bối cảnh ―đẩy mạnh cải cách tổ chức và
hoạt động của Nhà nƣớc, phát huy dân chủ, tăng cƣờng pháp chế‖. Nghị quyết cũng
xác định ―phân cấp mạnh và toàn diện giữa các cấp trong hệ thống hành chính nhà
nƣớc‖ là một trong những định hƣớng và giải pháp chủ yếu nhằm ―đẩy mạnh cải cách
hành chính‖ là cơng việc quan trọng quyết định thành công của công cuộc đổi mới.
Nghị quyết Hội nghị trung ƣơng lần thứ 9 (khoá IX) đề ra yêu cầu, ―Khẩn trƣơng hoàn
thành việc phân cấp, phân quyền giữa trung ƣơng và chính quyền địa phƣơng trên từng
ngành, từng lĩnh vực một cách đồng bộ, bảo đảm hiệu lực quản lý thống nhất, xuyên
suốt của trung ƣơng đối với địa phƣơng và khuyến khích tính sáng tạo, tự chịu trách
nhiệm của các địa phƣơng‖.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện phân cấp, một số địa phƣơng đã thể hiện
những sai sót trong quản lý nhƣ sử dụng ngân sách, quyết định cấp phép khai thác tài

nguyên thiên nhiên, xây dựng cơng trình cảng biển, cảng sơng và cấp phép thành lập
hàng trăm trƣờng đại học mới. . . Do đó, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu
yêu cầu ―Thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phƣơng đi đơi với nâng cao
chất lƣợng qui hoạch và tăng cƣờng thanh tra, kiểm tra, giám sát của trung ƣơng, gắn
quyền hạn với trách nhiệm đƣợc giao‖
Chính phủ đã có Nghị quyết số 08/2008/NQ-CP ngày 30 tháng 06 năm 2004 V/v
Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nƣớc giữa chính phủ và chính quyền địa
phƣơng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng. Với mục tiêu Tiếp tục đẩy mạnh phân
cấp quản lý nhà nƣớc giữa Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh, giữa chính quyền địa
phƣơng các cấp nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của chính quyền địa phƣơng trên cơ sở phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong bộ máy chính quyền nhà nƣớc, bảo đảm sự quản lý
tập trung, thống nhất và thơng suốt của Chính phủ, tăng cƣờng kỷ luật, kỷ cƣơng hành
chính để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi
ích của nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phƣơng trong điều
kiện chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Luật Tổ chức chính quyền địa phƣơng đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 19/6/2015. Luật đã cụ thể vấn
đề phân cấp bằng các điều luật: Điều 11. Phân định thẩm quyền của chính quyền địa
phương, Điều 12. Phân quyền cho chính quyền địa phương, Điều 13. Phân cấp cho
chính quyền địa phương, Điều 14. Ủy quyền cho cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương.
496


Đây là một trong những quy định mới của Luật Tổ chức chính quyền địa phƣơng
năm 2015 so với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.
Triển khai Luật Tổ chức chính quyền địa phƣơng, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết số 21/2016/NQ-CP ngày 21 tháng 03 năm 2016 về phân cấp quản lý nhà nƣớc
giữa chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng. Với mục

tiêu Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với ngành, lĩnh vực trên cơ sở
thực hiện phân cấp hợp lý, rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa Chính
phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ƣơng (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), bảo đảm sự quản lý thống
nhất của Chính phủ, phát huy tính chủ động, trách nhiệm, tinh thần sáng tạo của chính
quyền địa phƣơng.
Cơ sở lý luận, căn cứ pháp lý và thực tiễn đã làm rõ mối quan hệ giữa trung ƣơng
và địa phƣơng về phân cấp quản lý nhà nƣớc nhằm phát huy hiệu lực, hiệu qur quản lý
nhà nƣớc của chính quyền địa phƣơng theo hƣớng phát triển bền vững trên một số lĩnh
vực về quản lý ngân sách, đất đai, tài sản công, cấp phép đầu tƣ xây dựng, quản lý
doanh nghiệp, tổ chức bộ máy và quản lý đội nguc công chức, viên chức và an toàn vệ
sinh thực phẩm. Đây là, tiền đề, cơ hội để Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ƣơng phát huy năng lực, năng động, sang tạo và chủ động quản lý nhà nƣớc trên
địa bàn
2.2. Nguyên tắc, vai trò và ý nghĩa, nội dung phân cấp trong quản lý giữa giữa
trung ương và địa phương.
Mối quan hệ giữa trung ƣơng và địa phƣơng (trƣớc hết là cấp tỉnh) đƣợc quyết
định bởi mơ hình tổ chức nhà nƣớc và các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức quyền lực
nhà nƣớc. Theo Hiến pháp và truyền thống tổ chức Nhà nƣớc ta, Việt Nam luôn là một
Nhà nƣớc đơn nhất. Đặc trƣng của mơ hình Nhà nƣớc này là quyền lực nhà nƣớc đƣợc
tập trung, thống nhất; Nhà nƣớc là chủ thể duy nhất mang chủ quyền quốc gia và các
cơ quan nhà nƣớc đƣợc tổ chức theo thứ bậc và hoạt động theo trật tự hiến định, luật
định.
Trên cơ sở đó, việc xác định, mối quan hệ giữa trung ƣơng - địa phƣơng phải bảo
đảm tuân thủ nguyên tắc về chủ quyền quốc gia là nơi thể hiện tính tối cao của quyền
lực nhà nƣớc trong quan hệ đối nội và tính độc lập của nó trong quan hệ đối ngoại.
Chủ quyền quốc gia đòi hỏi bảo đảm tính thống nhất, tập trung của quyền lực nhà
nƣớc, đặc biệt trong việc quyết định những vấn đề quan trọng, có liên quan đến đời
sống của một bộ phận lớn hoặc của toàn bộ xã hội, đến lợi ích của Nhà nƣớc. Cũng
chính xuất phát từ yêu cầu bảo vệ chủ quyền quốc gia mà các cơ cấu lãnh thổ địa

phƣơng trong Nhà nƣớc đơn nhất không thể đƣợc thừa nhận quy chế độc lập tuyệt đối
và không có khái niệm ―Nhà nƣớc trung ƣơng‖ và ―Nhà nƣớc địa phƣơng‖ trong mơ
hình Nhà nƣớc đơn nhất.
497


Nghiên cứu về mối quan hệ trung ƣơng - địa phƣơng, cần phải giải quyết một vấn
đề mang tính lý luận là kết hợp hai khía cạnh: tập trung hố quyền lực nhà nƣớc để bảo
đảm chủ quyền quốc gia và dân chủ vốn là đặc trƣng của chế độ nhà nƣớc xã hội chủ
nghĩa. Tập trung quyền lực là một yếu tố nhằm bảo đảm tính thống nhất của quyền lực
nhà nƣớc, nhằm thực hiện triệt để nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân
dân. Trong một số lĩnh vực và trƣờng hợp, Nhà nƣớc mà biểu tƣợng là các cơ quan
trung ƣơng phải thể hiện rõ vai trị của mình bằng cách đƣa ra quyết định cuối cùng để
bảo vệ lợi ích của tồn quốc gia, dân tộc. Cũng chính vì vậy mà một số lĩnh vực quan
trọng của đời sống xã hội không thể đƣợc phân cấp cho địa phƣơng nhƣ lĩnh vực quốc
phòng, tƣ pháp, ngoại giao, chính sách tiền tệ... Ngồi mục tiêu bảo đảm tính thống
nhất của quyền lực nhà nƣớc, mối quan hệ trung ƣơng - địa phƣơng phải đƣợc xác
định sao cho phù hợp với nhu cầu, nguyên tắc dân chủ, bảo đảm quyền tự chủ, sáng
tạo của địa phƣơng và phát huy tối đa năng lực, tiềm năng của địa phƣơng nhằm góp
phần vào sự phát triển tồn diện và vững mạnh của cả nƣớc.
Vấn đề đặt ra, để kết hợp hai khía cạnh nói trên, là cần khai thác một cách khoa
học và vận dụng thích hợp nguyên tắc phối hợp trong thực hiện quyền lực nhà nƣớc
vốn là một chủ trƣơng nhất quán của Đảng và Nhà nƣớc ta. Nhằm có cơ chế phối hợp
một cách hiệu quả, điều đầu tiên là cần phân định rõ thẩm quyền của từng chủ thể quản
lý nhà nƣớc hay nói một cách khác, tiền đề của phối hợp phải là tính rõ ràng trong việc
phân định nhiệm vụ, quyền hạn, thực chất là làm rõ sự phân công, phân cấp trong quản
lý theo hƣớng hình thành cơ chế phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền địa phƣơng trong
quản lý phát triển kinh tế - xã hội theo hƣớng bền vững. Tuy nhiên, để thực hiện
nguyên tắc pháp chế, mối quan hệ trung ƣơng - địa phƣơng phải đƣợc xây dựng dựa
trên một nền tảng và cơ sở pháp lý vững chắc đã đƣợc thể hiện trong Hiến pháp 2013.

Những lý luận, cơ sở pháp lý và thực tiễn về phân cấp và phối kết hợp trong mối
quan hệ giữa trung ƣơng và chính quyền địa phƣơng, ngày càng đƣợc khẳng định, là
căn cứ và điều kiện để chính quyền địa phƣơng nâng cao trách nghiệm, chủ động và
sáng tạo, có vai trị định hƣớng cho q trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng
thông qua xác định tầm nhìn chiến lƣợc, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, trực
tiếp quản lý các công việc của địa phƣơng, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực của địa phƣơng; tổ chức thực thi pháp luật, triển khai thực hiện các quyết định của
chính phủ trung ƣơng ở địa phƣơng, phản ánh tâm tƣ nguyện vọng, lợi ích của nhân
dân và tạo điều kiện để nhân dân địa phƣơng có nhiều cơ hội tham gia vào công việc
của nhà nƣớc; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phƣơng, thực
hiện cơng bằng và bình đẳng xã hội tại địa phƣơng.

498


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS. Mai Hữu Khuê : (2002) ‖ Từ điển giải thích thuật ngũ hành chính”. NXB
Lao động. HN
2. GS. Đoàn Trọng Truyến (Chủ biên) (1997) ―
NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 744.

ành chính học đại cương‖,

3. Trƣơng Đắc Linh (2002) ― Phân cấp quản lý trung ương và địa phương - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn‖ Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 3, tr. 24-25.
4. Bộ Nội vụ (2003) ―Đề án phân cấp quản lý nhà nƣớc trung ƣơng - địa
phƣơng‖, Hà Nội, tr. 1.
5. Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ IX - NXB. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2001, tr. 337.


499



×