Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Chính phủ tăng giá điện sẽ làm giảm nguy cơ thiếu điện hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.5 KB, 12 trang )

BÀI TẬP TIỂU LUÂN KINH TẾ VI MÔ
Giá điện đã được giữ khá ổn định trong nhiều năm nay, và do đó không theo kịp
mức tăng giá chung cũng như mức tăng giá đầu vào cho quá trình sản xuất điện. Nếu
không tăng giá điện, sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu điện trong ngắn hạn và dài
hạn. Thêm vào đó, giá điện ở Việt Nam vẫn thấp hơn giá trong khu vực, do đó, việc
tăng giá hướng tới mức chung là có cơ sở.
ĐỀ TÀI :Chính phủ tăng giá điện sẽ làm giảm nguy cơ thiếu điện hiện nay.
Xác định vấn đề
Tiền thu được từ việc tăng giá điện so với giá cũ sẽ được sử dụng vào việc xây
dựng các nhà máy điện và tạo điều kiện cho vùng xa được sử dụng điện.Việc tăng giá
điện sẽ khuyến khích người tiêu dụng chuyển sang sử dụng các thiết bị bằng nguồng
năng lượng khác.
Vệc tăng giá điện sẽ khiến những người tiêu dùng dùng các thiết bị tiêu thụ ít điện .
Bài làm
Chương 1:Lý luận chung về cung cầu về điện
I . Lý thuyết , vai trò của điện năng
1) Điện là một khái niệm tổng quát dùng để chỉ các hiện tượng mà nguyên nhân là do
các điện tích đứng yên hay chuyển động cũng như điện trường và từ trường do chúng
tạo nên. Các điện tích có điện tích âm (như là electron, còn gọi là điện tử), và dương
(như là proton và các ion dương). Các hạt tích điện cùng dấu thì đẩy nhau, khác dấu hút
nhau, các lực tương ứng là lực đẩy và lực hút.
2) Vai trò của điện
Điện là một trong những nhu cầu thiết yếu của con người và là một yếu tố đầu vào
không thể thiếu được của hoạt động kinh tế. Khi mức sống của người dân càng cao,
trình độ sản xuất của nền kinh tế ngày càng hiện đại thì nhu cầu về năng lượng cũng
ngày càng lớn, và việc thỏa mãn nhu cầu này thực sự là một thách thức đối với hầu hết
mọi quốc gia. Ở Việt Nam, sự khởi sắc của nền kinh tế từ sau Đổi Mới làm nhu cầu về
điện gia tăng đột biến trong khi năng lực cung ứng chưa phát triển kịp thời. Nếu tiếp
tục đà này, nguy cơ thiếu điện vẫn sẽ còn là nỗi lo thường trực của ngành điện lực Việt
Nam cũng như của các doanh nghiệp và người dân cả nước.
a) Trong thiên nhiên


Hiện tượng thiên nhiên liên quan đến điện năng được biết đến nhiều nhất là sét.
Trong hiện tượng này có sự tham gia của cả điện tích âm và điện tích dương.
Một số lồi cá có khả năng tạo ra một hiệu điện thế cao với chức năng tự vệ, hoặc
chúng có khả năng thu được các tín hiệu điện từ các con mồi.
2) Trong cuộc sống
Điện thường được hiểu là hiệu điện thế hay dòng điện, nhưng nhiều khi không
chính xác, vì các tác dụng của điện cần được giải thích qua ảnh hưởng của dòng điện
và hiệu điện thế. Trong đời sống ngày này, điện năng có vai trò hết sức quan trọng, có
mặt hầu như khắp mọi nơi, trong tất cả mọi lĩnh vực, ứng dụng rộng rãi nhất là dùng
điện để thắp sáng.
Điện có các mức độ ảnh hưởng khác nhau đến cơ thể con người tùy theo cường
độ. Dòng điện có cường độ nhỏ thường được dùng trong việc chữa bệnh, chúng có giá
trị khoảng vài m A . Dòng điện có cường độ lớn hơn (trên 10 mA) là rất nguy hiểm đối
với cơ thể con người, trên 50 mA có thể dẫn đến tử vong. Các súng shock điện có
cường độ dòng điện lớn dạng xung lượng, nên thường làm cho nạn nhân đau đớn,
không kiểm sốt được các cơ, đối với người có thể trạng kém, có thể dẫn đến bất tỉnh,
hay sự ngừng đập của tim. Dòng điện loại này cũng được dùng trong các ghế điện.
3) Việc cung cấp điện
a) Tạo ra điện
Phần lớn lượng điện hiện tại được sản xuất bởi máy phát điện tại các nhà máy
điện. Điện năng có thể được tạo ra từ các nguồn năng lượng sơ cấp khác nhau, nhung
chúng có chung cách hoạt động là dùng hiện tượng cảm ứng điện từ.
Trong pin và ắc quy điện năng tạo ra bởi các phản ứng hóa học.
Trong các tế bào nhiên liệu, điện năng có được qua các quá trình chuyển đổi từ năng
lượng hóa.
b) Truyền tải điện
Điện năng thường được truyền tải thông qua sự chuyển động của dòng electron
trong các vật cứng. Dây dẫn từ chất có điện trở nhỏ (độ dẫn điện cao) thường được sử
dụng, điển hình là bạc, đồng hay nhôm. Hao hụt trong quá trình truyền tải là không thể
tránh khỏi, điển hình là hiện tượng nóng lên của dây dẫn. Sự hao hụt này trong truyền

tải điện năng khoảng cách xa có thể giảm khi tăng hiệu điện thế của dòng điện. Ví dụ ở
Việt Nam có đường dây 500 kV Bắc - Nam có hiệu điện thế 500 k V ; tại một số quốc
gia như Canada, Nga hay Nhật,... hiệu điện thế các đường dây truyền tải có giá trị đến
1500 kV.
4) Cầu về điện
Tình hình cung - cầu điện năng ở Việt Nam
Tốc độ tăng trưởng trung bình của sản lượng điện ở Việt Nam trong 20 năm trở
lại đây đạt mức rất cao, khoảng 12-13%/năm - tức là gần gấp đôi tốc độ tăng trưởng
GDP của nền kinh tế.Với nhu cầu hằng năm tăng tới 16%17%, điện đang là lĩnh vực
cung không đáp ứng đủ cầu, do đó thu hút mối quan tâm của rất nhiều nhà đầu tư.
Nguồn lực của một mình EVN hiến lược công nghiệp hóa và duy trì tốc độ tăng trưởng
cao để thực hiện „dân giàu, nước mạnh“ và tránh nguy cơ tụt hậu sẽ còn tiếp tục đặt lên
vai ngành điện nhiều trọng trách và thách thức to lớn trong những thập niên tới. Để hồn
thành được những trọng trách này, ngành điện phải có khả năng dự báo nhu cầu về điện
năng của nền kinh tế, trên cơ sở đó hoạch định và phát triển năng lực cung ứng của
mình.
Việc ước lượng nhu cầu về điện không hề đơn giản, bởi vì nhu cầu về điện là nhu
cầu dẫn xuất. Chẳng hạn như nhu cầu về điện sinh hoạt tăng cao trong mùa hè là do các
hộ gia đình có nhu cầu điều hòa không khí, đá và nước mát. Tương tự như vậy, các
công ty sản xuất cần điện là do điện có thể được kết hợp với các yếu tố đầu vào khác
(như lao động, nguyên vật liệu v.v.) để sản xuất ra các sản phẩm cuối cùng. Nói cách
khác, chúng ta không thể ước lượng nhu cầu về điện một cách trực tiếp mà phải thực
hiện một cách gián tiếp thông qua việc ước lượng nhu cầu của các sản phẩm cuối cùng
(2)
. Nhu cầu này, đến lượt nó, lại phụ thuộc vào nhiều biến số kinh tế và xã hội khác.
Bảng dưới đây cung cấp dữ liệu lịch sử của một số biến số ảnh hưởng tới nhu cầu về
điện ở Việt Nam trong những năm qua.
Bảng 1: Một số biến số ảnh hưởng tới nhu cầu về điện ở Việt Nam (1990 – 2003)
Một cách khác để nhìn vào khía cạnh cầu về điện năng là phân tách tổng cầu về
điện theo các ngành kinh tế (Hình 1). Ta thấy số liệu ở Bảng 1 và Hình 1 tương thích

với nhau. Nhu cầu về điện năng trong công nghiệp và sinh hoạt/ hành chính chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong tổng nhu cầu. Năm 2005, điện phục vụ tiêu dùng và công nghiệp
chiếm tỷ trọng rất lớn, lần lượt là 43,81% và 45,91%, trong khi 11% còn lại dành cho
nông nghiệp và các nhu cầu khác. Nhu cầu điện của khu vực công nghiệp tăng cao là hệ
quả trực tiếp của chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, mà một biểu
hiện của nó là tốc độ tăng trưởng giá trị SXCN trung bình trong hơn 10 năm qua đạt
mức khá cao là 10,5%. Còn ở khu vực tiêu dùng, cùng với mức tăng dân số, tốc độ đô
thị hóa khá cao, và gia tăng thu nhập của người dân, nhu cầu về điện tiêu dùng cũng
tăng với tốc độ rất cao. Kết quả là nhu cầu về điện của tồn nền kinh tế tăng trung bình
gần 13%/năm, và tốc độ tăng của mấy năm trở lại đây thậm chí còn cao hơn mức trung
bình. Theo dự báo, tốc độ tăng chóng mặt này sẽ còn tiếp tục được duy trì trong nhiều
năm tới. Đây thực sự là một thách thức to lớn, buộc ngành điện phải phát triển vượt bậc
để có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước.

a) Tình hình cung điên tại Việt Nam
Bây giờ hãy thử kết hợp những dự báo về nhu cầu điện năng của nền kinh tế với năng
lực cung ứng của ngành điện. Nếu tốc độ phát triển nhu cầu về điện tiếp tục duy trì ở
mức rất cao 14-15%/năm như mấy năm trở lại đây thì đến năm 2010 cầu về điện sẽ đạt
mức 90.000 GWh, gấp đôi mức cầu của năm 2005. Theo dự báo của Tổng Công ty
Điện lực Việt Nam, nếu tốc độ tăng trưởng GDP trung bình tiếp tục được duy trì ở mức
7,1%/năm thì nhu cầu điện sản xuất của Việt Nam vào năm 2020 sẽ là khoảng 200.000
GWh, vào năm 2030 là 327.000 GWh. Trong khi đó, ngay cả khi huy động tối đa các
nguồn điện truyền thống thì sản lượng điện nội địa của chúng ta cũng chỉ đạt mức
tương ứng là 165.000 GWh (năm 2020) và 208.000 A phủ đã quyết định không tăng giá
điện sinh hoạt đối với 100kWh đầu tiên, không tăng giá bán buôn điện sinh hoạt nông thôn,
không tăng giá trần điện sinh hoạt nông thôn. Giá điện sản xuất giờ bình thường và thấp điểm
cũng được giữ nguyên.
Theo thống kê của Bộ Công nghiệp, hiện cả nước có khoảng 2,9 triệu hộ mua điện sinh hoạt
có mức sử dụng dưới 100kWh/tháng (chiếm 16,4% số hộ), và 9 triệu hộ dân ở nông thôn mua
điện theo giá trần điện sinh hoạt nông thôn (chiếm 50,8% số hộ). Do đó, với phương án tăng

giá điện nói trên, sẽ có 67,2% số hộ (chiếm 80% số dân) tiếp tục được hưởng chính sách trợ
giá của Chính phủ thông qua việc giữ nguyên giá bán điện sinh hoạt bậc thang 100 kWh đầu
và điện sinh hoạt nông thôn.
Bảng giá điện sinh hoạt từ 1/1/2007.
"Phương án điều chỉnh này (tăng giá điện bình quân 7,6%) thể hiện rõ quan điểm của Chính
phủ quan tâm đến đời sống của người dân ở nông thôn và những hộ nghèo tại thành thị, tiếp
tục duy trì trợ giá thông qua giá điện cho các hộ này, đồng thời hạn chế dần việc bao cấp tràn
lan ngồi xã hội" - Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Hồng Trung Hải phân tích.
Vậy đối với các hộ sử dụng trên 100 kWh/tháng, chi phí "đội" lên so với hiện nay cụ thể sẽ là
bao nhiêu? Phân tích từ sự so sánh phương án điều chỉnh giá điện cho thấy: hộ sử dụng điện
trên 100 kWh, đối với kWh từ 101- 150 phải chịu mức giá là 900 đồng/kWh (tăng 23%); từ
kWh thứ 151 - 200 phải chịu mức giá 1.470 đồng/kWh (tăng 21%); từ kWh thứ 201 - 300 chịu
mức giá 1.600 đồng/kWh (tăng 19%); từ kWh thứ 301-400 chịu mức giá 1.720 đồng/kWh
(tăng 23%).
Tính tốn cụ thể cho thấy hộ sử dụng đến mức tối đa 150 kWh/tháng sẽ phải trả thêm khoảng
10.500 đồng (thêm 210 đồng cho mỗi kWh), hộ sử dụng đến tối đa 200 kWh/tháng phải trả
thêm 23.000 đồng, hộ sử dụng đến 300 kWh/tháng phải trả thêm 49.000 đồng... Đối với các hộ
sử dụng trên 400 kWh/tháng, phần sản lượng trên 400 kWh sẽ phải chịu mức tăng cao là 27%.
Đây là mức tăng cao cần thiết buộc các hộ gia đình phải tiết kiệm điện.

×