TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA SAU ĐẠI HỌC
------------
TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận dụng quan điểm “chính danh”
của Khổng Tử để xác định mối quan hệ thầy
và trò của các trường đại học ở Việt Nam
hiện nay.
GVHD: TS Nguyễn Văn Dương
Học Viên: Đặng Văn Tuyên
Lớp: K25MBA
MSSV:
Đà nẵng Tháng 10 năm 2022
I. Hoàn cảnh ra đời của trường phái Nho giáo
1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội
Trung Quốc là một quốc gia phương Đơng điển hình, đó là một xã hội khơng có hình
thức sở hữu về tư liệu sản xuất, đặc biệt thể hiện rõ nét nhất là không có tư hữu về ruộng
đất. Xã hội Trung Quốc cũng giống như nhiều xã hội khác ở châu á không hề giống như
một xã hội nô lệ và phong kiến phương Tây. Đặc điểm của xã hội ấy là công hữu ruộng
đất chiếm ưu thế, tàn dư công xã kéo dài, nền kinh tế - xã hội diễn ra với sự cống nạp từ
bên dưới và phân phối từ bên trên. Nhà nước ra đời sớm do nhu cầu, đòi hỏi của lịch sử,
mặc dù phân hóa giai cấp chưa chín muồi. Xã hội và quốc gia chiếm hữu nơ lệ ở Trung
Quốc cổ đại được hình thành vào khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên.
Lịch sử xã hội chiếm hữu nô lệ Trung Quốc cổ đại là lịch sử đấu tranh tàn khốc giữa
chủ nô và nô lệ, giữa tầng lớp thượng lưu của xã hội chiếm hữu nô lệ với những người
nông dân bị phá sản, bị nô dịch và phụ thuộc. Giữa tầng lớp quý tộc gia truyền bị bần
cùng hóa với những thương nhân và trọc phú tiếm quyền. Những xung đột giai cấp trong
quốc gia chiếm hữu nô lệ Trung Quốc trở nên sâu sắc. Cuộc đấu tranh ấy để lại những
dấu ấn rất nặng nề. Nó tạo tiền đề chính trị - xã hội cho cuộc đấu tranh của các trường
phái chính trị khác nhau rất đa dạng và phong phú.
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, Trung Quốc loạn bởi sự xâu xé lẫn nhau, tranh bá
quyền với nhau, Trung Quốc bị chia thành hàng trăm tiểu quốc, rồi những nước nhỏ có
tương đồng với nhau trong hồn cảnh nào đó liên minh với nhau chống lại liên minh
khác, cuối cùng dẫn đến phong trào ngũ bá (Tề, Tấn, Tần, Tống, Sở). Câu hỏi lớn của lịch
sử Trung Quốc thời kỳ này là làm thế nào để ổn định xã hội? Trả lời câu hỏi ấy là phong
trào "bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng" (Trăm nhà đua tiếng, trăm hoa đua nở).
Hàng trăm nhà tư tưởng khác nhau đưa ra tư tưởng của mình nhằm cắt nghĩa, tìm ra
nguyên nhân xã hội loạn và từ đó đưa ra các cách chữa trị xã hội loạn ấy. Trong số hàng
trăm nhà như vậy nổi bật lên có các nhà lớn sau đây: Nho giáo - người đứng đầu là
Khổng Tử, Lão Gia - người đứng đầu là Lão Tử, Mặc Gia - người đứng đầu là Mặc Tử,
Pháp gia - người đứng đầu là Hàn Phi Tử.
2. Thân thế - sự nghiệp của Khổng Tử (551 - 479 TCN)
Khổng Tử sinh ra ở ấp Trâu, quận Xương Bình, nước Lỗ (nay thuộc miền Sơn Đơng phía Bắc Trung Quốc). Ơng là người dòng dõi nước Tống nhưng do chiến tranh mà lưu
lạc song nước Lỗ, tên là Khâu, tên chữ là Trọng Ni. Ngồi 50 tuổi ơng mới được vua Lỗ
Định Công phong chức Trung Đô Tể, 4 năm sau được phong chức Tư Không, rồi Đại Tư
Khấu trông coi pháp luật. Suốt thời gian làm quan ơng chăm lo chính sự cho nước Lỗ ổn
định. Nước Tề lập kế để vua Lỗ mãi vui chơi, qn việc triều đình. Ơng Can gián nhưng
vua Lỗ khơng nghe, bèn cùng học trị bỏ vua Lỗ mà đi. Khổng Tử nhiều lần đi sang các
nước chư hầu mong muốn áp dụng học thuyết của mình vào việc trị nước, nhưng khơng
được dùng, bản thân ông cũng không được trọng dụng. Sau 14 năm du thuyết không
thành, quay về nước Lỗ khi ông đã 68 tuổi. Ông viết sách và mở trường tư dạy học, học
trò theo học rất đơng. Ơng thọ 73 tuổi.
Học thuyết của Khổng Tử chủ yếu đề cập đến những vấn đề chính trị - xã hội. Vì vậy
nó là học thuyết chính trị. Tuy nhiên, dưới góc độ tiếp cận và hướng giải quyết những vấn
đề chính trị - xã hội, tư tưởng của Khổng Tử lại là tư tưởng về con người, về đạo đức.
Hay nói khác học thuyết của Khổng Từ về cơ bản là học thuyết chính trị - đạo đức. Tư
tưởng chính trị của Khổng Tử được thể hiện tập trung nhất trong quan niệm của ông về
nhân, lễ, chính danh và mối quan hệ giữa chúng. Trong phạm vi tiểu luận này em chỉ xin
đề cập đến học thuyết "chính danh" của Nho giáo. Tuy nhiên "chính danh" khơng phải là
học thuyết độc lập mà nó nằm trong chỉnh thể đức trị (nhân - lễ - chính danh). Có nhân và
lễ thì mới có chính danh. Và khi có "chính danh" thì chi phối cái nhân, lễ. Con người
khơng có nhân và lễ thì khơng có chính danh. Vì vậy, trong q trình phân tích học thuyết
"chính danh" chúng ta khơng thể khơng đề cập đến "nhân" và "lễ".
II. Nội dung học thuyết chính danh của Nho giáo
1. Nội dung của học thuyết "chính danh'
Thời đại của Khổng Tử sống là thời đại "vương đạo" suy vi, "bá đạo" nổi lên lấn át
"vương đạo", chế độ tông pháp nhà Chu bị đảo lộn, đạo lý nhân ln suy đồi. Đứng trước
tình hình đó các Nho gia có hồi bão về một chế độ phong kiến có kỷ cương, thái bịnh và
thịnh trị. Khi xét tư tưởng của Khổng Tử ta thấy có một quy tắc chính, một phát kiến của
ơng đó là học thuyết "chính danh". "Chính danh" là tư tưởng cơ bản của chính trị Nho
giáo nhằm đưa xã hội loạn trở lại trị. Khổng Tử phản đối nhà cầm quyền dùng pháp chế,
hình phạt trị dân mà chủ trương nhân trị. Sự vật tồn tại khách quan, để biểu hiện nó phải
dùng ngơn ngữ, cái ngơn ngữ để biểu hiện đó là "danh". Danh đối lập với thực. Danh có
nội hàm, sự vật ln thay đổi nên nội hàm của danh cũng luôn thay đổi. Nhưng ngơn ngữ
lại có tính ổn định nên danh thường lạc hậu hơn so với thực, không thay đổi kịp so với
hiện thực, nhất là xã hội có biến loạn. Nguyên nhân khiến cho xã hội loạn lạc là do
"danh" không hợp với "thực", xã hội đã xa rời đạo lý nhân nghĩa, kỷ cương phép nước bị
đảo lộn. Muốn ổn định trật tự xã hội, Khổng Tử chủ trương giáo dục chính trị đạo đức là
"chính danh, định phận". Thực chất là mỗi người cần phải có phẩm chất tương xứng với
vị thế xã hội của anh ta và suy nghĩ, hành động tương xứng với vị thế ấy.
Khổng Tử nói rằng: "Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính" (khơng ở vị thế khác thì khơng
mưu việc của người ở vị thế ấy). Ở đây cần nhìn vấn đề "chính danh" từ sự quy định lẫn
nhau giữa phẩm chất và năng lực với vị thế xã hội, nghĩa là mọi vật cần hợp với cái danh
nó mang. Mỗi cái danh đều bao hàm bổn phận, trách nhiệm, những cá nhân mang danh ấy
phải có trách nhiệm và bổn phận phù hợp với danh ấy. Khổng Tử nói: danh với thực phải
hợp nhau, nếu khơng hợp nhau thì gọi tên ra, người ta sẽ không hiểu, lý luận sẽ khơng
xi. Mọi việc sẽ khơng thành, lễ, nhạc, hình pháp sẽ khơng định được mà xã hội sẽ loạn.
Ơng Vua là người được trời giao phó cho nhiệm vụ lo cho dân đủ ăn, đủ mặc, làm gương
cho dân, dạy dỗ dân, để dân được sống yên ổn, làm trịn nhiệm vụ đó là danh xứng với
thực, nếu khơng thì khơng xứng đáng gọi là khơng thể gọi là vua được. Cho nên Khổng
Tử khẳng định, muốn khôi phục lại lễ chữ Tây Chu, theo ông điều trước tiên là phải khôi
phục lại danh phận, địa vị của các đẳng cấp mà lễ chế đã quy định. Chính vì vậy, khi vua
nước Vệ có ý mời Khổng Tử ra chống chính Tử Lộ hỏi Khổng Tử "Thầy định làm cái gì
trước?" Khổng Tử đáp là "chính danh trước đã". Tử Lộ cho rằng người viển vông và
khơng thực tế, Khổng Tử mắng Tử Lộ và nói: "Người qn tử đối với những điều mình
khơng biết thì hãy để trống đấy. Danh khơng chính thì lời nói khơng thuận, lời nói khơng
thuận thì việc khơng thành, việc khơng thành thì lễ nhạc khơng gây lại được, khơng gây
lại được lễ nhạc thì hình phạt sẽ sai cả, hình phạt khơng đúng thì dân sẽ bị bó tay. Cho
nên người quân tử có danh rồi tất phải nói, nói rồi tất phải làm".
Theo học thuyết "chính danh" Khổng Tử đã chia xã hội thành các mối quan hệ cơ bản,
trong đó mỗi mối quan hệ gọi là một luân. Theo Khổng Tử trong xã hội có 5 luân, đó là:
Vua - Tơi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn - bè. Trong đó 3 luân đều được chú trọng
hơn cả và gọi đó là tam cương, các luân đã nói rõ danh phận của từng người. Nếu mỗi
người thực hiện đúng danh phận đó sao cho "vua phải giữ đạo vua, bề tôi phải giữ đạo bề
tôi, cha phải giữ đạo cha, con phải giữ đạo con, chồng phải giữ đạo chồng, vợ phải giữ
đạo vợ" (quân kính, thần trung, phu từ, tử hiếu, phu xướng, phụ tùng" thì có chính danh.
Mỗi người giữ đúng danh phận của mình thì mới có thể gây lại được nền chính trị của
thời thiên hạ có đạo". Vì vậy, Khổng Tử khẳng định muốn làm cho xã hội ổn định thì phải
"chính danh", "chính danh" từ trên xuống: quân - quân, thần - thần, phụ - phụ, tử - tử.
Chứ thứ nhất là chữ chỉ những con người cụ thể bằng xương, bằng thịt, có tên tuổi. Chứ
thứ 2 là chữ chỉ "danh", với tiêu chuẩn lý tưởng, là những con người cấp tính để người ta
phải tu vào đó. Cho nên phải kết hợp giữa con người lý tưởng và con người cụ thể. Vì thế
"quân" phải tu cho được là ông vua lý tưởng, vua phải ra vua, là ông vua minh, hiền, triết,
yêu dân, yêu nước. "Quân" lý tưởng ấy là địa vị chính đáng của vạn vật trong tự nhiên
"như sao bắc đẩu đứng ở vị trí của nó mà các sao khác đều hướng theo...". Còn chữ
"danh" trong xã hội là danh vị, hiểu theo ngôn ngữ ngày nay là cương vị và quyền hạn,
cịn chữ "phận" có nghĩa là "phần", là "bổn phận" tức là gồm cả quyền lợi, nghĩa vụ, mọi
mặt.
Trong quan hệ vua - tôi, Khổng Tử chủ trương dùng đức trị, tức là người thống trị tự
lấy đạo đức của mình để cảm hóa người bị trị, làm cho họ khơng chống lại. Khác với hình
chính, đức trị khơng quan tâm đến sản xuất, đến chính sách, khơng dùng biện pháp
thưởng - phạt, mà chỉ cho rằng người thống trị chỉ cần có đạo đức là đủ, thậm chí khơng
cần cả đẳng cấp xuất thân của họ. Ơng thường nói làm chính trị mà có đức nhân là đã
đứng vào vị trí của sao bắc đẩu, vị trí mà tất cả các ngôi sao khác phải hướng theo. Theo
ông đối với dân lòng tin là quan trọng nhất, sau đó mới đến lương thực và những thứ
khác. Vì vậy, nhà cầm quyền phải giúp cho dân giàu có, sau khi đã giàu có rồi thì nhà cầm
quyền phải giáo hóa dân. Và để làm được điều đó thì nhà cầm quyền phải làm ba việc: Đó là phân cơng cho người dưới quyền mình, họ làm xong phải xem xét lại. Thứ hai là
phải dung thứ cho những người phạm phải lỗi nhỏ. Thứ ba là phải đề cử và dùng người
hiền đức, tài cán ở đây quan niệm hiền tài của ơng cũng khác: Hiền là có năng (kỹ năng,
kỹ nghệ), có nghệ (lắm tài ba) song ơng q đức hơn năng nghệ. Ơng nói người qn tử
coi đạo là mục tiêu, nhân đức là chỗ dựa, còn nghệ chỉ là để chơi (chí ư đạo, cứ ư đức, y ư
nhân, du ư nghệ). Như vậy, ở đây ta thấy Khổng Tử chỉ rõ nhà cầm quyền để chính danh
thì phải có nhân và lễ, nhà cầm quyền phải có lịng thương người, u người. Ơng vua, kẻ
sĩ lớn nhất cũng trước hết là từ chữ nhân mà trở thành ngôi sao bắc đẩu để cai trị các sao
khác hướng theo. Chữ nhân ở đây không bị giới hạn ở một cá nhân nhất định mà từ trong
mỗi cá nhân để đi ra nhân hóa xã hội. Người cầm quyền phải biết phát hiện và sử dụng
những người tài đức, giúp họ trở thành nhân, làm cho cái đẹp, cái thiện trong mỗi người
nảy nở, chớ không khơi dậy cái ác trong họ. Tựu trung lại theo Khổng Tử, nhân là nền
móng, là gốc từ đó nảy sinh ra các phẩm chất đạo đức khác. Vì vậy, người nhân khơng thể
không giữ lễ.
Ở trong mối quan hệ vua - tôi thì vua lấy "lễ" để sai khiến bề tơi. Cịn tơi đối với vua
thì phải trung có nghĩa là phải trung thành, hết lòng, thành tâm. Trong mối quan hệ cha con, thì cha từ, con hiếu. Hiếu ở đây chủ yếu được xét trên góc độ tâm, hiếu khơng chỉ
phụng dượng người sinh ra mình mà phải có lịng thành kính, cịn nếu khơng chẳng khác
gì ni chó ngựa. Hiếu không nhất nhất là theo cha mẹ, mà phận làm con thấy cha mẹ sai
lầm phải can gián một cách nhẹ nhàng. Ơng nói: "chỉ xét cái đáng theo mà theo mới gọi là
trung, hiếu. Như vậy, ông không chủ trương ngu trung, ngu hiếu, qn có nhân thì thần
mới trung, phụ có từ thì tử mới hiếu. Đó là quan hệ hai chiều mà ít người để ý.
Trong quan hệ vợ chồng thì chồng phải giữ đạo chồng, vợ phải giữ đạo vợ, vợ phải
nghe theo chồng được như thế xã hội sẽ có trật tự xã hội sẽ có trật tự kỷ cương, thái bình
thịnh trị. Như vậy, khi nghiên cứu học thuyết "chính danh" Khổng Tử đưa ra ta cần tập
trung vào các nội dung:
- Tương xứng với địa vị cai trị, phải có phẩm chất tương ứng như nhân, nghĩa, liêm,
chính... đồng thời chỉ được sử dụng "lễ" tương ứng với địa vị đang được thừa nhận, bề
tôi, chư hầu, đại phu chỉ dùng "lễ" của bề tôi, chư hầu, đại phu, không được dùng "lễ" của
thiên tử. Trên dưới trật tự phân minh "vua lấy lễ mà sai khiến bề tôi, bề tôi lấy trung để
thờ vua".
- Là chức trách xã hội của người cai trị và của mọi thành viên xã hội "làm vua phải cư
xử cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con".
Đánh giá vai trị của chính danh đối với cai trị, Khổng Tử khái qt: Nếu khơng chính
danh tất loạn, có nghĩa là các chức trách của xã hội khơng chính được thì xã hội sẽ loạn.
Nếu chính danh thì khơng cần ép buộc dân cũng theo, tất trị, nghĩa là nếu các chức trách
xã hội chính danh được thì dân sẽ hưởng theo thì xã hội sẽ trị. Nhưng làm thế nào để thực
hiện chính danh? Ơng cho rằng mọi người phải tự giác giữ lấy danh phận của mình. Từ
thiên tử, chư hầu, đại phu đến "kẻ sĩ" phải tu dưỡng đạo nhân để có sự tự giác đó. Vậy
muốn chính danh thì thân mình phải chính, ngơn ngữ cũng phải chính nữa, lời nói và việc
làm phải hợp với nhau, khơng được nói nhiều mà làm ít, khơng được lời nói thì kính cẩn
mà trong lịng thì khơng, hơn nữa "phải siêng năng về việc làm, thận trọng về lời nói" và
nên "chậm chạp về lời nói, mau mắn về việc làm".
Khổng Tử cho rằng đối với người cai trị thì "thân mình mà chính được thì khơng phải
hạ lệnh mọi việc vẫn tiến hành, thân mình mà khơng chính được thì dù có hạ lệnh cũng
chẳng ai theo". "Nếu thân mình mà chính được rồi thì đối với mọi việc chính sự có cịn gì
khó. Khơng thể chính được thân mình thì chính người khác thế nào?” Khổng Tử khẳng
định để mang cái danh là vua, thì phải làm trịn trách nhiệm của ông vua, nếu không sẽ
mất cái danh và mất ln cả ngơi. Tóm lại, quy tắc chính danh đưa tới quy kết: ai ở địa vị
nào cũng phải làm trịn trách nhiệm, và ai giữ phận nấy, khơng được việt vị, nghĩa là
không được hưởng những quyền lợi cao hơn địa vị của mình.
Khi Khổng Tử với tư cách một đại phu trí sĩ có trách nhiệm khuyến cáo vua Lỗ trừng
trị một nghịch thần của một nước bạn, và ơng đã theo "chính danh" nghiêm cẩn làm trịn
trách nhiệm đó. Cịn Hồn Tử đã tự ban cho mình cái quyền dùng vũ "bát dật" mà chỉ
thiên tử mới được dùng là trái với quy tắc chính danh. "Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính" là
quan điểm quan trọng đối với Khổng Tử, ai giữ phận nấy, cứ theo đúng tổ chức xã hội rất
chặt chẽ, rất có tơn ti của chu cơng thì nước sẽ trị, thiên hạ mới gọi là hữu đạo. Hay nói
cách khác, mọi người phải trọng pháp điển, có tơn ti khơng ai được việt vị (lễ). Người
trên phải đính chính, làm trịn nhiệm vụ, u dân (nhân), có tín đức thì mới chính danh,
đáng được dân trọng. Như vậy, muốn cho xã hội khỏi loạn Khổng Tử đã đề ra học thuyết
"chính danh", mà muốn chính danh thì phải tơn trọng "lễ", và một người muốn chính
danh thì phải có nhân.
2. Những giá trị tích cực và hạn chế của học thuyết "chính danh" của Nho giáo
2.1. Những giá trị tích cực
Nho giáo là một học thuyết đức trị, lễ trị, nhân trị, văn trị, khẩu hiệu của nó là thu
phục lịng người. Học thuyết chính danh đề ra là bài thuốc để chữa trị xã hội loạn, nhằm
mục đích thu phục lịng người. Do vậy, dù đứng ở một góc độ nào đi chăng nữa thì đây
cũng chính là một học thuyết chính trị xã hội, nó đưa xã hội vào kỷ cương có lợi cho giai
cấp thống trị.
Khổng Tử đưa ra học thuyết chính danh, địi hỏi nhà cầm quyền phải có tài đức xứng
với địa vị của họ, lời nói và việc làm phải đi đơi với nhau, trọng việc làm hơn lời nói.
Dùng đạo đức của người cầm quyền để cai trị, cai trị bằng giáo dục, giáo dưỡng, giáo hóa
chứ khơng phải là cai trị bằng gươm giáo, bằng bạo lực. Đây là giá trị phổ biến tích cực
cho đến ngày nay. Bởi vì dù chính trị có hiện đại thế nào đi chăng nữa thì giáo dục, giáo
dưỡng, giáo hóa vẫn rất quan trọng, kết hợp giáo dục với pháp luật chúng ta sẽ rèn dũa
con người vào kỷ cương hơn.
Lời lẽ của học thuyết rất dân dã, ít tối tân, ít tư biện, ít mang tính bác học vì vậy nó dễ
hiểu, dễ nhớ nên người ta dễ vận dụng, nó là món ăn tinh thần của nhiều người. "Chính
danh là học thuyết mà ngồi những hạn chế thì có những yếu tố hợp lý, rất có ý nghĩa đối
với xã hội hiện đại. Nếu chúng ta thực hiện nó thì sẽ đưa xã hội vào trật tự kỷ cương.
Học thuyết "chính danh" cũng đặt ra vấn đề coi trọng người hiền tài, sử dụng người
hiền tài đúng với trình độ của họ. Như vậy, sẽ phát huy được hết tiềm năng của người
hiền tài nhằm phục vụ cho dân, cho nước. Đây cũng là một học thuyết coi trọng sự học
tập, có học mới được làm quan, coi sự học là tiêu chí để vào chính trị. Sự học ở đây là có
giáo dục, được giáo dục, được giáo hóa để rèn dũa những phẩm chất đạo đức, rèn khí tiết,
tu khí tiết, tu tâm.
Học thuyết chính danh cịn có giá trị là khi thực hiện nó làm cho con người có trách
nhiệm với bản thân hơn, có trách nhiệm với cơng việc của mình hơn, từ đó phấn đấu để
hoàn thành nhiệm vụ được giao.
2.2. Những hạn chế
Học thuyết của Khổng Tử quá tuyệt đối hóa đạo đức, cho đạo đức là tất cả, từ đấy
đánh giá con người quy về đạo đức hết. Ông khẳng định ông vua chỉ cần đạo đức là đủ,
hay khi đánh giá hiền tài ông đưa tiêu chuẩn đạo làm mục tiêu, nhân đức là chỗ dựa còn
cái tài là chỉ để chơi.
Học thuyết chính danh của Khổng Tử cịn có hạn chế đó là hồi cổ, bao hàm ý bảo
thủ, phải trọng danh cũ, phải hành động hợp với tiêu chuẩn cũ. Trong học thuyết chính
danh của Khổng Tử vẫn trọng danh hơn thực, trọng xưa hơn nay, từ đó ông đã gạt bỏ
nhiều giá trị đạo đức mang tính nhân đạo.
Học thuyết chính danh mà Khổng Tử đưa ra "Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính", "thứ
nhân bất nghị" là khơng cho dân có quyền bàn việc nước. Chỉ một ý đó thơi cũng cho ta
thấy ở đây khơng có dân chủ. Mặc dù ơng rất u dân, lo cho dân ănng khơng cho dân
bàn việc nước vì dân không được học, không đủ tư cách bàn việc nước, cho họ làm việc
nước thì sẽ loạn.
Hơn nữa, học thuyết chính danh cịn thể hiện rõ sự bất bình đẳng, thang bậc trong xã
hội, coi thường phụ nữ (người phụ nữ phải theo chồng thì mới đúng đạo làm vợ), coi
thường lao động chân tay. Và vì ơng khơng dám đả động đến "tông pháp" của Chu Công
nên học thuyết chính danh của ơng có vẻ lưng chừng, khơng triệt để. Và chỉ là lý thuyết
sng vì đương thời danh và thực mâu thuẫn nhau sâu sắc. Cái thực của đời sống xã hội,
trật tự xã hội đã có nhiều biến đổi làm cho cái danh phận cũ được quy định theo lễ chế
của nhà Chu khơng cịn phù hợp nữa. Do đó mà khơng thể làm được.
III. Ý nghĩa của học thuyết chính danh về mối quan hệ thầy – trò của các trường
đại học ở Việt Nam hiện nay
Đối với Việt Nam từ chính trị Nho giáo có ảnh hưởng rất quan trọng. Thực tế xây
dựng các triều đại phong kiến đã cho thấy điều đó, Nho giáo đã góp phần quan trọng vào
việc tổ chức đời sống - xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến một cách có nề nếp, có
quy chế, có kỷ cương. Nó đã có những đóng góp tích cực trong việc khun bảo, dạy dỗ
con người thương yêu đồng loại, quan hệ tốt với nhau. Sống yên vui, hòa thuận với nhau.
Nho giáo đặt giáo dục đạo đức để thuyết phục và cảm hóa lên trên chính trị và hình phạt.
Nho giáo tỏ rõ tinh thần tích cực đi vào đời sống xã hội, đứng ra đảm nhận việc dân, việc
nước nhằm thực hiện lý tưởng của mình ở khắp mọi nơi. Vì thế cho nên Nho giáo thể
hiện khá rõ chủ nghĩa nhân đạo và nó góp phần tích cực vào việc thúc đẩy xã hội học tập.
Và những ý nghĩa đó đến nay vẫn còn giá trị mà chúng ta vận dụng, phát triển thành cơng
sẽ góp phần rất lớn vào việc ổn định và phát triển đất nước trên tất cả các mặt.
Vào mỗi dịp Ngày Nhà giáo Việt Nam (20-11), các thế hệ học trò lại gửi những lời
chúc mừng tốt đẹp nhất, những bông hoa tươi thắm đến các thầy, cô giáo - người “chèo
đò” trên dòng đời với tấm lòng biết ơn sâu sắc. Đó là truyền thống “tơn sư trọng đạo” của
dân tộc ta từ ngàn đời nay. Truyền thống đạo đức quý báu này đã góp phần tạo nên bản
sắc văn hóa rất riêng của dân tộc Việt Nam.
Người xưa thường nói “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, dù chỉ học một chữ hay nửa chữ
cũng mang ơn người dạy. Mang ơn thầy là bổn phận của người học, bởi “không thầy đố
mày làm nên”. Thế nên, nghề dạy học được coi là nghề cao quý nhất vì sản phẩm đào tạo
ra chính là con người. Nhân dân ta trọng đạo chính là trọng cái nghề “trồng người” cao
quý ấy, cũng như họ đã tôn vinh người thầy là những “kỹ sư tâm hồn” và như “cây thông
trên sườn núi, cây quế giữa rừng sâu, thầm lặng tỏa hương dâng hiến trí tuệ, sức lực cho
đời”. Trong xã hội phong kiến, với nền giáo dục “cửa Khổng sân Trình”, người thầy có
một vị trí vơ cùng quan trọng, chỉ ở dưới vua, thậm chí được đặt lên trên cả cha mẹ: Quân
- Sư - Phụ (Vua - Thầy - Cha). Học trò ngày xưa phải thấm nhuần và tuân theo luân lý ấy.
Quyền uy của người thầy là rất lớn, có khi cịn lớn hơn cả cha mẹ. Điều đó cũng nói lên
quan niệm về chữ “hiếu” và chữ “đạo” của cha ông ta ngày xưa rất rõ. Trước khi cho con
đi học, cha mẹ sắm một mâm lễ bái lạy tổ tiên, mong con học hành sáng dạ, đỗ đạt. Sau
đó, gia đình lại có một “lễ mọn”, thể hiện “lòng thành” dâng lên thầy mà con mình sẽ
theo học. Tỏ lịng thành kính tơn sư trọng đạo, nhiều gia đình cịn gửi gắm con ở ln bên
nhà thầy. Đạo trị xưa khơng chỉ tơn kính người thầy của mình, mà cịn có trách nhiệm,
nghĩa vụ lớn đối với thầy. Khi ra đường, gặp thầy, học trị phải ngả nón mũ vịng tay chào
lễ phép. Lúc thầy già yếu, các đồng môn thường lo sắm cỗ thọ đường (áo quan). Thầy qua
đời, trò chung nhau lo việc ma chay và có trách nhiệm với gia đình thầy, với ngày giỗ
thầy... Tất cả những việc làm đó hồn tồn xuất phát từ lẽ tự nhiên mà không hề vụ lợi, ép
buộc. Trong lịch sử dân tộc ta có biết bao bậc thầy vĩ đại, cả đời tận trung vì dân, vì nước.
Cuộc sống của họ thanh bần mà được người dân ca tụng, lưu danh muôn thuở. Ví như
thầy giáo Chu Văn An (thời Trần), là người thầy tài cao, đức trọng, ngay thẳng, cương
trực, ông có cơng dạy dỗ nhiều người thành đạt nhưng khơng màng danh lợi. Hay nhân
cách cứng cỏi, bản lĩnh của cụ Tư đồ Trần Nguyên Đán; Nhà giáo Lương Đắc Bằng
nghiêm khắc dạy bảo, truyền kinh lý cho Nguyễn Bỉnh Khiêm thi đỗ trạng nguyên... Do
lấy tư tưởng đạo đức làm nền tảng cơ bản, lấy luân lý làm kiến thức phổ thông nên quan
hệ thầy - trị ngày xưa tuy rất khn phép theo lễ giáo phong kiến, song đã thể hiện được
những nét đẹp trong văn hoá truyền thống của một nền giáo dục Nho học.
Đạo lý thầy - trị, “tơn sư trọng đạo” không chỉ là vấn đề đạo đức mà cịn là một
truyền thống văn hố vơ cùng tốt đẹp của Nhân dân ta. Đó cũng là yếu tố quan trọng làm
nên nền tảng đạo đức của xã hội văn minh. Vì lẽ đó, trên khắp đất nước, ở đâu cũng vậy,
từ thành thị đến nông thôn, miền xuôi đến miền ngược, từ nơi thuận lợi đến vùng khó
khăn, người dân Việt Nam đều yêu quý, tôn trọng người thầy, đều dành cho thầy những
tình cảm ưu ái và lịng biết ơn sâu sắc. Người thầy được tơn vinh thì nghề dạy học cũng
được coi trọng. Không phải ngẫu nhiên mà giáo dục đào tạo lại được coi là quốc sách
hàng đầu và ngày 20-11 hằng năm trở thành ngày hội lớn để tôn vinh người thầy và nghề
dạy học cao quý.
Khi đất nước đang chuyển mình với những chủ trương đổi mới trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội và đã thu được những kết quả tốt đẹp; các giá trị đều được đề cao
lên một bước, trong đó giá trị con người và trí tuệ con người ngày càng được coi là động
lực cho sự phát triển. Đối với nghề dạy học, vị trí người thầy không ngừng được nâng lên,
ơn nghĩa đối với người thầy vẫn là một trong những đạo lý được coi trọng. Những người
“chèo đò” trong thời đại mới vẫn nhận được sự quan tâm, kính trọng và tơn vinh của tồn
xã hội. Nhưng, theo dịng đời biến thiên, tư tưởng đạo lý xưa đã có sự đổi thay. Đâu đó
mối quan hệ thầy - trị dần trở nên phai nhạt. Đặc biệt, dưới tác động của mặt trái cơ chế
thị trường và những tiêu cực của đời sống xã hội, một bộ phận nhà giáo thiếu tâm huyết
với nghề, đánh mất lòng tự trọng nghề nghiệp, xu hướng thương mại hố giáo dục đã tạo
ra vịng xốy cuốn một bộ phận giáo viên rời xa truyền thống và tôn chỉ của nghề sư
phạm, khơng giữ gìn vẹn ngun hình ảnh người thầy, làm méo mó những khn vàng
thước ngọc, làm mất đi lòng tin của Nhân dân và học sinh. Và cũng đã có những học trị
xúc phạm đến danh dự, uy tín của thầy, cơ giáo và nhà trường... Tất cả đã và đang làm
phương hại đến truyền thống “tơn sư trọng đạo”.
Lịch sử như một hành trình, để giữ gìn một giá trị truyền thống quý báu, điều đó
khơng phụ thuộc vào thời điểm lịch sử. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới căn
bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà theo nghị quyết của Đảng. Đội ngũ nhà giáo xứ
Thanh cần xác định sứ mệnh và trách nhiệm của mình trước xã hội như lời Bác Hồ người thầy vĩ đại của dân tộc đã dạy: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây. Vì lợi ích trăm
năm phải trồng người”. Mỗi cán bộ, giáo viên phải kiên định, có thái độ đúng đắn, ngăn
chặn xu hướng thương mại hoá giáo dục, tránh xa lối sống thực dụng và vô tâm. Xác
định, trường học không phải là nơi kinh doanh, thầy giáo không thể là người bán chữ. Trẻ
em đến trường khơng có một ham muốn gì hơn là học để làm người. Ấn tượng đầu tiên
tác động đến học sinh là phong cách mẫu mực, là sự giỏi giang về trí tuệ, là nghệ thuật
giảng bài của người thầy, sự hiểu biết và cảm thơng với từng hồn cảnh học trị. Mỗi nhà
trường hãy làm cho khơng khí “thân thiện” bao trùm tất cả các mối quan hệ; thấm sâu,
bám chắc vào đời sống giáo dục. Mỗi học sinh phải luôn thực hiện đúng đạo làm trị, kính
u và tơn trọng thầy, cô giáo, cố gắng phấn đấu học tập và rèn luyện vì ngày mai lập
thân, lập nghiệp. Cùng với đó là sự chung tay của tồn xã hội trong giữ gìn và phát huy
truyền thống “tôn sư trọng đạo”. Làm được như vậy, chúng ta hồn tồn có thể tin tưởng
vào một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc và truyền thống đạo lý
thầy - trị, “tơn sư trọng đạo” mãi mãi giữ nguyên giá trị, mãi mãi là động lực góp phần
đưa sự nghiệp “trồng người” phát triển khơng ngừng.
Quan hệ thầy trị được coi là một trong những mối quan hệ thể hiện nhiều nhất đặc
tính văn hóa và lễ tục của người Việt. Chả thế, từ xưa, dân gian đã đúc kết: “Công cha
nghĩa mẹ, đạo thầy”.
Tuy nhiên, thời nay quan hệ này cũng đã có nhiều đổi thay và phức tạp hơn. Cùng với
sự phát triển của kinh tế và xã hội, mối quan hệ thầy trị khơng cịn đơn thuần như xưa
nữa. Nó đan xen nhiều mối quan hệ: Bạn bè, đối tác, cha con, đồng nghiệp… Về một
nghĩa rộng, người thầy hiện nay khơng cịn là một hình tượng được tuyệt đối hóa về hình
mẫu tri thức nữa. Ở lĩnh vực này, người này là thầy người kia; nhưng đổi lại trò có khi lại
“làm thầy” ở những lĩnh vực khác. Nói một cách nào đó, thầy – trị hiện nay chính là hai
đối tác trao đổi những kiến thức mà họ có được.
Đạo thầy – trị hiện nay bị coi là một mối quan hệ nhạt nhẽo, lỏng lẻo. Mỗi người chỉ
làm theo trách nhiệm (đơi khi nửa vời) của mình. Khơng cịn có những mối quan hệ thầy
– trị hiểu đúng theo đạo nghĩa xưa kia.
Hiện nay, mối quan hệ thầy trị đã có nhiều thay đổi, nhiều người thầy chỉ chú trọng
việc “truyền đạt tri thức cho học sinh, sinh viên” xem nhẹ việc nâng đỡ học sinh, giúp
học sinh, sinh viên vượt qua khó khăn trong cuộc sống, dẫn đến mối quan hệ thầy trị
khơng cịn sâu đậm như xưa.
Nhưng cũng không hiếm những thầy cô vẫn tận tình giúp học sinh, sinh viên, nghiên
cứu sinh học tập, làm luận văn, luận án mà khơng địi hỏi, u sách gì. Các thầy làm việc
với trách nhiệm, sự say mê và tình cảm của mình dành cho trị. Như vậy là quan hệ thầy
trị nhạt nhẽo, lỏng lẻo khơng phải xảy ra ở tất cả các thầy và các trị, chỉ có một số, cụ
thể bao nhiêu cần phải có những khảo sát.
Khái niệm “dân chủ” trong quan hệ thầy trị hiện nay muốn khuyến khích và nhấn
mạnh đến vai trò của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức, tri thức. Để lĩnh hội tri thức
đúng, học sinh cần suy nghĩ, tìm tịi và phản hồi lại những điều thầy dạy, những điều tự
học được thông qua việc đọc sách, thông qua hoạt động sống… Như vậy, dân chủ có
nghĩa là trị phản hồi lại những tri thức mà mình học được cho thầy, sau đó thầy lại giúp
học sinh hiểu đúng hơn, chính xác hơn. Dân chủ khơng có nghĩa là bỏ đi lễ nghĩa của trị
dành cho thầy. Ở đây, chỉ có một thay đổi ở thầy là thầy phải biết lằng nghe ý kiến của trò
chứ đừng nghĩ ý kiến của trò là sai, đi ngược ý kiến của thầy là vô lễ.
Không nên đặt vấn đề trị cãi lại thầy, chúng ta khuyến khích trò phản biện những điều
thầy dạy, trao đổi lại những điều thầy dạy nếu trị vẫn cảm thấy khơng thơng. Thầy phải
tơn trọng ý kiến của trị như bao những ý kiến khác mà thầy vẫn phải tơn trọng đó thơi. Ví
dụ ý kiến của cấp trên, ý kiến của đồng nghiệp, của vợ hoặc chồng mà thầy luôn phải
nghe…. Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy là một truyền thống văn hoá và ứng xử tốt
đẹp, cần được giữ gìn và bảo vệ, nhất là thời nay.
Khơng khó để phân biệt những học sinh này, học sinh sắc sảo, sáng tạo ln hỏi thầy
và hỏi với mục đích là để tiến bộ để hiểu tri thức và phát triển tri thức. Cịn học sinh hư
khơng bao giờ hoặc ít hỏi thầy tri thức mà thường vi phạm nội quy học đường.