Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

NHÌN LẠI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ (2011-2012) GỢI Ý CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NHỮNG NĂM TIẾP THEO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.65 KB, 44 trang )

NHÌN LẠI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ (2011-2012)
GỢI Ý CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NHỮNG NĂM TIẾP THEO
Nhóm nghiên cứu Học viện Chính sách Phát triển:
PGS.TS. Đào Hùng
TS.Nguyễn Thạc Hoát
TS. Nguyễn Trọng Nghĩa
ThS. Nguyễn Thế Vinh
ThS. Nguyễn Việt Anh
Việt Nam bước vào giai đoạn 2011-2012 trong bối cảnh nền kinh tế trong
nước đối mặt với nhiều thách thức to lớn. Lạm phát của thế giới có xu hướng
tăng lên, trong đó giá dầu thô, giá nguyên vật liệu cơ (bản đầu vào của sản xuất),
giá lương thực, và thực phẩm trên thế giới tăng cao.Trong khi đó, vào năm
2011, giá cả trong nước tăng cao, áp lực lạm phát ngày càng tăng lên do nhiều
nguyên nhân nội tại của nền kinh tế tích lũy từ trước đến nay và chính sách nới
lỏng tiền tệ để ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng trong thời gian 2008-
2010, làm tăng nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta.
Nghị quyết Hội nghị T.Ư 3 (khóa XI) tháng 10-2011 đã xác định giai
đoạn 2011-2015, ưu tiên hàng đầu của kinh tế Việt Nam là kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đi đôi với đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế.
Cùng với sự điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã đổi
mới quan điểm, điều chỉnh mục tiêu chính sách tiền tệ thực hiện các Nghị quyết
của Đảng và Quốc hội về phát triển kinh tế xã hội, tập trung kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, thể hiện rõ trong các nghị quyết
của Chính phủ 2011-2012
1
.
1Nghị quyết 01/2011/NQ-CP; Nghị quyết 11/2011/NQ-CP, ngày 24/2/2011; Nghị quyết 01/2012/NQ-CP; Nghị
quyết 13/2012/NQ-CP
1
NHNN đã ban hành các văn bản chỉ đạo


2
triển khai thực hiện CSTT,
điều hành nhất quán, kiên định theo các định hướng mục tiêu của Đảng, Quốc
hội, Chính phủ về kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh
tế vĩ mô và nhiệm vụ đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín
dụng(TCTD).
Về CSTT giai đoạn trước năm 2010 đã được đề cập trong nhiều công
trình, dự án nghiên cứu cụ thể.Vì vậy, trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi
chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề chủ yếu của CSTT trong năm 2011 và
2012.Những số liệu liên quan đến thời kỳ trước được sử dụng để phân tích, so
sánh để làm rõ hơn CSTT 2011-2012.
I. ĐỊNH HƯỚNG MỤC TIÊU VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
2011-2012
1. Mục tiêu hàng đầu của CSTT:
Thời kỳ 1997-2010, theo quy định của Luật NHNN 1997
3
, quy định rõ
quan điểm CSTT đa mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp
phần thúc đẩy kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống
xã hội.
Thời kỳ 2011-2012, Luật NHNN 2010
4
, có hiệu lực từ 1/1/2011, chỉ quy
định một mục tiêu của CSTT, đó là:ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ
tiêu lạm phát.
Theo luật NHNN 2010, thì mục tiêu cao nhất, mục tiêu cuối cùng của
CSTT của Việt Nam hiện nay là: Ổn định giá trị đồng tiền. Đây là sự đổi mới,
hoàn thiện đúng hướng của CSTT ở VN, theo hướng CSTT đơn mục tiêu, phù
hợp với các chuẩn mực quốc tế.
Nghiên cứu quá trình hoạch định và thực mục tiêu kiểm soátlạm phát thời

kỳ 2004-2012 cho thấy:
Bảng 1.Lạm phát: Mục tiêu và kết quả thực hiệngiai đoạn 2004-2012
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Mục tiêu <5 <6.5 <8 <8 <10 15 7-8 <7 <10
Thực
hiện 9.5 8.4 6.6 12.6 19.9 6.5 11.8 18.1 7*
2Chỉ thị 01/2011/CT-NHNN, ngày 4/3/2011; Chỉ thị 01/2012/CT-NHNN; Công văn 3739/NHNN ngày
20/6/2012 thực hiện NQ 13; Chỉ thị 06/2012/CT-NHNN ngày 9/11/2012
3
Điều 2, Luật NHNN số 06/1997/QH, ngày 12/12/1997
4
Điều 3, Luật NHNN số 46/2010/QH12
2
Nguồn: Tổng cục Thống kê, * Ước thực hiện
Đồ thị 1: Lạm phát: Mục tiêu và kết quả thực hiện giai đoạn 2004-2012
Chỉ tiêu lạm phát mục tiêu 2011 đặt ra với mức kỳ vọng cao hơn nhiều so
với thực tế, gây áp lực lớn cho điều hành CSTT và buộc phải sử dụng công cụ,
các biện pháp hành chính, ngắn hạn, gây sốc cho nền kinh tế.
Năm 2011 lạm phát mục tiêu đề ra <7 %/năm, thấp hơn nhiều so với mức
lạm phát thực tế bình quân của 3 năm trước đó 2008-2010 (12.73%). Điều này
cho thấykỳ vọng quá cao của chính phủ, muốn ổn định nhanh kinh tế vĩ mô. Do
vậy, NHNN bắt , buộc phải cắt giảm cung tiền và giảm tăng trưởng tín dụng đột
ngột, gây ra các hệ quả không như mong muốn: lãi suất cho vay và nợ xấu tăng
cao, thanh khoản của hệ thống Ngân hàng căng thẳng, thị trường chứng khoán
suy kiệt, thị trường bất động sản đóng băng, nhưng lạm phát thực tế vẫn ở mức
quá cao 18.13%. Nguyên nhân của mức lạm phát năm 2011 quá cao so với mục
tiêu đề ra (<7%) là do những hệ quả , tất yếucủa việc mở rộng cung tiền quá
mức và tăng trưởng tín dụng quá nóng trong giai đoạn trước đó và một phần
xuất phát từ việc điều hành CSTT thiếu chủ động;
Xét về phía tổng cầu, tính trung bình, cung tiền M2 và tín dụng

tăngkhoảng 31.17%/năm và 35.17% cho giai đoạn 2004-2010.Như vậy, trong
giai đoạn 2004-2010, tăng trưởng cung tiền M2 và tăng trưởng tín dụng của
Việt Nam là khá cao. Điều này sẽ dẫn đến những hệ lụy liên quan đến ổn định
vĩ mô và lạm phát cho những năm tiếp theo.
Xét từ phía điều hành CSTT:Trước tình hình lạm phát quý I/2011 ở mức
cao(bình quân hơn2%/tháng), ngày 24/2/2011 NQ 11/NQ-CP mới được ban
3
hành và ngày 1/3/2011, chỉ thị 01/CT-NHNN triển khai thực hiện NQ11 mới ra
đời., Như vậy, việc châm trễ trong thực thi chính sách và những độ trễ nhất định
trong điều hành chính sách cũng dẫn đến những ảnh hưởng nhất định tới lạm
phát.Nếu các Nghị quyết và chỉ thị nói trên được ban hành vào cuối năm 2010,
thì hiệu quả kiềm chế lạm phát năm 2011 chắc sẽ đạt được kết quả khả quan
hơn.
Chỉ tiêu lạm phát mục tiêu năm 2012 đặt ra < 10% là sự lựa chọn hợp lý
so với mức lạm phát thực tế các năm trước và thực trạng nền kinh tế.
Kết quả kiểm soát lạm phát 2012 ước đạt ở mức 7% là thành công bước
đầu.Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở mức thấp trong điều kiện nền kinh tế đang khó
khăn, tổng cầu suy giảm quá mức sẽ gây những khó khăn cho kinh tế vĩ mô.Nếu
tỷ lệ lạm phát 2012 ở mức 9% thì hiệu quả của CSTT đạt được sẽ cao hơn rất
nhiều.
Nhìn lạichỉ tiêulạm phát thực tế bình quân (2004-2012) là 11.16%/, lạm
phát mục tiêu bình quân 2004-2012 là 8.6%/năm và thực trạng nền kinh tế thì
mục tiêu kiểm soát lạm phát 2012 đề ra <10% là có cơ sở thực tiễn và quan điểm
chính sách phù hợp.
Mục tiêu lạm phát 2012 được Quốc hội đề ra <10%; đến cuối tháng
4/2012 Bộ chính trị đặt ra mục tiêu tiếp tục kiềm chế lạm phát năm 2012 ở
mức 8-9% là một quyết sách đúng đắn, nhạy bén, phù hợp với diễn biến
kinh tế vĩ mô
5
.

Việc điều hành tỷ lệ lạm phát 2012 đạt mức thấp, là tấm huân chương 2
mặt, trong đó có mặt hạn chế là: phải trả giá bằng giản thời gian điều chỉnh giá
một số hàng hóa và dịch vụ do Nhà nước định giá và kiểm soát giá (y tế, giáo
dục, nước sạch, xe buýt) theo chỉ thị 25/2012/CT-TTg ngày 26/9/2012 và chưa
hỗ trợ cải thiện được thực trạng tổng cầu nền kinh tế giảm, SXKD khó khăn,
thất nghiệp tăng.
Xu hướng lạm phát 2011-2012 là sự lặp lạivòng xoáy lạm phát từ 2004-
2012, theo chu kỳ 3 năm 1 lần: 2 năm tăng vọt lên và 1 năm giảm xuống sâu
đột ngột.
Điều này cho thấy, kết quả kiểm soát lạm phát chỉ mang tính thời điểm,
không ổn định và chưa vững chắc, các yếu tố gây nên lạm phát cao chưa giải
quyết được tận gốc rễ.
5Kết luận của Bộ chính trị tại cuộc họp ngày 26/4/2012
4
Giai đoạn 2004-2012, trong 9 năm, xẩy ra 3 vòng xoáy lạm phát lặp lại
cùng 1 xu hướng: 2004-2006: 9.5% , 8.4% và 6.6%; 2007-2009: 12.6% ,
19.9% và 6.5%; 2010-2012: 11.8%, 18.13% và 7%.
Đánh giá một cách khách quan, toàn diện cho thấy:Những nguyên nhân
chủ quan làm bùng phát lạm phát cao từ trước đến nay do bất cập trong điều
hành CSTT đã bộc lộ rõ và đã khắc phục ngày càng tốt hơn trong giai đoạn
2011-2012.
Đối với các nguyên nhân khách quan của nền kinh tế, gây áp lực tạo nên
lạm phát cao ở nước ta vẫn còn nguyên. Đó là những yếu tố gây nên áp lực lạm
phát chi phí đẩy của nền kinh tế như: xu thế giá cả hàng hóa thế giới ngày càng
tăng cao với một nền kinh tế có tỷ lệ nhập khẩu/GDP cao hơn 80%; sự tăng lên
của chi phí sản xuất do cơ cấu kinh tế, chất lượng tăng trưởng, quản lý kém hiệu
quả và yêu cầu phải điều chỉnh tăng tiền lương; sự tăng giá các mặt hàng chủ
chốt và dịch vụ thiết yếu do quá trình điều chỉnh giá bao cấp sang giá thị trường
của các hang hóa, dịch vụ Nhà nước quản lý và kiểm soát giá.
Như vậy, thách thức lớn nhất đối với vấn đề kiểm soát lạm phát và điều

hành CSTT của Việt Nam trong năm 2013 và những năm tới là từ các yếu tố gây
nên lạm phát chi phí đẩy chứ không phải nguy cơ từ các yếu tố cầu kéo và các
nguyên nhân khác.
Từ các phân tích nói trên, có thể rút ra một số quan điểm để xây
dựng và thực hiện có hiệu quả mục tiêu cao nhất của CSTT ở VN sau đây:
- Hoạch định mục tiêu kiểm soát lạm phát không thể xây dựng theo chỉ
tiêu hàng năm như hiện nay, mà phải được hoạch định trong cả thời kỳ trung và
dài hạn, chia ra từng năm, theo một lộ trình phù hợp với quá trình tái cơ cấu và
đổi mới mô hình tăng trưởng của nền kinh tế;lựa chọn tối ưu mục tiêu ngắn hạn,
trung và dài hạn.
- Kiểm soát chặt chẽ các yếu tố gây nên áp lực tăng tổng cầu quá mức,
ngăn ngừa tái lập nguy cơ lạm phát tiền tệ từ kênh tín dụng, tài khóa và
cung tiền.
- Điều hành không để xẩy ra việc tăng tổng cầu dồn dập, tập trung vào
một thời điểm, đặc biệt là điều chỉnh tăng tiền lương và các loại giá hàng hóa
dịch vụ từ giá bao cấp sang cơ chế giá thị trường, không làm cho giá cả bị
đẩy lên.
5
- Đối với những ngành kinh tế chưa đạt đến mức sản lượng tiềm năng, thì
việc kích cầu là một chính sách có hiệu quả, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Muốn kiểm soát được lạm phát mục tiêu trong những năm tới phải kiểm
soát được các yếu tố gây nên “lạm phát chi phí đẩy” và không thể nóng vội giải
quyết được mục tiêu lạm phát thấp ngay trong ngắn hạn.Quan điểm chính
sáchcần quán triệt tầm nhìn trung dài hạn, phù hợp với lộ trình điều chỉnh cơ
cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, điều chỉnh các loại giá hàng hóa
và dịch vụ do nhà nước quản lý giá sang cơ chế thị trường, nâng cao chất lượng tăng
trưởng, cải thiện hiệu quả quản lý đầu tư công và doanh nghiệp nhà nước.
Do đó, mục tiêu và giải pháp kiểm soát lạm phát phải gắn liền và đồng bộ
với các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế.Đặc biệt là phải xác định rõ
mức độ ưu tiên của các mục tiêu; kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và

hỗ trợ tăng trưởng.
2.Mục tiêu trung gian
Thực tế điều hành CSTT trong thời gian qua, NHNNVN đã lựa chọn biến
số “Tổng phương tiện thanh toán” và “Mức tăng trưởng Tín dụng” làm mục tiêu
trung gian của CSTT VN.
Hàng năm hoặc từng từng thời kỳ, NHNN trình Chính phủ phê duyệt và
ban hành các Nghị quyết chỉ đạo quan điểm, định hướng và các chỉ tiêu cụ thể
mức tăng cung tiền và mức tăng trưởng Tín dụng.Theo đó, mục tiêu trung gian
của CSTT 2011 là
6
:điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín
dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16%; và
mục tiêu trung gian của CSTT 2012 là
7
:kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng 15%
-17%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 14% -16%.
Bảng số 1.2. Diễn biến cung tiền và tăng trưởng tín dụng 2004-2012
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012*
M2

Mục tiêu 22 22 23-25 20-23 32 18-20 25 15-16 14-16
Thực hiện 30.4 29.6 33.6 46.1 20.3 29 33.3 12.4 17
Tín
dụng
Mục tiêu 25 25 18-20 17-21 30 21-23 25 20 15-17
Thực hiện 41.6 31.1 25.4 53.9 25.4 37.5 31.2 14.4 5.5
Nguồn: NHNN
*Ước thực hiện
Tổng phương tiện thanh toán
6 Nghị quyết 11/2011/NQ-CP

7 Nghị quyết 01/2012/NQ-CP
6
Từ trước đến nay, NHNN VN đã chọn biến số khối lượng tiền cung ứng
M2 để tính toán Tổng phương tiện thanh toán, dùng hoạch định và điều hành
mục tiêu trung gian của CSTT.
Nghiên cứu diễn biến chỉ tiêu cung tiền M2 của thời kỳ2011-2012 cho
thấy:
Kết quả điều hành M2 giai đoạn 2011-2012 theo xu hướng thực hiện sát
với mục tiêu đề ra hơn nhiều giai đoạn trước đó. Tuy nhiên, sự cắt giảm đột
ngột và với mức độ giảm lớn M2 so với thực hiện bình quân giai đoạn 2004-
2010, làm suy giảm nghiêm trọng tổng cầu của nền kinh tế, phát sinh thêm
những khó khăn cho kinh tế vĩ mô.
Xu hướng chênh lêch lớn giữa chỉ tiêu thực hiện với mục tiêu đề ra và
diễn ra liên tục, trong suốt cả thời kỳ dài từ 2004-2010, với mức tăng M2 bình
quân mục tiêu đề ra 24.14%/năm, thực hiện bình quân 31.17%, chênh lệch +
7.03 điểm %.
Mức chênh lệch của năm 2011 là +3.63% (mục tiêu 15-16%, thực hiện
12.37%) và mức thực hiện của 2012 được dự báo khoảng 16-17%, vượt mục
tiêu không đáng kể, giảm 50% mức cung tiền thực tế thực hiện bình quân
của 2004-2010.
Trong điều kiện nền kinh tế có tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt còn
lớn;thực trạng đô la hóa, vàng hóa và thị trường tiền tệ phi chính thức vẫn chưa
kiểm soát hết;dẫn đến cơ sở tính toán, dự báo chỉ tiêu tổng phương tiện thanh
toán M2 còn nhiều bất cập. Do vậy sẽ ảnh hưởng đến sự tính toán, hoạch định
các mục tiêu giữa cung tiền với lạm phát và lạm phát với tăng trưởng kinh tế rất
khó chính xác.
Theo lý thuyết kinh tế vĩ mô, tổng phương tiện thanh toán là khối lượng
tiền có trong lưu thông bao gồm tất cả các phương tiện được chấp nhận làm
trung gian thanh toán để , trao đổi hàng hóa và , dịch vụ trên thị trường và khối
lượng tiền trong lưu thông (Ms) bao gồm các yếu tố :

Ms = M3 + Các phương tiện thanh toán khác = M2 + Tiền trên các chứng
từ có giá (thương phiếu, trái phiếu, tín phiếu, cổ phiếu và các trái khoán khác) +
Các phương tiện thanh toán khác(giấy chấp nhận thanh toán của Ngân hàng, )
Nếu chỉ tiêu tổng phương tiện thanh toán mà chỉ thống kê, tính toán
được trong phạm vi M2 thì còn một khối lượng rất lớn các phương tiện
7
thanh toán chưa được tính đến như: tiền trên các chứng từ có giá(trái
phiếu, tín phiếu, cổ phiếu, ) và tiền trên các phương tiện thanh toán khác.
Mặt khác, phân tích cơ cấu các yếu tố cấu thành của M2 ta thấy rằng:
M2 = M1(tiền mặt, vàng, tiền đúc lẻ, tiền gửi không kỳ hạn tại TCTD)
+Tiền gửi có kỳ hạn VND tại TCTD + Tiền gửi ngoại tệ của cá nhân và tổ chức
tại TCTD
Như vậy, trong cơ cấu của M2, còn rất nhiều yếu tố biến động, ảnh
hưởng làm thay đổi M2 rất khó có thể tính toán và dự báo chính xác được
như: Dự trữ tiền mặt vượt mức nằm trong các TCTD;sự thay đổi tiền gửi ngoại
tệ của tổ chức và dân cư; sự thay đổi tài sản có ngoại tệ ròng của các TCTD;
vàng và ngoại tệ trong dân cư; tiền mặt và tiền gửi khách hàng tại các công ty
chứng khoán; công ty quản lý quỹ; tiền mặt trong hệ thống công ty bảo hiểm;
tiền gửi và tiền mặt trong hệ thống kho bạc Nhà nước;…
Kiểm soát lạm phát là mục tiêu cao nhất của CSTT và vấn đề cơ bản để
ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng. Muốn nâng cao hiệu quả tác động
truyền dẫn của mục tiêu trung gian đến mục tiêu cao nhất là kiểm soát lạm phát,
cần phải nghiên cứu hoàn thiện phương pháp tính toán, dự báo chỉ tiêu tổng
phương tiện thanh toán và biến số M2, đảm bảo chính xác và đầy đủ các yếu tố
hơn.
Tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế:
NHNN VN sử dụng chỉ tiêu Mức tăng trưởng tín dụng làm mục tiêu
trung gian của CSTT, để tác động trực tiếp đến mục tiêu kiểm soát lạm phát và
hỗ trợ tăng trưởng
Trong thời gian qua, NHNN điều hành chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng theo

cơ chế: đưa ra chỉ tiêu định hướng tăng trưởng tín dụng từng năm chung cho
toàn hệ thống(thời kỳ trước 2011) và giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng
TCTD theo phân loại các TCTD theo 3 nhóm (2012).
Nghiên cứu mục tiêu và thực hiện tăng trưởng tín dụng của giai đoạn
2011- 2012 cho thấy:
Mục tiêu tăng trưởng tín dụng bình quân 2004-2010 là 24.14%/năm, thực
hiện bình quân 35.17%/năm; mức chênh lệch theo số tuyết đối bình quân thực
hiện cao hơn mục tiêu là:+ 11.03%
8
Như vậy, mục tiêu định hướng tăng trưởng tín dụng 2011-2012 là sự điều
chỉnh hợp lý với mục tiêu kiểm soát lạm phát và tái cơ cấu hệ thống TCTD.Tuy
vậy, kết quả thực hiện2 năm liên tục thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra, làm
suy kiệt tín dụng, tác động bất lợi cho nền kinh tế và ảnh hưởng đếnmục tiêu
tăng trưởng cho các năm sau.
Mức tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế 2011 + 14.41%, thấp hơn
-5% so với mục tiêu 20% và giảm gần 60% so với chỉ tiêu thực hiện bình quân
2004-2010(35.17%)
Mức tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế 2012 ước đạt 5, 5%, giảm
-68% so với mục tiêu(15-17%), giảm -84.4%% so với mức tăng trưởng Tín
dụng thực tế bình quân 2004-2010 (35.17%); giảm – 62%% so với thực hiện
2011.
- Xu hướng suy giảm tín dụng quá mức có nguyên nhân của điều hành
CSTT và khó khăn từ nền kinh tế:
Về điều hành CSTT: lãi suất cho vay còn quá cao so với hiệu quả kỳ vọng
SX-KD của khách hàng, chậm được điều chỉnh theo diễn biến CPI, cơ chế lãi
suất chủ yếu dựa vào diễn biến của CPI chứ chưa căn cứ vào cung cầu vốn tín
dụng trên thị trường.
Thực tế cho thấy, 6 tháng cuối năm 2012, trừ một số ngân hàng trong
danh sách phải tái cơ cấu, còn lại các Ngân hàng đều thừa vốn không cho vay
được, nhưng các NHTM không điều chỉnh giảm lãi suất cho vay theo cung cầu

vốn tín dụng. Đây là điều bất bình thường trong hoạt động kinh doanh tiền tệ-tín
dụng trong cơ chế thị trường.
Về khó khăn từ nền kinh tế: khả năng hấp thụ vốn tín dụng của nền kinh
tế bị suy giảm mạnh; điều kiện tiếp cận vay vốn của khách hang khó khăn hơn
do rủi ro thị trường tăng lên, phương án kinh doanh không khả thi, giá trị tài sản
thế chấp sụt giảm nghiêm trọng
- Kiểm soát chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng mang tính hành chính, hình
thức;chưa đi đôi với biện pháp nâng caochất lượng tăng trưởng và hiệu quả tín
dụng, là nguồn gốc gây nên rủi ro và bất ổn của hệ thống TCTD hiện nay.
Nhìn lại chỉ tiêu thực hiện 2004-2012 chưa khi nào đạt được mục tiêu đề
ra, hiệu lực chấp hành thấp, cơ chế điều hành chưa xử lýđược tình trạng vượt
quá cao hoặc không đạt mức mục tiêu định hướng. Do đó, chỉ tiêu đề ra mang
9
tính hình thức, tác dụng rất hạn chế.Mặt khác, cơ sở khoa học và phương pháp
xác định hạn mức tăng trưởng tín dụng hàng năm còn có những vấn đề bất cập,
mang nặng tính hành chính.
Các quyết định hành chính về chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng không đi đôi
với cơ chế kiểm soát chất lượng hiệu quả tín dụng.Vì vậy, nguồn vốn tín dụng
đã bị phân bổ quá mức vào một số lĩnh vực đầu cơ(bao gồm: chứng khoán, bất
động sản), hoặc các lĩnh vực rủi ro cao, các lĩnh vực không có hiệu quả, làm
cho tỷ lệ nợ xấu cao và tăng nhanh; thanh khoản căng thẳng; Đólà nguyên nhân
chính làm gia tăng mức độ rủi ro bất ổn của hệ thống TCTD hiện nay cơ bảnvẫn
chưa giải quyết được.
Việc kiểm soát hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế của VN có vai trò rất
quan trọng để hỗ trợ tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô.Để nâng cao hiệu quả
điều hành CSTT, cần tập trung hoàn thiện, đổi mới các giải pháp, công cụ điều
hành theo hướng: Bổ sung sửa đổi cơ chế tín dung, cơ chế lãi suất đảm bảo tăng
trưởng về khối lượng đi đôi với nâng cao chất lượng; tăng cường kiểm tra giám
sát thực hiện, thắt chặt kỷ cương chấp hành của các TCTD.
II. ĐIỀU HÀNH CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ2011- 2012

Công cụ của CSTT là hệ thống các biện pháp mà NHNN có thể sử dụng
để điều chỉnh, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới mức cung cầu tiền tệ, nhằm
đạt được mục tiêu cao nhất của CSTT đã đề ra.
Theo quy định của luật NHNN 2010, Thống đốcNHNN có quyền quyết
định lựa chọn sử dụng công cụ điều hành chính sách tiền tệ để thực hiện các
mục tiêu của chính sách tiền tệ đã được Chính phủ đề ra.
Việc sử dụng công cụ chính sách tiền tệ chỉ phát huy được hiệu quả khi
nó tạo ra được cơ chế truyền dẫn tác động dây chuyền từ công cụ chính sách tiền
tệ tác động đến mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian, mục tiêu cuối cùng của
chính sách tiền tệ.
Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ đã được NHNN sử dụng chủ yếu
trong thời gian qua bao gồm: lãi suất, tái cấp vốn, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt
buộc, nghiệp vụ thị trường mở, kiểm soát hạn mức tín dụng,
1. Công cụ lãi suất
Lãi suất là một trong những công cụ gián tiếp để điều hành CSTT, NHN
thông qua công cụ này để điều khiển mức cung tiền cho nền kinh tế, nhằm đạt
được mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền của quốc gia.
10
Chính sách, cơ chế điều hành lãi suấtcủa NHNN được định hướng theo
nguyên tắc đảm bảo các mục tiêu của CSTT:kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.
Theo cơ chế điều hành lãi suất hiện nay, NHNN trực tiếp quyết định các
mức lãi suất như: Lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi
suất OMO, trần lãi suất huy động ngắn hạn và trần lãi suất cho vay ngắn hạn
thuộc4 đối tượng ưu tiên đối với nền kinh tế của các TCTD.Các TCTD được
quy định lãi suất thỏa thuận đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên; lãi
suất cho vay ngắn hạn đối với các đối tượng khác ngoài 4 đối tượng ưu tiên;lãi
suất cho vay trung dài hạn cho tất cả các đối tượng khách hang.
Một số chuyển biến tích cực của cơ chế điều hành lãi suất 2011-2012:
Cơ chế điều hành các loại lãi suất năm 2012đượcđiều chỉnh linh hoạt, hợp lý và

đồng bộ hơn so với 2011, phát huy đượcvai trò Ngân hàng trung ương là người
cho vay cuối cùng.
Từ tháng 6/2011 đến nay, các lãi suất chủ chốt của NHNN được điều
hành theo cơ chế: “trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất chiết khấu,
biên độ giao động +/- 2% để điều tiết thị trường, lãi suất cơ bản và lãi suất thị
trường mở được ấn định biến động trong biên độ giữa lãi suất tái cấp vốn(trần)
và lãi suất chiết khấu(sàn).
Các lãi suất điều hành của NHNN và lãi suất huy động vốn của
NHTMđược điều chỉnh giảm xuống theo xu hướng giảm thấp của CPI (3/2012-
10/2012), đảm bảo nguyên tắc thực dương, nguồn vốn huy động 10 tháng tăng
+14.2%, thanh khoản của hệ thống Ngân hành được cải thiện bằng nguồn vốn
hút vào từ nền kinh tế chứ không phải từ nguồn tái cấp vốn như năm 2011.
Từ tháng 6/2011-10/2012:Mối quan hệ giữa các loại lãi suất được điều
chỉnh hợp lý hơn thời kỳ trước đó, theo nguyên tắc: Lãi suất tái chiết khấu< lãi
suất huy động vốn dưới 12 tháng < lãi suất tái cấp vốn; “sàn” là lãi suất tái chiết
khấu; “Trần” là lãi suất tái cấp vốn; Biên độ 1-2%, lãi suất huy động vốn của
TCTD biến động trong biên độ nói trên.
Sự đổi mới cơ chế lãi suất lãi suất nói trên đã khuyến khích các TCTD
huy động vốn từ nền kinh tế, hạn chế vay vốn từ NHNN, không còn cơ hội cho
các TCTD lợi dụng vay tái cấp vốn của NHNN để cho vay lại trên thị trường
liên ngân hàng với lãi suất cao để hưởng chênh lệch lãi suất lớn.
11
Lãi suất huy động và cho vay của TCTD 2012 giảm hơn nhiều so với
2011, đặc biệt là chính sách cho vay lãi suất thấp hơn các đối tượng khác đối
với 4 đối tượng sản xuất kinh doanh được ưu tiên, là quyết định đúng đắn, kịp
thời;tác động tích cực đến giảm chi phí vay vốn cho doanh nghiệp, hỗ trợ mục
tiêu tăng trưởng.
So với cuối năm 2011, lãi suất tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng giảm
được 6%/năm(14%/năm xuống 8%/năm), lãi suất cho vay 4 đối tương ưu đãi
giảm được 4%-5%/năm (16-17%/năm xuống 12%/năm). Hiện nay, lãi suất cho

vay phổ biến đối với 4 lĩnh vực ưu tiên: nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu,
doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ ở mức 11-12%/năm; cho vay
lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác ở mức 14-17%/năm. Đặc biệt, lãi suất liên
ngân hàng giảm mạnh 8-9%/năm so với đầu năm 2012, thị trường tiền tệ đã có
sự cải thiện tích cực hơn nhiều so với năm 2011
Cơ chếlãi suất thỏa thuận đối với lãi suất huy động vốn trên 12 tháng và
lãi suất cho vay trung dài hạn là bước đi phù hợp, tạo điều kiện cho các NHTM
hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thương mại và thị trường.
Cơ chế lãi suất huy động lãi suất thỏa thuận được thực hiện theo Thông
tư 19/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012: “Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở
lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung cầu vốn thị trường”.
Lãi suất cho vay thỏa thuận được thực hiện từ 14/4/2010 theo Thông tư số
12/2010/TT-NHNN vàthông tư 14/2012/TT-NHNN từ ngày 4/5/2012. Đối với
các khoản cho vay ngoài 4 lĩnh vực ưu tiên TCTD cho vay theo lãi suất
thỏa thuận.
Đồ thị 2: CPI và các loại lãi suất
12
Một số vấn đề cần nghiên cứu hoàn thiện trong cơ chế điều hành lãi suất
2011-2012 :
Duy trì quá lâu cơ chế điều hành trực tiếp lãi suất lãi suất huy động vốn
và cho vay của các TCTD, làm cho các mức lãi suất kinh doanh của TCTD
không phù hợp với cung cầu vốn tín dụng trên thị trường và giảm tác dụng của
các công cụ lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất OMO, công cụ dự
trữ bắt buộc.
NHNN có nhiều giải pháp và công cụ gián tiếp để tác động điều chỉnh lãi
suất kinh doanh của các TCTD. Cụ thể, khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh
của các TCTD đối với nền kinh tế, NHNN sẽ thực hiện thông qua việc điều
chỉnh các mức lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu đối với TCTD.Từ đó tác động
đến lãi suất thị trường liên ngân hàng.Cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh
doanh của các TCTD đối với khách hàng.Nếu NHNN trực tiếp quyết định cả

mức lãi suất cho vay và huy động vốn của các TCTD thì công cụ lãi suất điều
hành của NHNN sẽ không phát huy hết tác dụng.
Trên thực tế, trong suốt thời kỳ 2011-2012, NHNN quyết định trực tiếp
các mức lãi lãi suất huy động cho vay của TCTD đối với khách hang đối với
từng kỳ hạn và đối tượng khách hàng(trừ lãi suất huy động trên 12 tháng theo
Thông tư 19/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012 và lãi suất cho vay thỏa thuận theo
Thông tư số 12/2010/TT-NHNN và Thông tư 14/2012/TT-NHNN ngày
4/5/2012);Cơ chế điều hành trực tiếp quyết các mức lãi suất kinh doanh của các
TCTD đã làm vô hiệu hóa các mức lãi suất điều hành chủ chốt của NHNN( lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu)
Lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam theo quy định pháp luật hiện hành là
lãi suất thực hiện vai trò định hướng thị trường tiền tệ, nhưnghiện nay chỉ mang
tính hình thức, chưa trở thành lãi suất cơ sở, chuẩn mực để định hướng cho các
loại lãi suất khác trên thị trường.Vì thế làm tăng rủi ro pháp lý trong hoạt động
kinh doanh tiền tệ tín dụng và các quan hệ dân sự khi có phát sinh tố tụng.
Luật dân sự 2005 quy định các TCTD không được phép huy động và cho
vay với lãi suất cao hơn 150% mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Luật
NHNN số 46/2010/QH12 “Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn,
lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống
cho vay nặng lãi”.
13
Trên thực tế, lãi suất cơ bản hiện nay là lãi suất mang tính hình thức,
không có cơ sở kinh tế và không liên quan đến bất kỳ quan hệ cung cầu vốn trên
các thị trường.
Vai trò đinh hướng và tác động của các loại lãi suất điều hành của
NHNN (lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, OMO) đến lãi suất thị trường rất
hạn chế.Một trong những nguyên nhân chủ yều là phương pháp xác định các
loại lãi suất trên còn bất cập, không dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản là lãi suất
chuẩn; cơ chế điều hành cụ thể các loại lãi suất chưa được ban hành rõ ràng.
Thực tế trong thời gian qua, NHNN chưa ban hành được cơ chế điều hành

và phương pháp xác định cụ thể từng loại lãi suất trên. Khi quyết định các loạilãi
suất chủ yếu dựa vào diễn biến số liệu báo cáo thực hiện chỉ số CPI, các chỉ số
kinh tế vĩ mô tháng trước và quan điểm chỉ đạo điều hành mục tiêu CSTTcủa
Chính phủ, thiếu các thông tin, phân tích dự báo thị trường về cung cầu, số
lượng giao dịch, lãi suất, ; Do đó các lãi suất được điều hành không sát với
cung cầu tiền tệ và lãi suất thực trên thị trường, hạn chế tác dụng điều tiết của
các công cụ lãi suất.
Sự điều chỉnh các mức lãi suất chưatheo sát kịp với diễn biến hàng tháng
của chỉ số CPI cả về biên độ và xu hướng, làm giảm hiệu quả và tác dụng của
công cụ lãi suất.
Phân tích diễn biến CPI và các mức lãi suất thời kỳ 2011-2012 có thể
thấy: đường biến thiên của các loại lãi suất và chỉ số CPI chỉ có 4 tháng là cùng
xu hướng(2/2012-6/2012)còn lại là lệch pha với biên độ chênh lệch quá lớn,
nên hiệu quả tác động đến dự trữR của các TCTD và M2 không đáng kể.
- Phân tích biến động lãi suất tái cấp vốn với CPI (2011-2012):
Trong giai đoạn 2011-2012, NHNN có 6 lần điều chỉnh lãi suất (%/năm)
theo xu hướng tăng liên tục(1/2011-2/2012): 9%, 11%, 12%, 13%, 14%, 15%;
có 4 lần điều chỉnh giảm liên tục (3/2012-10/2012): 14%, 13%, 12%, 11%, 10%
nhằm thực hiện mục tiêu…
Nhưng do các biên độ mỗi lần điều chỉnh quá hẹp, xu hướng điều chỉnh
rất hiếm khi phù hợp với xu hướng biến động của CPI nên tác động lên cung
tiền và lãi suất thị trường tiền tệ rất kém hiệu lực.
14
Đồ thị 3: CPI và lãi suất tái cấp vốn
- Phân tích sự biến động của lãi suât tái chiết khấu và CPI.
Đồ thị 4: CPI và lãi suất tái chiết khấu
15
-Phân tích sự biến động của lãi suất OMO với CPI
Đồ thị 5: CPI và lãi suất OMO
-Phân tích biến động của Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện

tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ
Đồ thị 6: CPI và lãi suất qua đêm
Duy trì quá lâucơ chế cố định “trần” lãi suất huy động và “thả nổi” lãi
suất cho vay thỏa thuận, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các TCTD đẩy lãi suất
cho vay lên tối đa, làm tăng rủi ro tài sản có và nợ xấu của cả hệ thống NHTM
và các TCTD khác.
16
Từ tháng 1/2011-4/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động cố
định theo xu hướng giảm dần (14%/năm, 13%/năm, 12%/năm, 11%/năm) và lãi
suất cho vay thỏa thuận ở tất cả các đối tượng và kỳ hạn vay vốn của
khách hàng.
Tháng 5/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động (11%/năm) và
“trần” lãi suất cho vay ngắn hạn theo biên độ (lãi suất cho vay = lãi suất huy
động + 3%/năm) với 4 đối tượng cho vay ưu tiên, còn các đối tượng cho vay
khác và cho vay trung dài hạn đều lãi suất thỏa thuận.
Từ tháng 6/2012- nay, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động cố định
(9%/năm) và “trần” lãi suất cho vay cố định(13%/năm) với 4 đối tượng sản xuất
kinh doanh ưu tiên còn các đối tượng khác đều cho vay theo lãi suất thỏa thuận
Trong điều kiện kinh tế khó khăn, lợi nhuận của hầu hết các doanh nghiệp
rất khí có thể cao hơm lãi suất cho vay thỏa thuận của các TCTD. Với cơ chế lãi
suất cho vay thỏa thuận các khách hàng tốt không dám vay vốn, còn các khách
hàng chấp nhận được lãi suất cao là những khách hàng đang thực sự khó khăn
về tài chính, hoặc có nhu cầu tài trợ cho những dự án có rủi ro rất cao.Vì vậy cơ
chế lãi suất thỏa thuận chỉ mang lại lợi ích trước mắt cho TCTD, nhưng lại tăng
thêm các rủi ro do lựa chọn khách hàng, rủi ro tín dụng, tăng nguy cơ tiềm ẩn
nợ xấu, tạo ra một danh mục tài sản có rủi ro cao.
Cố định mức lãi suất trầnhuy động vốn trong thời gian quá dài(trong suốt
12 tháng từ 3/2011-2/2012)trong khi CPI đã giảm mạnh và liên tục từ tháng
6/2011-12/2011, làm tăng áp lực thanh khoản của hệ thống, tăng thêm các rủi
ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản, rủi ro đạo đức trong hệ thống Tài chính - Ngân

hàng.
Nhìn vào đồ thị biểu thị quan hệ giữa CPI và lãi suất huy động vốn của
các TCTD dễ thấy rằng, : đường lãi suất gần như đi ngang trong khi đường CPI
biến động lên xuống hình sin với biên độ rất lớn và chu kỳ dài.
Hậu quả của cơ chế điều hành này đã gây thiệt hại cho người gửi tiền(7
tháng liên tục lãi suất tiền gửi ở mức thực âm); các NHTM phá rào trần lãi suất
huy động vốn bằng mọi cách (hoa hồng, chi tiền mặt ngoài sổ sách, nhận ủy
thác đầu tư trá hình, ) thanh khoản căng thẳng, thị trường tiền tệ, thị trường liên
Ngân hang đua nhau cạnh tranh lãi suất “ngầm”.
17
Trong suốt 12 tháng liên tục từ tháng 3/2011-2/2012, mức lãi suất “trần”
huy động vốn của các TCTD vẫn cố định 1, 17%/tháng(14%/năm).Trong khi
CPI biến động liên tục hàng tháng với biên độ lớn và xu thế giảm rõ rệt lần lượt
là:2.25%;3.53%;2.43%;1.22%;1.32%;1.07%;0.95%;0.42%;0.45%;0.63%;1.00%
; 1.37%.Kết quả là rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản của các TCTD tăng lên do
tiền gửi huy động được của các NHTM chủ yếu là không kỳ hạn và tiền gửi có
kỳ hạn 1-2 tháng, tiền gửi từ 3 -12 tháng chiểm tỷ lệ rất ít;tiền gửi trung dài hạn
trên 12 tháng không thể huy động được.
Đồ thị 8: CPI và lãi suất huy động
2. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Theo quy định của Luật NHNN 2010, dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ
chức tín dụng phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước để thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia.Ngân hàng Nhà nước quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại
hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi tại tổ chức tín dụng nhằm thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia.
Cơ chế điều hành tỷ lệ dự trữ bắt buộctheo Quyết định số 379/QĐ-NHNN
áp dụng từ ngày 24/2/2009 (đối với VND) và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp
dụng từ 01/2/2010 (đối với ngoại tệ), thông tư 20/2010/TT-NHNN ngày
29/9/2010.
Theo cơ chế nói trên, chính sách dự trữ bắt buộc được căn cứ vào tính

chất kỳ hạn tiền gửi(ngắn, trung, dài hạn), loại tiền gửi(VND và ngoại tệ) và ưu
tiên đối tượng cho vay nông nghiệp, nông thôn.
18
Đối với TCTD có tỷ trọng dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp nông
thôn trên tổng dư nợ bình quân cuối các quý trong năm tài chính liền kề từ 40%
đến dưới 70% và trên 70%: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng đồng
Việt Nam bằng 1/5 (một phần năm) và 1/20 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông
thường tương ứng với từng kỳ hạn tiền gửi.
Từ năm 2009 -2012, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các TCTD đối với tiền gửi
VND cố định 3% và không thay đổi.
Một số vấn đề hạn chế về sử dụng công cụ tỷ lệ dự trữbắt buộc trong
giai đoạn 2011-2012 :
NHNN cố định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND trong suốt thời
gian dài từ 2009-2012 trong cả quá trình lạm phát cao năm 2011 và xu hướng
thiểu phát 6 tháng 2012.Công cụ tỷ lệ DTBB không phát huy tác dụng điều
chỉnh nguồn vốn thanh toán và cho vay của TCTD.Vì vậyhạn chế vai trò, tác
dụng của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong việc điều chỉnh lãi suất cho vay, lượng tiền
cung ứng và hệ số tạo tiền của hệ thống TCTD.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là công cụ có tác động rất mạnh đến khối lương tiền
cung ứng trong lưu thông theo cấp số nhân, là công cụ kiểm soát lạm phát có
hiệu quả nhất, nhưng NHNNkhông tăng hoặc giảm tỷ lệ trong suốt thời gian
dài, trong bối cảnh lạm phát cao(2011) và xu hướng thiểu phát(6 tháng đấu năm
2012), nên không phát huy được vai trò và tác dụng của công cụ này để thực
hiện mục tiêu chính sách tiền tệ.
Để phát huy được vai trò và tác dụng của công cụdự trữ bắt buộc phải
điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc để tác động đến cả khối lượng và lãi suất cho
vay tín dụng của các NHTM, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và
khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM theo mục tiêu của chính sách tiền tệ trong
từng thời kỳ.
Trong giai đoạn lãi suất cho vay còn ở mức cao như thời gian vừa qua,

nếu tăng tỷ lệ DTBB sẽ tăng chi phí đầu vào của nguồn vốn cho vay làm tăng lãi
suất cho vay của các TCTD, nhưng NHNN có thể tăng lãi suất tiền gửi DTBB
lên một mức hợp lý để bù đắp chi phí huy động vốn cho các TCTD, giảm áp lực
tăng lãi suất cho vay.
Chính sách dự trữ bắt buộc áp dụng một mức chung cho tất cả các
NHTM, không căn cứ vào quy mô vốn và tài sản, chất lượng hoạt động và mức
19
độ an toàn của từng ngân hàng, chưa phù hợp với quy mô và trình độ phát triển
không đồng đều của các NHTM VN, làm cho công cụ dự trữ bắt buộc hoàn toàn
trở thành vô tác dụng.
Đặc điểm quan trọng của hệ thống NHTM của VN là trình độ phát triển
không đồng đều về lịch sử phát triển, quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô tài sản,
chất lượng hoạt động và mức độ an toàn . Trong đó nhóm 4 NHTM cổ phần Nhà
nước và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) có kinh
nghiệm hoạt động kinh doanh 24 năm và chiếm khoảng gần 50% thị phần trên
mọi lĩnh vực hoạt động, nhóm G12 (12 ngân hàng TMCP lớn nhất) chiếm thị
phần khoảng 80-85%, nhóm 13 NHTMCP tư nhân, quy mô vốn rất nhỏ bé, mức
độ an toàn hoạt động rất thấp, mới chuyển đổi từ Hợp tác xã tín dụng và Ngân
hàng Nông thôn lên từ những năm 2002-2006.
Theo quan điểm của một số chuyên gia và NHNN, thời gian qua, do hệ
thống ngân hàng thiếu thanh khoản nên nếu Ngân hàng Nhà nước tăng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc thì sẽ gây khó khăn cho nền kinh tế.
Quan điểm trên rất đúng với nhóm 13 NHTM cổ phần nông thôn mới
chuyển đổi thành NHTM triền miên khó khăn thanh khoản. Nhưng đối với
nhóm G12, gồm 12 NHTM chiếm gần 80-85% thị phần không phải là các
NHTM thiếu thanh khoản, thậm nhiều NHTM thừa tiền đi gửi vào các TCTD
khác.Mặt khác, trong suốt thời gian quá dài 2009- 2012, hệ thống NHTM không
phải thiếu thanh khoản liên tục.Vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung
hoàn thiện cơ chế điều hành công cụ dự trữ bắt buộc, để phát huy hiệu quả cao
hơn.

3. Tái cấp vốn
Theo quy định hiện hành, NHNN sử dụng công cụ Tái cấp vốn để cấp tín
dụng cho các TCTD theo các hình thức: cho vay có đảm bảo bằng giấy tờ có giá,
chiết khấu giấy tờ có giá và cho vay lại hồ sơ tín dụng, nhằm mục đích: cung
ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước đã ban hành được hệ thống các văn bản pháp lý đầy
đủ và đồng bộ về chính sách, cơ chế nghiệp vụ tái cấp vốn phù hợp với các quy
20
định của pháp luật hiện hành, làm cơ sở để điều hành của NHNN và thực hiện
đối với các TCTD
8
.
Thông qua các hình thứctái cấp vốn:cho vay đảm bảo giấy tờ có giá, chiết
khấu giấy tờ có giá và cho vay lại hồ sơ tín dụng, công cụ tái cấp vốn của
NHNN đãphát huy được vai trò chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề rủi ro thanh
khoản cho các NHTM trong thời gian qua.
Tuy vậy, cơ chế sử dụng công cụ tái cấp vốn hiện hành của NHNN vẫn
còn một số vấn đề cần nghiên cứu bổ sung hoàn thiện sau đây:
Trong thời gian qua, công cụ tái cấp vốn chưa đủ tiềm lực vốn và điều
kiện để phát huy hiệu quả, vai trò cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh
toán cho các TCTD, chưa tác động được nhiều đến cung cầu vốn và các loại lãi
suất trên thị trường.
Nguyên nhân chủ yếu do nguồn vốn cho vay hạn hẹp, NHNN chỉ được
cho vay tái cấp vốn trong một giới hạn nhất định, nằm trong hạn mức tăng tổng
phương tiện thanh toán M2 đã được Chính phủ duyệt hàng năm;nhiều TCTD
cần vay nhưng không điều kiện được vay tái cấp vốn; một số TCTD đủ điều
kiện vay vốn nhưng không có nhu cầu vay. Do đó, doanh số cho vay và dư nợ
tái cấp vốn đối với các TCTD không lớn;mức độ tác động tới lãi suất và cung
cầu vốn trên thị trường hạn chế.
Trong điều kiện lạm phát đang bùng phát cao từ 1/2011- 2/2012, việc lựa

chọn sử dụng công cụ tái cấp vốn tuy giải quyết được khó khăn thanh khoảncho
một số TCTD, nhưnglàm tăng thêm tiền cung ứng trong lưu thông, gây áp lực
thêm cho mục tiêu kiểm soát lạm phát.
Công cụ tái cấp vốn chỉ phát huy hiệu quả cao trong điều kiện lạm phát
bình thường và mục đích cho vay nhằm giải quyết khó khăn chi trả có tính chất
tạm thời. Đối với các trường hợp mất thanh khoản có nguyên nhân từ rủi ro cơ
cấu kỳ hạn nguồn vốn và sử dụng, chất lượng tài sản sản thấp, nợ xấu cao như
các TCTD nông thôn mới chuyển đổi thành NHTM không phải là sự mất thanh
khoản có tính tạm thời và phải giải quyết bằng biện pháp tái cơ cấu tài chính, tái
cơ cấu tài sản nợ, tài sản có mới đúng bản chất.
8[Thông tư số 17/2011/TT-NHNN ngày 18/8/2011 quy định cho vay có bảo đảm giấy tờ có giá;Thông tư số
37/2011/TT-NHNN ngày 12/12/2011 bổ sung sửa đổi Thông tư 17/2011/TT-NHNN; Thông tư số 01/2012/TT-
NHNN ngày 16/2/2012 chiết khấu giấy tờ có giá đối với các TCTD; Thông tư số 15/2012/TT-NHNN ngày
4/5/2012 tái cấp vốn dưới hình thức cho vay lại hồ sơ tín dụng đối với các TCTD.]
21
Trong điều kiện lạm phát cao và thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ,
nếu sử dụng công cụ tái cấp vốn đểbơm vốn một cách thường xuyên nhằm giải
quyết khó khăn thanh khoản triền miên cho các NHTM sẽ , không phải là sự lựa
chọn hợp lý .
Mức lãi suất tái cấp vốn giai đoạn 1/2011-3/2012 thấp hơn nhiều so với
lãi suất cho vay thỏa thuận của các TCTD và lãi suất thị trường, tạo cơ hội cho
một số TCTD có điều kiện vay được nguồn vốn giá rẻ từ nguồn tái cấp vốn có
hiệu quả hơn huy động vốn từ dân cư và làm gia tăngrủi ro đầu tư tiền gửi trên
thị trường tiền tệ.
Giai đoạn từ tháng 1/2011-3/2012, các lãi suất tái cấp vốn giao động từ 7-
15%/năm, có những thời điểm
9
lãi suất cho vay thỏa thuận các ngân hàng vay
nhau trên thị trường liên ngân hàng 25-30%/năm, NHTM cho doanh nghiệp vay
vốn với lãi suất thỏa thuận 22-25% năm.Chênh lệch 2 loại lãi suất quá lớn sẽ tạo

ra cơ hội phát triển các hoạt động kinh doanh chênh lệch lãi suất trên thị trường
tiền tệ dưới nhiều hình thức đầu tư tiền gửi khác nhau, làm bất ổn thêm thị
trường tiền tệ.
Với mức chênh lệch cao giữa lãi suất cho vay thỏa thuận của các TCTD
với khách hàng và lãi suất cho vay thỏa thuận giữa các TCTD với nhau so với
lãi suất tái cấp vốn như trên, sẽ tạo ra những cơ hội cho một số TCTD tìm mọi
cách để vay tái chiết khấu có lợi hơn huy động vốn từ nền kinh tế, hoặc để cho
vay lại trên thị trường với lãi suất cao để hưởng chênh lệch lãi suất.
4. Nghiệp vụ thị trường mở (OMO)
Trong thời gian 2011-2012, NHNN điều hành công cụ Nghiệp vụ Thị
trường mở theoQuy chế nghiệp vụ thị trường mở ban hành kèm theo Quyết định
số 01/2007/QĐ- NHNN và Quyết định 27/2008/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung QĐ
01/2007/QĐ-NHNN.
Theo quy chế trên, Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường
mở thông qua việc mua, bán giấy tờ có giá đối với tổ chức tín dụng. Các loại
giấy tờ có giá được phép giao dịch thông qua nghiệp vụ thị trường mở hiện nay
là:Tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu
địa phương do UBND thành phố Hà nội, UBNN thành phố Hồ Chí Minh phát
hành.
9Thống đốc NHNN trả lời chất vấn đại biểu quốc hội ngày 13/11/2012
22
Trong thời gian qua, nghiệp vụ thị trường mở phát triển nhanh, quy mô
ngày càng được mở rộng, góp phần giải quyết khó khăn về nguồn vốn thanh
toán và kinh doanh cho các TCTD, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong
việc tác động đến tổng lượng tiền cung ứng (M2) trong nền kinh tế, theo mục
tiêu của chính sách tiền tệ.
Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, NHNN tác động trực tiếp
đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng tiền tệ
cung ứng và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường theo mục tiêu giảm lãi
suất huy động và cho vay của TCTD, giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp.

Đánh giá một cách khách quan, trong năm 2012, NHNN điều hành
nghiệp vụ thị trường mở OMO chủ động, linh hoạt và hiệu quả hơn thời gian
trước đó.
Tuy nhiên, công cụ nghiệp vụ thị trường mở còn một số vấn đề cần
nghiên cứu hoàn thiện như:
Quy chế nghiệp vụ thị trường mở chậm được điều chỉnh, sửa đổi theo sự
đổi mới của môi trường pháp lý, tạo ra những rủi ro về pháp lý và kinh tế cho
các TCTD.
Quy chế nghiệp vụ thị trường mở ban hành theo01/2007/QĐ- NHNN và
Quyết định 27/2008/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung QĐ 01/2007/QĐ-NHNN chưa
được điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi của các quy định pháp luật khác có
liên quan như: Nghị định 01/2011/NĐ-CP ngày 5/1/2011 về phát hành trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu của chính quyền địa
phương; Luật sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán(Luật 62/2010/QH 12); Luật
NHNN Việt Nam (luật 46/2010/QH12) và Luật Các TCTD (Luật
47/2010/QH12),
Nhiều vấn đề cần phải bổ sung sửa đổi để đồng bộ với các văn bản pháp
luật mới (đặc biệt là các quy định mới về phát hành giấy tờ có giá, tiêu chuẩn
giấy tờ có giá, định giá giấy tờ có giá, )nếu không sớm điều chỉnh sẽ phát sinh
các rủi ro về pháp lý, rủi ro về kinh tế cho các TCTD và làm giảm hiệu quả của
công cụ Thị trường mở.
Cơ chế mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở hiện hành chủ yếu là
đấu thầu khối lượng, các mức lãi suất giao dịch thực tế phản ánh chưa chính
23
xác quan hệ cung cầu vốn, không khuyến khích cạnh tranh thực sự giữa các
TCTD với mục tiêu hạ lãi suất thị trường.
Phương thức mua bán trong thời gian qua chủ yếu là đấu thầu khối lượng:
là việc xét thầu trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối
lượng giấy tờ có giá Ngân hàng Nhà nước cần mua hoặc bán và lãi suất do Ngân
hàng Nhà nước thông báo.

Trong giai đoạn lạm phát rất thấp(từ tháng 3/2012-8/2012), lãi suất cho
vay đối với nền kinh tế còn quá cao so với CPI, các thành viên đủ điều kiện
tham gia thị trường mở là các NHTM lớn, thanh khoản đảm bảo, dư vốn khả
dụng không cho vay được, phương thức xét thầu khối lượng chưa phù hợp,
không tạo ra được sự cạnh tranh về lãi suất của các TCTD, để hạ lãi suất
thị trường.
Phương thức xét thầu khối lượng nhằm mục đích hỗ trợ thanh khoản, tạo
điều kiện cho các thành viên tham gia dự thầu đều trúng thầu, chỉ phù hợp với
các TCTD nhỏ, khó khăn về thanh khoản. Tuy nhiên đối với các NHTM nhỏ,
yếu kém, thanh khoản khó khăn, không sở hữu nhiều các giấy tờ có giá, không
đủ điều kiện thành viên để tham gia thị trường mở.
Khối lượng giao dịch bị hạn chế trong mức cung tiền mục tiêu hàng năm
và khả năng, điều kiện tham gia thị trường mở của các TCTD, làm giảm hiệu
quảđiều tiết, tác dụng của công cụ thị trường mở.
Trong năm 2011, lạm phát cao và NHNN thực hiện, chính sách tiền tệ thắt
chặt, do đó, các công cụ thị trường mở phải nhằm mục đích hút tiền về. Tuy
nhiên, các TCTD đang khó khăn thanh khoản và thiếu vốn để đảm bảo mục tiêu
tăng trưởng tín dụng, nên biện pháp hút tiền về qua OMO không thực hiện được.
Trong 2012, lạm phát giảm xuống nhanh dưới một con số, tăng trưởng tín
dụng quá thấp so với mục tiêu, công cụ thị trường mở phải nhằm mục tiêu bơm
tiền ra để hạ lãi suất, kích thích tăng trưởng tín dụng, nhưng lại mâu thuẫn với
khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp rất thấp, các TCTD thừa tiền không cho
vay được.
5. Kiểm soát hạn mức tín dụng
24
Hạn mức tín dụng là công cụ can thiệp trực tiếp, mang tính hành chínhcủa
NHNN, được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó khống chế
tổng khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế.
Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán
trong nền kinh tế tăng cao và các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực.

Năm 2011, NHNN đưa ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng chung cho toàn
hệ thống các TCTD, không phân bổ hạn mức theo từng TCTD
Năm 2012 là lần đầu tiên NHNN quyết định phân bổ hạn mức tín dụng cho từng
NHTM theo các tiêu chí: chất lượng tài sản nợ, tài sản có, quy mô vốn, năng
lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro, chất lượng nhân lực và tuân thủ các quy
định.Theo đó, các nhóm được phân loại bởi NHNN được áp dụng các hạn mức
như sau: Nhóm thứ 1tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 17%; nhóm thứ 2 tăng
trưởng tín dụng ở mức tối đa 15%; nhóm 3 được tăng trưởng 8%; nhóm 4 thuộc
diện phải cơ cấu lại, không được tăng trưởng tín dụng.
Đến tháng 6/2012, tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng tăng 1,
51% so với cuối năm 2011 (kế hoach năm 2012 là 12%), trong đó 69 TCTD có
mức tăng trưởng âm. Có 23 TCTD đề nghị mức tăng trưởng tín dụng vượt chỉ
tiêu, có 29 TCTD xây dựng kế hoạch tăng trưởng bằng mức chỉ tiêu thông báo,
có 10 TCTD xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng thấp hơn.
Tính đến thời điểm hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép tăng chỉ
tiêu đối với 10 TCTD có tính hình tài chính lành mạnh, đã có tăng trưởng tín
dụng đạt trên 50% chỉ tiêu thông báo của Ngân hàng Nhà nước từ đầu năm.
Công cụ hạn mức tăng trưởng tín dụng mà NHNN đưa ra trong 2012 đã
phát huy tác động tích cực thúc đẩy các TCTD đổi mới và tái cơ cấu hoạt động
theo quan điểm vàmục tiêu của chính sách tiền tệ của Chính phủ trên các
mặt sau:
- Thúc đẩy các NHTM phấn đấu nâng cao chất lượng, hiệu quả và các chỉ
số an toàn hoạt động để được xếp hạng tín nhiệm cao và có được hạn mức tăng
trưởng cao.
- Điều chỉnh, hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn tăng trưởng
huy động vốn, góp phần cải thiện tính thanh khoản của từng ngân hang và cả hệ
thống hệ thống, giảm áp lực lạm phát.
25

×