LUẬT
VAI TRỊ CỦA CƠNG NGHỆ
ĐỐI VỚI ĐẢM BẢO TIẾP CẬN CƠNG LÝ
TRONG TƠ TỤNG DÂN sự
• NGUYỄN THỊ THU THỦY
TĨM TẮT:
Tiếp cận công lý là một vấn đề được đặt ra cấp thiết trong thời gian gần đây, gắn liền với
yêu cầu đảm bảo quyền con người và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, việc áp dụng khoa học và công nghệ trong các hoạt động cụ thể của tô'
tụng dân sự đem lại tính minh bạch, tăng cường khả năng tiếp cận các thiết chế giải quyết
tranh châp và ngăn ngừa- tranh chấp. Bài viết khái quát một số phương thức áp dụng thành
quả khoa học và công nghệ nhằm đảm bảo tiếp cận công lý trong tố tụng dân sự, từ đó kiến
nghị các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để áp dụng tương tự ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Tiếp cận cơng lý, cơng nghệ, tơ' tụng dân sự, xây dựng nhà nước pháp quyền,
Việt Nam.
1. Đặt vân đề
Tiếp cận cơng lý, vổi vai trị “vừa là quyền cơ
bản của con người vừa là phương tiện để thực
hiện các quyền con người khác” được hiểu chủ
yếu ở hai phương diện. Thứ nhất, là quyền được
xét xử công bằng. Cách hiểu này chỉ giói hạn
trong phạm vi hoạt động tơ' tụng hình sự và là
cách hiểu truyền thơng. Thứ hai, là khả năng tìm
kiếm sự đền bù/khắc phục cho những bâ't công
hay thiệt hại mà một cá nhân hoặc nhóm cá nhân
phải gánh chịu. Cách hiểu này mang tính hiện đại
với phạm vi mở rộng đến tất cả các lĩnh vực trong
đời sốhg xã hội.
Quan niệm hiện đại trên bắt đầu xuất hiện từ
những năm 1960 và tiếp theo đó là sự ra đời của
các giai đoạn (hay các làn sóng - waves) tiếp cận
cơng lý trong tơ' tụng dân sự. Làn sóng thứ nhất
tập trung vào trợ giúp pháp lý để giúp đỡ các
nhóm người thiệt thịi trong xã hội tiếp cận được
với các dịch vụ pháp lý. Làn sóng thứ hai xuất
hiện đầu những nam 1970, thừa nhận quyền khởi
kiện tập thể và sự ra đời của thủ tục khởi kiện
tập thể để đảm bảo các quyền, lợi ích có giá trị
tương đơ'i thâ'p nhưng ở câ'p độ xã hội, những
tranh châ'p này rất có ý nghĩa và tác động đến
nhiều người. Làn sóng thứ ba vào cuối thập kỷ
70 với sự ra đời của các phương thức giải quyết
tranh chấp thay thê' tòa án (ADR), là sự thừa nhận
tịa án khơng nhất thiết phải là phương thức trọng
yếu để giải quyết tranh chấp dân sự.
Khoa học công nghệ phát triển đã tác động
đến mọi mặt của đời sốhg xã hội và có thể được
so sánh với làn sóng tiếp cận cơng lý mới trong tơ'
tụng dân sự bởi những lợi ích nó đem lại.
SƠ'23-Tháng 9/2020
55
TẠP CHÍ CƠNG THlftfNG
2. Các ứng dụng cơng nghệ trong tố tụng
dân sự
2.1. ứng dụng công nghệ trong đảm bảo tiếp
cận thông tin
ứng dụng công nghệ trong tô" tụng dân sự cho
phép các cá nhân thêm nhiều lựa chọn tiếp cận
thơng tin với chi phí thấp.
Bằng việc sử dụng các nền tảng mạng xã hội
đa dạng như Twitter, Youtube, Linkedln..., giao
diện web của cơ quan giải quyết tranh chấp hoặc
các ứng dụng đọc lập, người dùng có thể tiếp cận
các thông tin liên quan đến tô' tụng dân sự. ở
Australia, trang web chính thức của bang Victoria
cung cấp thơng tin về hệ thống các cơ quan trợ
giúp pháp lý và hướng dẫn cách thức liên hệ với
các cơ quan đó, các văn bản pháp luật hiện hành,
trang web của Tòa thượng thẩm bang Victory
cung cấp thông tin về cơ cấu tổ chức tòa án, thủ
tục giải quyết các vụ việc dân sự, án phí. Nhiều
ứng dụng được xây dựng nhằm mục đích kết nơ’i
giữa người dân và hệ thống trợ giúp pháp lý ở
Hoa Kỳ cũng cung cấp các thông tin cơ bản về
pháp luật và giải đáp thắc mắc đơn giản. Ở Việt
Nam, cổng thông tin điện tử của Tịa án nhân dân
tối cao cung cấp các thơng tin về hệ thơng tịa án,
văn bản pháp luật và cách thức liên hệ với các
trung tâm trợ giúp pháp lý.
Công dân không chỉ tiếp cận thông tin mà đa
số các nền tảng trên hỗ trợ hoạt động thông tin
hai chiều. Bằng việc đăng nhập và xác thực danh
tính thơng qua các dịch vụ của bên thứ ba như chữ
ký số, cơng dân có thể nộp đơn kiện, chứng cứ
chứng minh thông qua nền tảng trên và nhận kết
quả trả về tại địa chỉ điện tử đã đăng ký như tại
Cổng thơng tin điện tử của tịa án, hình thức giao
nhận thông tin này được nhiều quốc gia thừa nhận
trong hoạt động giải quyết tranh chấp. Các cơ
quan tài phán có thể tiếp cận và liên lạc với các
bên thông qua email được thiết lập trên một địa
chỉ được xác định. Bằng cách này, thời gian thực
hiện một số hoạt động trong q trình tơ” tụng
được rút ngắn và giảm được đáng kể các chi phí.
2.2. Ung dụng cơng nghệ kết nối giữa người
dùng với hệ thống trợ giúp pháp lý
Nhiều ứng dụng đã được triển khai nhằm kết
nốì giữa người dùng với cơ quan giải quyết tranh
chấp hoặc cơ quan trợ giúp pháp lý ở Mỹ và úc.
5Ó
SỐ 23 - Tháng 9/202Ũ
ở Mỹ, các phần mềm như Ask a Lawyer: Legal
Help hay BernieSez cho phép người dùng kết nối
trực tiếp với các luật sư để nhận được tư vân miễn
phí hoặc đưa lên các vấn đề pháp lý của mình để
tìm kiếm dịch vụ pháp lý phù hợp.
Với việc sử dụng cơng nghệ, người dân có cơ
hội tiếp cận với hoạt động tư vấn pháp luật. Cùng
với việc dễ dàng cập nhật các thơng tin pháp luật
từ các kênh chính thức trên mạng xã hội và trang
web của cơ quan giải quyết tranh chấp, người
dùng có thể dễ dàng kết nối với các kênh tư vấn
pháp luật thông qua các phần mềm trên điện
thoại. Các phần mềm này đã được xây dựng ở
Mỹ, người dùng đặt câu hỏi và được các luật sư
tư vấn miễn phí hoặc gửi thơng tin về vụ kiện của
mình vào phần mềm, luật sư sẽ liên lạc với người
dùng để nhận vụ kiện. Trong trường hợp đó, các
bên đều có được thơng tin về nhau như nội dung
vụ kiện hay các loại vụ việc luật sư đã từng tham
gia, mức phí... Trên cơ sở đó, các bên có nhiều cơ
hội lựa chọn đốì tác hơn.
Ớ Anh, các phần mềm hỗ trợ cũng phát triển.
Úng dụng Free Legal Advice do Justify Digital
LTD xây dựng được cung cấp miễn phí, cho phép
người dùng truy cập vào các tài nguyên pháp lý
trên nhiều lĩnh vực, mẫu biểu và được trả lời tư
vấn miễn phí trong vịng 48 giờ.
Để giảm thiểu chi phí pháp lý, một số’ chương
trình cho phép người dùng tự tạo cho mình các tài
liệu pháp lý như đơn khởi kiện, yêu cầu hoàn tiền
bảo hiểm... mà không cần đến sự trợ giúp của
luật sư. Sau khi điền các thơng tin cần thiết theo
mẫu CĨ sấn liên quan đến các vấn đề pháp lý của
mình, người dùng sẽ được gợi ý các bước tiếp
theo để hoàn tất văn bản pháp lý theo mẫu được
xác định sấn cho từng loại u cầu mà khơng cần
phải có đủ các kiến thức pháp lý cần thiết. Người
dùng có thể được hỗ trợ trong các trường hợp đơn
giản để theo dõi việc giải quyết vấn đề để giảm
các chi phí theo đuổi vâ’n đề pháp lý, điều này có
nghĩa lớn trong việc giải quyết các tranh chấp mà
giá trị tranh châp nhỏ hơn rất nhiều so với các chi
phí cho hoạt động tố tụng.
2.3. ứng dụng công nghệ trong giải quyết các
vụ kiện có giá trị tranh chấp nhỏ
Úy ban Châu Âu đã sử dụng dịch vụ giải quyết
tranh chấp trực tuyến đốì với các tranh chấp giữa
LUẬT
người tiêu dùng với người bán trong giao dịch
mua bán trực tuyến với điều kiện thương nhân và
người tiêu dùng đều có trụ sở tại EU hoặc Nauy,
Iceland và Lichetenstein theo Quy định sô'
524/2013 do Hội đồng và Nghị viện châu Âu ban
hành ngày 21/5/2013. Theo đó, cả người tiêu
dùng mua hàng trực tuyến và người bán hàng đều
có thể gửi yêu cầu giải quyết tranh chấp trực
tuyến. Trước khi bắt đầu, người dùng phải qua
bước xác định danh tính và trả lời các câu hỏi liên
quan đến yêu cầu của mình và có thể đề xuất
hướng giải quyết. Các bên có thể đề xuất cơ quan
giải quyết tranh chấp và bên kia có thể lựa chọn
dựa trên việc cân nhắc về phí, phương thức làm
việc... của cơ quan đó. Các thông tin, tài liệu trao
đổi giữa các bên được hỗ trợ chuyển đổi ngôn
ngữ, việc chuyển và nhận thông tin giữa các bên
được thực hiện trên nền tảng của dịch vụ này.
Cuối cùng, các bên sẽ nhận kết quả quá trình giải
quyết yêu cầu của mình ngay trên hệ thống mà
khơng cần thiết phải đến tịa án.
Phương thức này cho phép các bên thực hiện
quyền tự yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện một
cách đơn giản và chi phí thấp, điều này rất có ý
nghĩa đối với các tranh chấp tiêu dùng mà các
bên ở các khu vực địa lý khác nhau hoặc ở các
quốc gia khác nhau.
2.4. Ung dụng công nghệ trong giải quyết
tranh chấp trực tuyến (ODR)
Mở rộng các phương thức giải quyết tranh
chấp ngồi tịa án là một trong những yêu cầu
quan trọng để đảm bảo tiếp cận công lý trong tố
tụng dân sự. Khác với sự thay đổi trong làn sóng
thứ ba về tiếp cận công lý, giải quyết tranh chấp
trực tuyến về mặt bản chất không thay đổi về các
chủ thể tham gia nhưng việc giải quyết được thực
hiện trên nền tảng công nghệ giúp khắc phục
được các vấn đề về khoảng cách địa lý và tạo cơ
hội cho các nhóm yếu thế, thay đổi phương thức
giao nộp và xuất trình chứng cứ.
Phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến
được thực hiện thông qua hội nghị video và email
hoặc dịch vụ trò chuyện kết hợp với trao đổi tài
liệu trực tuyến. Phương thức này thay cho các
buổi họp trực tiếp để giải quyết tranh chấp.
Phương thức này ngày càng được các thiết chế
giải quyết tranh chấp quan tâm tham gia. Ớ úc,
ODR được sử dụng trong giải quyết các khiếu nại
của người tiêu dùng trong thương mại điện tử. Với
ODR, các chủ thể bị hạn chế trong việc tiếp xúc
với các cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ được tạo
thuận lợi trong việc kết nốì với tịa án và các cơ
quan khác.
Một thực tế là với sự phát triển của thương
mại điện tử, việc khiếu kiện đốì với các giao dịch
trong đó người mua hàng ở xa và giá trị giao dịch
nhỏ gặp nhiều trở ngại, việc sử dụng ODR cho
phép tăng cường khả năng tiếp cận công lý của
các chủ thể. ODR của Modria đã xử lý đến 60
triệu tranh chấp mỗi năm ở eBay và PayPal. Khi
một tranh chấp được đưa ra, công cụ giải quyết
tranh chấp trực tuyến sẽ thực hiện lần lượt các
bước giải quyết và dừng lại khi người yêu cầu
thống nhất với phương án được đưa ra. Hệ thống
sẽ phân tích các vấn đề bất đồng và đưa ra các đề
xuất giải quyết vụ việc, kết nối với bên trung gian
hòa giải và giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên,
thông thường các tranh chấp sẽ được giải quyết
xong ngay từ bước thứ nhất hoặc thứ hai.
ớ Việt Nam, Trung tâm trọng tài quốc tế Hà
Nội đã triển khai hệ thông giải quyết tranh chấp
trực tuyến. Đê’ tham gia, người dùng tạo tài khoản
đăng nhập với sô' căn cước công dân/chứng minh
thư nhân dân và đăng ký địa chỉ thư điện tử nhận
và gửi thông tin. Việc gửi, nhận và mở phiên giải
quyết tranh chấp đã được thực hiện trực tuyến
trong thời gian gần đây.
Như vậy, rõ ràng là sự hiện diện của công
nghệ trong tô' tụng dân sự đã tạo ra những thay
đổi lớn đô'i với bảo đảm tiếp cận công lý trong tô'
tụng dân sự.
Trước hết, việc giải quyết tranh chấp không
cần đến sự hiện diện trực tiếp của các bên. Từ
q trình xác định danh tính, gửi yêu cầu, trao đổi
các chứng cứ chứng minh và nhận kết quả giải
quyết vụ việc đều có thể thực hiện trên nền tảng
internet. Các đương sự giảm được các chi phí như
thời gian di chuyển, chi phí cho phương tiện di
chuyển, lưu trú và thời gian chờ đợi. Điều này
đặc biệt có ý nghĩa đối với những người có hạn
chê' về khả năng di chuyển hoặc khơng có khả
năng về tài chính.
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp có thể
được thực hiện bởi chủ thể không phải là con
SỐ 23 - Tháng 9/2020
57
TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG
người. Thơng qua việc phân tích các tình tiết của
vụ việc, đốì chiếu với các quy định của pháp luật
hoặc án lệ, AI đưa ra phương án giải quyết, trong
trường hợp có khiếu nại thì vụ việc sẽ được xem
xét lại bởi thẩm phán là con người. Điều này giúp
giảm khôi lượng công việc của các thẩm phán
nhất là đối với các tranh chấp nhỏ. Các quyết
định sơ bộ được đưa ra một cách nhanh chóng,
giảm thời gian chờ đợi của các bên.
Thứ ba, việc giải quyết tranh chấp có thể được
thực hiện nhanh hơn khi sử dụng các thành tựu
của cách mạng công nghiệp 4.0. Các sự kiện là
bằng chứng cho việc giải quyết có thể được kiểm
chứng bởi AI trên cơ sỡ hệ thống dữ liệu Big data
hoặc trên nền tảng blockchain, việc trao đổi
thông tin qua mạng internet cũng làm giảm đáng
kể chi phí và thời gian, công sức cho hoạt động
giao nhận, nhất là khi các tài liệu được hỗ trợ
chuyển ngữ trực tuyến.
Có thể nói, ứng dụng cơng nghệ trong tố tụng
dân sự không tạo ra các thực thể mới trong tô'
tụng dân sự nhưng giúp tăng tốc độ giải quyết
các tranh chấp dân sự, hỗ trợ tiếp cận thông tin
khi đa số các trang web và các ứng dụng kết nối
đều hỗ trợ chuyển đổi đa ngôn ngữ đối với các
tài liệu trao đổi. Giảm thời gian giải quyết và chi
phí giải quyết là một trong những yêu cầu tiên
quyết của tiếp cận công lý trong tô' tụng dân sự.
Bên cạnh đó, với khả năng truy cập ở bất cứ đâu,
việc ứng dụng công nghệ trong tô' tụng dân sự
cho phép người dùng dễ dàng tiếp cận với thông
tin, tiếp cận các cơ chế hỗ trợ và giải quyết tranh
chấp chỉ với điện thoại thơng minh có kết nối
internet. Rõ ràng đây là một xu thê' phát triển
của tô' tụng dân sự không thể phủ nhận và không
thể bỏ qua.
Việc ứng dụng công nghệ trong tô' tụng dân
sự đã bước đầu được thực hiện ở Việt Nam, tuy
nhiên mức độ ứng dụng và phổ biến thông tin
đến những người cần sử dụng cịn nhiều hạn chế.
Bên cạnh đó, ứng dụng cơng nghệ trong tơ' tụng
dân sự nhằm mục đích là thay đổi phương thức
thực hiện các hoạt động truyền thô'ng để đảm
bảo tính hiệu quả, do đó, sẽ cịn nhiều vấn đề
đặt ra đô'i với ứng dụng và vận hành các nền
tảng công nghệ trong tô' tụng dân sự nhằm đảm
bảo tiếp cận công lý.
58
SỐ23-Tháng 9/2020
3. Các vấn đề đặt ra đô'i với việc áp dụng
các thành tựu công nghệ trong tô' tụng dân sự
ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, cần thiết lập khung pháp lý cho việc
áp dụng công nghệ trong tô' tụng dân sự. Đây là
nền tảng để đảm bảo việc ứng dụng công nghệ và
sự vận hành không trái với các nguyên tắc của
pháp luật thực định về tơ' tụng dân sự. Ví dụ, để
đảm bảo tính pháp lý cho việc triển khai công
nghệ AI trong hệ thống tư pháp, European
Commission for the Efficiency of Justice (CEPEJ)
đã áp dụng 5 nguyên tắc cơ bản về sử dụng AI
trong các hệ thống tư pháp và môi trường của các
hệ thống tư pháp đó. Theo đó, các nguyên tắc
được đặt ra nhằm đảm bảo sự tôn trọng đối với
Công ước châu Âu về quyền con người (RCHR)
và Công ước bảo vệ dữ liệu cá nhân (CPPD) bằng
cách đảm bảo việc sử dụng AI tơn trọng các
ngun tắc như tính minh bạch, cơng bằng và
bình đẳng.
Thứ hai, cần xây dựng cơ sở hạ tầng về kỹ
thuật để đảm bảo khả năng vận hành các dịch vụ,
đồng thời, đảm bảo khả năng tiếp cận các nguồn
lực đó đối với các cá nhân có nhu cầu. Theo báo
cáo thống kê, hiện đang có 68,17 triệu người
đang sử dụng dịch vụ internet tại Việt Nam. Tỷ lệ
sử dụng internet ở Việt Nam trên tổng dân sô'
người Việt Nam hiện đang đứng ở mức 70% và 65
triệu người hiện đang sử dụng các phương tiện
truyền thông xã hội vào tháng 1 năm 2020. Các
sô' liệu trên cho thấy việc ứng dụng các phương
thức giải quyết tranh chấp hoặc trợ giúp pháp lý
với Sự tham gia của công nghệ là khả thi.
Thứ ba, cần chú trọng đảm bảo khả năng tiếp
cận các dịch vụ tích hợp cơng nghệ của nhóm yếu
thế. Tiếp cận thơng tin, tiếp cận các cơ chê' hỗ
trợ pháp lý và giải quyết tranh chấp trên nền tảng
công nghệ sô' điều cần thiết khơng chỉ là thiết bị
kết nối mà cịn cả kỹ năng sử dụng và các yếu tô'
khác. Theo báo cáo của các sở tư pháp, tại nhiều
tỉnh, người thuộc diện trợ giúp pháp lý chiếm tỷ
lệ rất cao (tại Đắc Nơng ước tính tỷ lệ này là
98,5%, tại Lai Châu là 85%, tại Lạng Sơn là
94,4%, Yên Bái là 89%...), nhưng các đơ'i tượng
này thậm chí khơng biết mình có thuộc đối tượng
được hưởng trợ giúp pháp lý hay không, khơng
biết đến dịch vụ trợ giúp pháp lý... Bởi tính đến
LUẬT
khả năng và nhu cầu của các nhóm yếu thế trong
xã hội là một yêu cầu của tiếp cận công lý trong
tô' tụng dân sự.
Thứ tư, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền
phổ biến đối với các dịch vụ pháp lý có tích hợp
cơng nghệ. Việc xây dựng một hệ thống tô' tụng
dân sự hiện đại và tiện lợi là cần thiết nhưng nếu
các đốì tượng thụ hưởng khơng có thơng tin và
khơng có khả năng truy cập thì hệ thống đó
khơng phát huy được hiệu quả ■
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Đào Trí Úc - TS. Vũ Cơng Giao chủ biên (2018), Công lý và quyền tiếp cận công lý - Một sô'vấn đề lý luận,
thực tiễn, NXB. Hồng Đức, Hà Nội, tr.126.
2. VŨ Công Giao (2009), "Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp quyền", Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, Luật học, quyển số 25
3. Monique Moore Lisa Toohey, Katelane Dart, Daniel J. Toohey (2019), "Meeting the Access to Civil Justice
Challenge: Digital Inclusion, Algorithmic Justice, and Human-Centered Design", Macquarie Law Journal, 19 ,
tt.137.
4. Tlđđ, tr.139.
5. Cổng thông tin điện tử Bang Victoria, Ausưaylia, , ngày truy cập 1/2/2020.
6. J Dysart, 20 apps to help provide easier access to legal help (2015), ngày truy cập 2/2/2020.
7. Tịa án nhân dân tối cao cổng thơng tin điện tử, truy cập ngày 1/9/2020.
8. Tlđđ, truy cập ngày 1/9/2020.
9. Sourdin, Tania. Justice in the age of technology: 'The rise of machines is upon us',
documentsummary;dn=789253840314771;res=IELHSS,
10. J Dysart, 20 apps to help provide easier access to legal help (2015), ngày truy cập 2/2/2020.
11. J Dysart, 20 apps to help provide easier access to legal help (2015), ngày truy cập 2/2/2020.
12. Post your legal case & get offers from lawyers that practice in that state, , truy cập
ngày 3/3/2020.
13. Post your legal case & get offers from lawyers that practice in that state, , truy cập
ngày 3/3/2020.
14. Phần mềm Free Legal Advice (2020), />co.uk&hl=vi, truy cập ngày 6/7/2020.
15. Trang trợ giúp pháp lý LawHelp, truy cập ngày 23/1/2020.
16. Online Dispute Resolution, (truy cập
ngày 1.2.2020)
17. Online Dispute Resolution, truy cập ngày 4/5/2020.
18. Sourdin, Tania. Justice in the age of technology: 'The rise of machines is upon us',
, truy cập ngày .
19. Modria and the Future of Dispute Resolution, truy cập ngày 23/12/2019.
SỐ23-Tháng 9/2020
59
TẠP CHÍ CƠNG THIÍÍNG
20. Trung tâm trọng tài quốc tế Hà Nội, truy cập ngày
15/1/2020.
21. European ethical Charter on the use of Artificial Intelligence in judicial systems and their environment,
_Judicial_systems_and_their_environment_adopted_at.html, (truy cập ngày 1/9/2020).
22. Thông kê Internet Việt Nam 2020, (truy cập
ngày 1/9/2020)
23. Bình An, Nhận thức của người dân, đặc biệt là đối tượng yếu thế về trợ giúp pháp lý và giải pháp nâng cao
nhận thức về trợ giúp pháp lý của người dân, (truy cập ngày 2/9/2020)
24. Bình An, Nhận thức của người dân, đặc biệt là đôi tượng yếu thế về trợ giúp pháp lý và giải pháp nâng cao
nhận thức về trợ giúp pháp lý của người dân, (truy cập ngày 2/9/2020)
Ngày nhận bài: 16/8/2020
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 26/8/2020
Ngày chấp nhận đăng bài: 6/9/2020
Thông tin tác giả:
TS. NGUYỄN THỊ THU THỦY
Viện Nhà Nước và Pháp luật
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
THE ROLE OF TECHNOLOGY IN ENSURING
THE ACCESS TO JUSTICE IN CIVIL PROCEEDINGS
• Ph.D NGUYEN THI THU THUY
Institute of State and Law,
Vietnam Academy of Social Sciences
ABSTRACT:
The access to justice is an urgent issue in recent times and it is associated with the
requhement of ensuring human rights and building a rule-of-law state in Vietnam today. The
practice shows that the application of science and technology in specific activities of civil
proceedings increase the transparency, enhances the access to dispute settlement institutions,
hence it prevents disputes. This paper summarizes some methods of applying scientific and
technological achievements to ensure the access to justice in civil proceedings, thereby
proposing issues that need further researches for the similar application in Vietnam.
Keywords: The access to justice, technology, civil proceedings, building a rule-of-law state,
Vietnam.
Ó0
SỐ 23 - Tháng 9/2020