Vai trị của phụ nữ Khmer An Giang
trong gia đình và cộng đồng: Tiếp cận
thông qua nghề dệt truyền thống
I
* ThS. Trung tâm Phát triển nông thôn - Saemaul Undong, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân ' 'ăn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
94
Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 32, số 2, tr. 93-101
Phân cơng lao động, bình đẳng giới, sinh kế tạo thu nhập theo giới là chủ
đề nghiên cứu nổi bật của dân số học và xã hội học. Những chỉ báo này phản ánh
và đo lường vai trò và giá trị đóng góp của giới trong gia đình và cộng đồng.
Bằng quan điểm liên ngành địa lý học, xã hội học và nhân học, bài viết thảo luận
về vai trị và giá trị đóng góp của phụ nữ đối với sinh kế hộ gia đình và đối với
cộng đồng tộc người thông qua nghề dệt truyền thống.
2. Tổng quan nghiên cứu
Một trong những tài nguyên văn hóa có ý nghĩa cho du lịch là nghề và làng
nghề truyền thống vốn là phương diện phản ánh sinh hoạt văn hóa tộc người có
sức hấp dẫn đặc biệt với những đối tượng đến từ đô thị. Nghề truyền thống là kểt
quả văn hóa ứng xử với mơi trường sinh thái của người Khmer, đóng góp quan
trọng trong việc cấu thành trong nền văn hóa của cộng đồng tộc người. Ban đẩu
chỉ là đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, dần dà được phát triển với quy mô
sản xuất cấp độ phum sróc (ấp) thành những làng nghề với mục đích tìm kiếm
thu nhập ngồi nghề nơng cũng như phổ biến và duy trì văn hóa tộc người (Sơn
Chanh Đa, Kim Phi Rum, 2016). Du lịch trên cơ sở khai thác nghề dệt truyền
thống là một hình thức du lịch chất lượng cao, tạo ra sự kết hợp hợp lý và mạnh
mẽ (UN-WT0, 2008) bởi nghề truyền thống là tài nguyên du lịch văn hóa bản
địa có ý nghĩa ở khía cạnh là phương tiện giao lưu, thừa nhận đa dạng văn hóa
giữa các quốc gia, dân tộc, để khuyến khích sự khoan dung và học hỏi (Phạm
Cao Quý, 2016) và đây cũng là một phần không thể tách rời trong trải nghiệm
của một chuyến du lịch (Mustafa, 2011).
Bình đẳng trong các vai trò giới (vai trò sản xuất, tái sản xuất và cộng
đồng) là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triến của cộng đồng quốc
gia - dân tộc. Giới trong hoạt động sản xuất góp phần phát triển kinh tể trong
gia đình ngày càng được chú ý thể hiện sự bình đẳng trong phân cơng lao
động (Nguyễn Thị Kim Quyên, 2017; Phạm Ngọc Nhàn và cộng sự, 2014).
Tại Đồng bằng sơng Cửu Long, ở cấp độ gia đình, những ai đảm đương chính
cơng việc nào sẽ là người có quyền quyết định cho cơng việc đó (Trần Hạnh
Minh Phương, 2016, 2017). Giá trị của mồi công việc trong gia đình là như
nhau nên vai trị của phụ nữ hoặc nam giới trong mồi đơn vị hạt nhân gia đình
khơng có sự khác biệt.
Đối với cộng đồng Khmer, mặc dù vấn đề giới chưa được quan tâm sâu
sắc nhưng thông qua một số kết quả điều tra cho thấy bình đẳng giới thực hiện
tương đối tốt, phụ nữ đóng góp cho thu nhập gia đình nhiều hơn, tiếp cận các cơ
hội nghề nghiệp, học tập, chăm sóc sức khỏe được cải thiện rõ rệt và có khuynh
Dương Trường Phúc
95
hưóng cao hon nam giới (Võ Hồng Tú, Nguyễn Thùy Trang, 2013). Phụ nữ
Khmer giữ những vị trí, vai trò nhất định trong đời sống và các sinh hoạt vãn
hóa xã hội của cộng đồng, về kinh tế, phụ nữ Khmer có vai trị tưong đưong
với nam giới khi đóng góp hon một phần hai vào tổng thu nhập của gia đình
(Nguyền Thùy Trang và cộng sự, 2006). về văn hóa - xã hội, phụ nữ Khmer có
vai trị quan trọng trong việc giữ gìn và truyền dạy tiếng mẹ đẻ cho thế hệ sau
thôr g qua hát ru, kể chuyện, tập nói cho con cháu, dạy con cháu học, hay qua
các nghi lễ dân tộc (Thạch Thị Dân, 2019).
Bài viết tiếp tục kế thừa các kết quả từ nghiên cứu trước về ý nghĩa của du
lịch đối với phát triển nông thôn cũng như vấn đề giới trong cộng đồng Khmer
Nam Bộ và thông qua trường hợp nghề dệt thổ cẩm Văn Giáo, bài viết phản ánh
vai trò và những giá trị quan trọng mà phụ nữ Khmer đóng góp đối với gia đình
và c ìng đồng tộc người.
3. p tiương pháp nghiên cứu
Cách tiếp cận và khu vực nghiên cứu
Bài viết dựa vào quan điểm nghiên cứu liên ngành địa lý học, xã hội học,
nhâr học nhằm mục đích phân tích và thảo luận về vai trị và giá trị đóng góp
của phụ nữ Khmer đối với gia đình và cộng đồng. Với quan điểm địa lý, khu vực
cư trú của Khmer ở vùng Tịnh Biên, An Giang là khu vực bán son địa khác với
khu vực cư trú của cộng dong Khmer ở những vùng lân cận. Với quan điểm xã
hội 1 ọc, vai trò giới và giá trị đóng góp của phụ nữ Khmer được thể hiện qua
nhiều chiều cạnh của đời sống và sản xuất, cụ thể trong bài viết là nghề dệt truyền
thống của cộng đồng. Với quan điểm nhân học, phụ nữ Khmer huyện Tịnh Biên
là mót bộ phận của cộng đồng Khmer An Giang nói riêng và cộng đồng Khmer
Nam Bộ nói chung với những đặc trưng vốn có về đời sống và sản xuất.
Một trong những nghề thủ công truyền thống nổi bật của đồng bào
Khm ĩr ở xã Văn Giáo là nghề dệt thổ cẩm và nghề này cũng đã trở thành chỉ
dần đ ịa lý “dệt thổ cẩm Văn Giáo”. Làng dệt thổ cẩm Văn Giáo thuộc ấp Srây
Skốth, xã Văn Giáo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang được hình thành cách
đây hơn 100 năm. Năm 1979, Chiến tranh biên giới Tây Nam đã làm thu hẹp
quy I lơ và mai một nghề dệt khi chỉ cịn khoảng gần 40 hộ hoạt động nghề
này. Năm 1998, nhờ vào sự hồ trợ của tổ chức CARE, nghề dệt đã dần khơi
phục và các sản phẩm đã có mặt trên thị trường. Năm 2000, Hợp tác xã (HTX)
dệt th ổ cẩm Vãn Giáo ra đời gồm 71 hộ - 126 xã viên (Phạm Thị Phương
Hạnh và cộng sự, 2011).
96
Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 32, số 2, tr. 93-101
Khái niệm nghiên cứu
Vai trò là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu xã hội
học. Vai trò là tập hợp những kỳ vọng ở trong một xã hội gắn với hành vi của
những người mang các địa vị... Khái niệm vai trị có mối quan hệ với một nhóm
các khái niệm trực thuộc như là một hệ thống trong đó có khái niệm vai trị giới
(Endruweit và cộng sự, 1989).
Vai trò giới dựa trên những kỳ vọng khác nhau mà các cá nhân, nhóm và
xã hội có đối với các cá nhân dựa trên giới tính của họ và dựa trên các giá trị và
niềm tin của mồi xã hội về giới. Vai trò giới là sản phẩm của sự tưong tác giữa
các cá nhân và môi trường của họ, và chúng cung cấp cho các cá nhân những
dấu hiệu về loại hành vi nào được cho là phù hợp với giới tính. Vai trị giới phù
hợp được xác định theo niềm tin của xã hội về sự khác biệt giữa hai giới
(Blackstone, 2003). Hay vai trò giới là tập hợp những hành vi ứng xử mà xã hội
mong đợi ở phụ nữ và nam giới liên quan đến những đặc điểm và năng lực mà
xã hội coi là thuộc về đàn ông hay thuộc về đàn bà trong một xã hội hay là một
nền vãn hóa cụ thể nào đó (Đồn Văn Trường, Nguyễn Thị Thanh Thúy, 2016;
Phạm Thị Tâm, 2019).
Bài viết lấy ví dụ về nghề dệt truyền thống của cộng đồng Khmer An Giang
với chủ thể chính là phụ nữ (phân cơng lao động theo giới) để thảo luận về vai
trò nền tảng và giá trị đóng góp của phụ nữ đối với sinh kế hộ gia đình (vai trị
sản xuất và tái sản xuất; giá trị kinh tế) trong việc đa dạng hóa thu nhập; đối với
cộng đồng (vai trị cộng đồng; giá trị văn hóa-xã hội) trong việc bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa tộc người. Thơng qua những vai trị nền tảng và giá trị đóng
góp quan trọng đó phụ nữ Khmer có thể nâng cao vị thế của bản thân trong gia
đình cũng như tăng cường quyền ra quyết định trong các chiến lược sinh kế
tưong lai.
Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu trong bài viết này được thu thập từ hai nguồn chính: (i) từ các
tài liệu thứ cấp là các tập san chuyên ngành, sách chuyên khảo có liên quan
đến văn hóa, du lịch, phát triển nông thôn và nghề dệt truyền thống; (ii) là từ
dữ liệu của nghiên cứu “Phụ nữ tộc người thiểu số An Giang: những chiều
kích đời sống và sản xuất” do tác giả thực hiện tháng 4/2019 thông qua công
cụ bảng hỏi bán cấu trúc với mầu khảo sát là 60 hộ gia đình. Đây là tồn bộ
những hộ cịn thực hành nghề dệt tại địa bàn ấp Srây Skổth, xã Văn Giáo,
huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, cả những hộ tham gia và không tham gia
vào hoạt động du lịch. Nội dung khảo sát tập trung đánh giá của hộ về nghề
Dương Trường Phúc
97
dệt, ý nghĩa phát triển du lịch từ đó biện luận về vai trị của phụ nừ - chủ thể
của nghề truyền thống này.
Nghe dệt là công việc đòi hỏi sự cần mẫn, khéo tay và phù hợp với giới nữ
nên đối tượng khảo sát hoàn toàn là phụ nữ (100%). Tuổi đời của các đối tượng
này dao động từ 28 đến 67 tuồi, trong đó nhóm tuổi dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ rất
nhỏ (3%), nhóm tuổi từ 50 trở lên chiếm tỷ lệ lớn (54%). Lao động trẻ thường
tham gia công việc đồng áng hoặc di cư đến đơ thị lớn tìm kiếm việc làm, trong
khi dó lao động lớn tuối thường khơng đủ sức khỏe tham gia vào nông nghiệp
nên I i lại nhà dệt vải đế tăng thu nhập cho gia đình. Hầu hết các hộ tham gia khảo
sát đều cho biết nghề dệt là sinh kế bổ trợ, được thực hiện tại nhà hoặc tại hợp
tác xã khi nông nhàn hoặc do thành viên không đủ sức lao động.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Vai trò sản xuất của phụ nữ Khmer An Giang: Đa đạng hóa sinh kế
tạo thu nhập
Người Khmer tại vùng Bảy Núi có sinh kế chính là hoạt động nơng nghiệp,
chủ 5 ếu trồng lúa, hoa màu. Nam giới sẽ đảm đương các cơng việc đồng áng (có
thu nhập) trong khi phụ nữ sẽ đảm đương các công việc nội trợ, chăm sóc các
thànl viên trong gia đình (khơng có thu nhập). Hầu hết phụ nữ Khmer có am
hiểu t nhiều về nghề dệt truyền thống vì đây là cơng việc được duy trì qua nhiều
thế h<:. Do vậy, ngồi thời gian thực hiện vai trị gia đình, khơng ít phụ nữ Khmer
còn tl lam gia vào nghề dệt truyền thống được thực hiện tại nhà hoặc tại các Họp
tác xí. để tìm kiếm thêm thu nhập cho gia đình. Việc tìm kiếm thu nhập ổn định
ngồi nơng nghiệp được đánh giá là chiến lược sinh kế giảm thiểu rủi ro.
Các sản phẩm dệt không chỉ được được vận chuyển đến các thị trường may
mặc r là còn trở thành sản phấm du lịch và phụ nữ Khmer trở thành các đối tượng
tham gia vào hoạt động du lịch. Du lịch tạo ra việc làm và trở thành nguồn phát
triến 1 'iệc làm cho những đối tượng khó tiếp cận thị trường lao động, đặc biệt là
phụ n ĩ (ILO, 2012). Khi tham gia vào thị trường việc làm trong lĩnh vực du lịch,
phụ nì được tiếp cận nhiều hơn cơ hội học tập, nâng cao kiến thức kỳ năng nghề
nghiệp để từ đó khẳng định và phát triển bản thân. Tuy vậy, có những trở lực
nhất C ịnh làm cho nhiều phụ nữ không tham gia vào hoạt động này. Tính đến
thời đ ếm khảo sát năm 2019, trong tổng số 60 hộ làm nghề, chỉ có 25 trong tổng
số 60 hộ cho biết đã tham gia vào hoạt động du lịch. Đối với những hộ không
tham ị ;ia vào du lịch, chỉ có 12 trong số 60 hộ có ý muốn tham gia vào hoạt động
du lịch trong thời gian tới vì “sự khuyến khích” của các hộ đã tham gia.
98
Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 32, số 2, tr. 93-101
Trên quan điểm là dạng thức của tài nguyên văn hóa Khmer, có đến ba
phần tư tổng số hộ (-45/60) cho rằng nghề dệt truyền thống quan trọng đến rất
quan trọng đối với du lịch. Với nhận thức đó, các hộ làm nghề có tham gia du
lịch tương đối tích cực trong việc kết hợp giữa hoạt động thường nhật với du lịch
nhằm gia tăng thu nhập cho gia đình. Những sản phấm làm ra, ngồi được Hợp
tác xã thu mua lại thì nghệ nhân có thể trực tiếp bán cho du khách.
4.2. Vai trò cộng đồng của phụ nữ Khmer An Giang: Bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa truyền thong
Du lịch và giá trị văn hóa tộc người là hai phương diện có mối quan hệ
tương hồ. Giá trị văn hóa tộc người là tài nguyên cho phát triển du lịch. Du lịch
góp phần duy trì, bảo tồn và nâng cao giá trị văn hóa tộc người. Du lịch làng
nghề là khái niệm minh họa cụ thể cho mối quan hệ tương hỗ này.
về cơ bản có thể xem xét vai trị của nghề dệt truyền thống trong việc định
hướng phát triển du lịch ở các khía cạnh như loại hình và sản phẩm du lịch; tổ
chức lãnh thổ du lịch và marketing địa phương; phát triển bền vững du lịch. Qua
quá trình khảo sát, lần lượt 40, 32 và 41 trong tổng số 60 hộ đồng ý nghề dệt
truyền thống góp phần định hướng loại hình và sản phẩm du lịch, định hướng tổ
chức lãnh thổ du lịch và marketing địa phương, định hướng phát triển du lịch
bền vững.
về định hướng loại hình và sản phẩm du lịch, nghề dệt truyền thống là đại
diện cho những đặc sắc vãn hóa cộng đồng, có thể giúp định hình loại hình du
lịch văn hóa, du lịch cộng đồng. Khi những tuyến du lịch liên kết đến những khu
vực có nghề dệt truyền thống, du khách có thể trở thành nghệ nhân tham gia vào
quá trình tạo ra sản phẩm, có thể lắng nghe những câu chuyện làm nghề của nghệ
nhân, có thể mua sản phẩm hồn tồn từ tự nhiên với thủ công khéo léo.
về định hướng tổ chức lãnh thổ du lịch và marketing địa phương, việc phát
triền nghề dệt truyền thống có tác dụng thúc đẩy hình thành một cụm tuyến điểm
du lịch hấp dẫn như du lịch sinh thái rừng tràm Trà Sư (Tịnh Biên), du lịch văn
hóa ở HTX dệt Văn Giáo, du lịch sinh thái tại Núi cấm (Tịnh Biên), du lịch tâm
linh ở Núi Sam (Châu Đốc) hoặc sang nước bạn Campuchia tại cửa khẩu Tịnh
Biên. Bên cạnh đó, việc phát triển nghề dệt truyền thống thúc đẩy thành làng
nghề còn góp phần marketing địa phương, quảng bá bản sắc dân tộc, thu hút du
khách và các đối tác đầu tư trong và ngoài nước.
Đối với việc định hướng phát triển bền vững du lịch, phát triển du lịch nói
chung và loại hình du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng nói riêng là một trong
những cách giảm nghèo nhanh chóng vì cho phép lao động chun mơn lẫn bán
Dương Trường Phúc
99
làn! nghề tham gia vào nền kinh tế dịch vụ (UN-WTO, 2008). Bên cạnh những
lợi ích về kinh tế như giải quyết việc làm, tạo ra những sản phẩm tơ lụa có thể
trở thành phương tiện giúp người nghèo tiếp cận tốt hơn vào kinh tế du lịch. Du
lịch làng nghề cịn góp phần bảo tồn, khơi phục và phát huy giá trị văn hóa độc
đáo của cộng đồng địa phương, tạo dựng môi trường du lịch văn hóa đồng thời
giúp cải thiện tốt hơn các cơ sở hạ tầng đi kèm với việc bảo vệ môi trường, từ
đó góp phần phát triển bền vững du lịch địa phương.
Vai trò của phụ nữ trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền
thốn Ị được thể hiện bàng mối liên hệ: phụ nữ là chủ thể của nghề dệt 2- nghề dệt
và Sí n phẩm dệt là tài nguyên cho hoạt động du lịch
phụ 1 lữ tham gia nghề dệt
du lịch góp phần thúc đẩy
giá trị văn hóa truyền thống được giữ gìn và phát huy.
Ở cộng đồng Khmer, phụ nữ và chỉ có phụ nữ mới tham gia vào nghề dệt
truyề n thống. Do vậy, có thề xem nhóm dân số này ở nhiều thế hệ khác nhau là
chủ thể sáng tạo và duy trì giá trị văn hóa truyền thống là bởi: (1) Nghề dệt và
những sản phấm dệt trở thành tài nguyên cho hoạt động du lịch (du lịch văn hóa,
du lịch dựa vào cộng đồng, du lịch nông thôn). Thiếu vắng những sản phẩm thủ
cơng trong các chương trình du lịch này sẽ làm giảm tính hấp dẫn đối với du
khách; (2) Những lợi ích từ hoạt động du lịch thúc đẩy phụ nữ tham gia nhiều
hơn vào nghề dệt, thay vì bán sản phẩm thuần túy thì giờ đây thơng qua “kênh
phân phối” du lịch thu nhập của phụ nữ được tăng lên, vị thế trong gia đình và
xã hội vì thế cũng được cải thiện; và (3) Khi phụ nữ vốn là chủ thế sáng tạo văn
hóa, r ay lại tích cực tham gia nghề dệt và đưa nghề dệt vào du lịch lại trở thành
chủ tl lể bảo tồn giá trị vãn hóa truyền thống.
5. Kết luận
Nghề dệt truyền thống là một trong những khía cạnh của văn hóa vật
thể thỉ hiện bản sắc và cách ứng xử với mơi trường địa lý của một tộc người.
Trong q trình quần cư, người Khmer An Giang giao lưu và tiếp biến văn
hóa tr ỉn nền tảng điều kiện tự nhiên chung đã sáng tạo nên phức hợp văn hóa
đặc sắc mà ví dụ cụ thể là nghề dệt truyền thống vốn gắn liền với nhu cầu ăn
mặc hìng ngày.
Nghề dệt truyền thống đóng vai trị quan trọng trong tiến trình phát triển
du lịclỊi khi chủ trương phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn ở An
Giang và xu hướng phát triển du lịch dựa vào tài nguyên văn hóa bản địa trở nên
thịnh hành. Tính đến thời điểm hiện tại, khi sản xuất thủ công đã được công
nghiệp hóa theo dây chuyền máy móc thì việc nghề dệt vẫn còn tồn tại là điều
100
Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 32, số 2, tr. 93-101
quý báu, có sức hấp dẫn với du khách đến từ đô thị vốn nhàm chán với các sản
phẩm được “Mcdonald's hóa”.
Chủ thể của nghề dệt truyền thống Khmer chính là phụ nữ ở nhiều thế hệ.
Thơng qua nghề dệt, vai trị và giá trị đóng góp của phụ nữ được thể hiện ở hai
phương diện. Đối với sinh kế hộ gia đinh là việc đa dạng hóa thu nhập (bán sản
phẩm và cung cấp dịch vụ du lịch) được xem như chiến lược giảm thiểu rủi ro
trong đời sống và sản xuất ở nông thôn (giá trị kinh tế). Đối với cộng đồng, khi
kết hợp với du lịch, vai trị của phụ nữ được nhìn nhận ở góc độ là những chù
thể văn hóa vừa sáng tạo vừa gìn giữ những giá trị cộng đồng, phản ánh văn hóa
tộc người trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần (giá trị văn hóa - xã hội).
Tài liệu trích dẫn
Blackstone, A. 2003. Gender Roles and Society. In Human Ecology: An Encyclopedia
of Children, Families, Communities, and Environments. ABC-CLIO. Santa
Barbara, CA, pp.335-338.
Đoàn Văn Trường, Nguyễn Thị Thanh Thúy. 2016. “Các yếu tố ảnh hưởng đến vai ưò
giới frong hoạt động thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở nơng thơn hiện
nay”. Tạp chí Khoa học Đại học Mở - TP.HỒ Chỉ Minh, số 11(2), ư.139-150.
Endruweit, G., Trommsdorff, G., & Burzan, N. (Eds.). 1989. Worterbuch der
Soziologie. (Bản dịch Từ điển Xã hội học). Nxb. Thế giới, Hà Nội.
ILO. 2012. Bộ công cụ Hướng dẫn giảm nghèo thông qua du lịch. Tố chức Lao động
Quốc tế.
Mustafa, M. 2011. “Potential of Sustaining Handicrafts as a Tourism Product in
Jordan”. International Journal ofBusiness and Social Science, 2(2), pp. 145-152.
Ngô Văn Lệ. 2014. “Ánh hưởng và tác động của các giá trị tôn giáo đối với đời sống xã
hội vùng Nam Bộ”. Tạp chỉ Khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 2(15), ư.3-12.
Nguyễn Thị Kim Qun. 2017. “Phân cơng lao động và vai ưị của giới ưong nuôi trồng
thủy sản: Nghiên cứu trường họp nuôi tôm sú quảng canh cải tiến ở tỉnh Bạc Liêu”.
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ, số 51(C), ư.64-73.
Nguyễn Thùy Trang, Võ Hồng Tú, Nguyễn Phú Son. 2006. “Vai trò phụ nữ cộng đồng
dân tộc Khmer ưong phát triển kinh tế hộ ở khu vực nông thôn Đồng bằng sơng
Cửu Long”. Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ, số 26(D), ư. 15-21.
Phạm Cao Quý. 2016. “Bảo vệ và phát huy giá trị nghe thủ công truyền thống gắn với
phát triển du lịch”. Tạp chí Di sản Văn hóa, số 3(56), ư. 82-82.
Phạm Ngọc Nhàn, Lê Trần Thành Liêm, Đỗ Ngọc Diễm Phương. 2014. “Vấn đề giới
ưong phân công lao động phát triển kinh tế nông hộ ưên địa bàn huyện Phụng Hiệp
- tỉnh Hậu Giang”. Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ, sổ 33(C), ư.122-127.
Dương Trường Phúc 101
Phạin Thị Phương Hạnh, Lương Minh Hinh, Vũ Thống Nhất, Huỳnh Cơng Tín. 2011.
Văn hóa Khmer - Nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc
gia - Sự thật.
Phạm Thị Tâm. 2019. “Sự thích ứng vai trị giới trong bối cảnh đơ thị hóa từ những
nghiên cứu xã hội học”. Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn (Journal of Social
Sciences and Humanities), số 4 (6), tr.763-773.
Sơn Z'hanh Đa, Kim Phi Rum. 2016. “Vấn đề bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền
thống cùa người Khmer tỉnh Trà Vinh trong thời kì hội nhập”. Tạp chí Khoa học
Đại học Trà Vinh, (22), tr.72-84.
Thạci Thị Dân. 2019. “Vai trò của phụ nữ Khmer ưong bảo tồn và phát huy tiếng mẹ
ỉẻ - Nghiên cứu trường họp thành phố Trà Vinh”. Tạp Chi Khoa học Đại học Trà
''inh, số 33, tr.25-36.
TKAG. 2019. Niên giám Thống kê An Giang năm 2018. Cục Thống kê, An Giang.
Trần Hạnh Minh Phương. 2016. “Phân công lao động ưong gia đình ở Đồng bằng sơng
Cửu Long từ góc nhìn giới”. Tạp chỉ Khoa học Xã hội, số 3 (211), tr.21-37.
Trần Hạnh Minh Phương. 2017. “Việc ra quyết định các vấn đề của gia đình ở Đồng
l ang sơng Cừu Long trong mối quan hệ giới”. Tạp chi Khoa học Đại học cần Thơ,
í ố 50(D), tr.96-107.
UN-WTO. 2008. Policy for the Growth and Development if Tourism in Botswana.
UN WTO.
Võ H )ng Tú, Nguyễn Thùy Trang. 2013. “Thực trạng bình đẳng giới của cộng đồng
d ân tộc Khmer khu vực nơng thơn Đồng bằng sơng Cửu Long”. Tạp chí Khoa học
£>ựỉ' học Cần Thơ, số 26(D), tr.1-8.