Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất khi ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.45 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
NHÀ Ở VÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI LY
HÔN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2013
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP NHÀ Ở VÀ QUYỀN SỬ

Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan

HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC


Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT

7

TRANH CHẤP NHÀ Ở, QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT GIỮA
VỢ VÀ CHỒNG KHI LY HÔN

1.1.

Căn cứ pháp lý xác định nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản
chung, tài sản riêng của vợ chồng khi ly hôn

7

1.1.1. Căn cứ pháp lý xác định nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản
chung của vợ chồng

7


1.1.2. Căn cứ pháp lý xác định nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản
riêng của vợ chồng

18

1.1.3. Căn cứ xác định quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất của
vợ chồng trong một số trường hợp đặc biệt

21

1.2.

Nguyên tắc chung giải quyết tranh chấp về nhà ở, quyền sử
dụng đất giữa vợ và chồng khi ly hôn

26

1.2.1. Tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng đạt được trên cơ sở
hòa giải

26

1.2.2. Nguyên tắc chia đôi tài sản chung là nhà ở và quyền sử dụng
đất của vợ chồng, bảo đảm quyền có chỗ ở cho các đương sự
sau khi ly hơn

27

1.2.3. Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ và con
chưa thành niên


29


1.2.4. Ngun tắc bảo đảm tính năng cơng dụng của nhà ở và quyền
sử dụng đất; bảo đảm lợi ích chính đáng của sản xuất, kinh
doanh và nghề nghiệp

31

1.2.5. Nguyên tắc chia tài sản bằng hiện vật hoặc theo giá trị

33

1.3.

34

Cơ chế giải quyết tranh chấp về nhà ở, quyền sử dụng đất khi
ly hôn

1.3.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp thơng qua hịa giải ở cơ sở

34

1.3.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp về nhà ở và quyền sử dụng đất
khi ly hơn thơng qua Tịa án

39


1.4.

Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử
dụng đất giữa vợ và chồng khi ly hôn

41

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH

43

CHẤP VỀ NHÀ Ở, QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT GIỮA VỢ VÀ
CHỒNG KHI LY HƠN

2.1.

Tình hình chung về giải quyết tranh chấp nhà ở, quyền sử
dụng đất khi ly hôn trong thực tiễn xét xử tại Tòa án

43

2.2.

Một số trường hợp cơ bản giải quyết tranh chấp nhà ở và
quyền sử dụng đất giữa vợ chồng trong các vụ án ly hôn

46

2.2.1. Giải quyết tranh chấp về nhà ở và quyền sử dụng đất là tài sản
riêng của vợ hoặc của chồng


46

2.2.2. Giải quyết tranh chấp về nhà ở và quyền sử dụng đất là tài sản
chung của vợ chồng

51

2.2.3. Giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất là tài sản
mà vợ chồng thuê của nhà nước

55

2.2.4. Giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất trong
trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình

59

2.2.5. Giải quyết tranh chấp liên quan đến nhà ở, quyền sử dụng đất
là tài sản của người khác mà vợ chồng đang quản lý, sử dụng

63


hợp pháp
2.2.6. Giải quyết tranh chấp về nhà ở, quyền sử dụng đất liên quan
đến thế chấp

70


Chương 3: NHỮNG VƯỚNG MẮC BẤT CẤP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM 78
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ TRONG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP NHÀ Ở, QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
GIỮA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN

3.1.

Những vướng mắc bất cập trong việc giải quyết tranh chấp
nhà ở, quyền sử dụng đất giữa vợ chồng khi ly hôn

78

3.1.1. Những vướng mắc bất cập về pháp luật

78

3.1.2. Công tác tổ chức và thi hành Luật Hơn nhân và gia đình

84

3.1.3. Nhận thức pháp luật của đương sự

86

3.2.

87

Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong
giải quyết tranh chấp về nhà ở, quyền sử dụng đất trong các

vụ án ly hơn

3.2.1. Hồn thiện pháp luật về hơn nhân gia đình và pháp luật liên quan

87

3.2.2. Hồn thiện về mặt tổ chức và thi hành Luật Hôn nhân và gia đình 89
KẾT LUẬN

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

95


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

HN&GĐ

: Hôn nhân và gia đình


LĐĐ

: Luật Đất đai

TAND

: Tịa án nhân dân

TANDTC

: Tịa án nhân dân tối cao

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) cho thấy gắn
liền với việc giải quyết các quan hệ nhân thân là các quan hệ về tài sản của vợ chồng
mà cụ thể là việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng… Có thể nói,
trong vụ kiện ly hơn có u cầu chia tài sản là nhà, đất luôn là loại việc thường
xảy ra tranh chấp gay gắt. Bởi vì đối với người Việt Nam, nhà ở và quyền sử dụng
đất có ý nghĩa rất quan trọng khơng chỉ về mặt giá trị mà đó là nơi trú ngụ, là nguồn
sống, nguồn kinh tế cơ bản, chủ yếu của bản thân và gia đình. Ngồi ra, việc phân
chia nhà ở và quyền sử dụng đất khi ly hôn không chỉ đụng chạm đến quyền lợi thiết
thân của các bên đương sự về mặt vật chất mà còn liên quan đến quyền lợi của người
thứ ba, thậm chí của Nhà nước. Cho nên nếu giải quyết vấn đề này khơng hợp

tình, hợp lý sẽ ảnh hưởng khơng nhỏ đến lợi ích của cá nhân, gây nên tình trạng
mất đồn kết giữa các bên đương sự, đồng thời ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã
hội.
Do đó muốn giải quyết đúng đắn vấn đề tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất khi ly
hơn, Tịa án phải tiến hành điều tra, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của các bên đương
sự, phải nắm vững nguồn gốc nhà và đất, hoàn cảnh sống của con cái, tình trạng sinh
sống cụ thể của gia đình mới có thể ra quyết định đúng đắn trong mỗi bản án của
mình. Ngồi ra, trong việc áp dụng pháp luật, Tòa án cũng phải xem xét kỹ lưỡng,
vận dụng nhiều văn bản quy phạm pháp luật không chỉ là Luật HN&GĐ, Luật Đất đai
(LĐĐ) mà còn phải xem xét Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật Nhà ở, Luật Cư trú… và
các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trong giai đoạn hiện nay, việc giải quyết đúng đắn các vụ kiện ly hôn về tranh chấp
nhà ở và quyền sử dụng đất có ý nghĩa đặc biệt to lớn. Việc giải


quyết tranh chấp về bất động sản khi ly hôn phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của
Luật HN&GĐ như: Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng, nguyên tắc bảo đảm
quyền lợi của người vợ và con chưa thành niên, nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ
em… khẳng định quyền sở hữu của cá nhân trong BLDS, đồng thời đảm bảo sự cơng
bằng về lợi ích của các bên đương sự, góp phần bình ổn xã hội dân sự, đảm bảo thống
nhất quản lý đất đai của nhà nước.
Tuy nhiên, hiện nay việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp nhà ở
và quyền sử dụng đất trong các vụ án ly hôn gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Một
phần do quy định chồng chéo của các văn bản pháp luật, một phần do trình độ yếu
kém, chưa đồng đều của các cán bộ Tịa án. Điều đó, dẫn đến tình trạng các đương sự
không đồng ý với bản án sơ thẩm và nộp đơn phúc thẩm tạo nên sự quá tải của tòa
cấp phúc thẩm, từ đó kéo theo một số hệ lụy khác như: Việc giải quyết án chậm, kém
chất lượng, gây tốn kém tiền của, công sức…
Nhận thấy việc giải quyết các tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất
trong các vụ án ly hơn có vai trị quan trọng, là một đề tài phong phú, có ý

nghĩa thiết thực trong đời sống nên tôi đã lựa chọn đề tài "Pháp luật về giải
quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất khi ly hôn" làm luận văn thạc
sĩ của mình với mong muốn góp phần hồn thiện pháp luật.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tà
Mục đích của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu các qui định của luật
thực định về giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly
hơn, tìm hiểu thực tiễn áp dụng luật thực định để giải quyết các tranh chấp về nhà ở
và quyền sử dụng đất trong hoạt động xét xử ly hơn của Tịa án. Từ đó, tìm hiểu
những qui định bất cập, chưa cụ thể, trên cơ sở đó có những nhận xét, kiến nghị về
hướng hoàn thiện pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng
đất của vợ chồng khi ly hôn.
Luận văn được thực hiện với các nhiệm vụ sau:


- Nghiên cứu những vấn đề lý luận trong việc giải quyết tranh chấp
nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng. Luận văn phân tích những quy định
của pháp luật làm căn cứ giải quyết tranh chấp, nguyên tắc giải quyết tranh
chấp, cơ chế giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng
khi ly hơn; phân tích tính kế thừa và phát triển, cũng như những điểm mới
qui định về giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất khi ly hơn theo
Luật HN&GĐ năm 2000 từ đó nêu lên ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp
nhà ở và quyền sử dụng đất khi ly hơn đối với gia đình và xã hội.
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp nhà ở và
quyền sử dụng đất qua hoạt động xét xử của Tòa án. Qua đó, đánh giá về
những thành cơng và hạn chế của việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết
tranh chấp tài sản giữa vợ và chồng khi ly hôn;
- Trên cơ sở phân tích nội dung và thực tiễn áp dụng giải quyết tranh
chấp nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn theo luật thực định,
luận văn nêu một số kiến nghị đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung các qui định
trong Luật HN&GĐ năm 2000 nhằm hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh

chấp nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn.
Từ những nhiệm vụ trên đây, luận văn được nghiên cứu chủ yếu trong
phạm vi luật thực định qui định và việc áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật
hiện hành trong giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ
chồng khi ly hôn và việc vận dụng các quy định đó thơng qua nghiên cứu một
số án trong thực tiễn xét xử của Tòa án.
- Phạm vi nghiên cứu: Giải quyết tranh chấp về nhà ở và quyền sử
dụng đất khi ly hôn thực chất là xác định và chia tài sản là nhà ở và quyền sử
dụng đất của vợ chồng khi ly hôn, cũng như xác định tài sản là nhà ở và


quyền sử dụng đất của người thứ ba có liên quan trong các giao dịch về tài sản
với vợ chồng khi giải quyết ly hơn. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy
định có liên quan đến tài sản là bất động sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ năm
2000, BLDS năm 2005, LĐĐ năm 2003...
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý từ trước đến nay, ở nước ta có rất nhiều đề tài
nghiên cứu về vấn đề ly hơn trong đó bao gồm vấn đề tranh chấp tài sản là
nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng. Đề tài "Pháp luật về giải quyết
tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất khi ly hôn" đã được nghiên cứu, tìm
hiểu dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau dưới nhiều hình thức như luận
văn; khóa luận tốt nghiệp như: Đề tài "Xác định tài sản chung, tài sản riêng
đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng trong tranh chấp về tài sản giữa vợ
chồng khi ly hôn" của nhóm A1 - HS30A Trường Đại học Luật Hà Nội. Ngồi
ra, vấn đề này cịn được nghiên cứu, bình luận, trao đổi thông qua các bài viết
đăng trên các Tạp chí chuyên ngành như: Nghiên cứu lập pháp, Luật học, Dân
chủ và pháp luật, Nhà nước và pháp luật...

Tuy nhiên, việc nghiên cứu một cách tổng thể những khía cạnh pháp
lý trong việc giải quyết tranh chấp tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất của vợ
chồng khi ly hôn và thực tiễn áp dụng pháp luật là một cách tiếp cận mới về
vấn đề này mà hiện nay chưa được khai thác sẽ là nét riêng của luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn đề liên
quan đến pháp luật giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng


đất của vợ chồng khi ly hôn và khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề
được nghiên cứu trong luận văn;
+ Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu qui định của pháp luật hiện
hành với hệ thống pháp luật trước đây ở Việt Nam cũng như pháp luật của một số
nước khác qui định về giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất khi ly hơn.
Qua đó, nêu lên ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất
của vợ chồng khi ly hôn đối với gia đình và xã hội;
+ Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn hoạt động
xét xử của ngành Tòa án, với các số liệu cụ thể giải quyết các tranh chấp từ quan hệ
HN&GĐ liên quan đến tài sản giữa vợ và chồng đặc biệt là nhà ở và quyền sử
dụng đất. Tìm ra mối liên hệ giữa các qui định của pháp luật với thực tiễn áp dụng đã
phù hợp hay chưa? Các lý do? Từ đó xem xét nội dung qui định của pháp luật về
giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn, với thực
tiễn của đời sống xã hội nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề
này.
6. Ý nghĩa khoa học và điểm mới của đề tài
- Luận văn nghiên cứu và chỉ ra những cơ sở lý luận cơ bản trong việc
giải quyết các tranh chấp về nhà ở, quyền sử dụng đất giữa vợ chồng khi ly

hơn. Đó là căn cứ, ngun tắc, cơ chế giải quyết tranh chấp nhà ở, quyền sử
dụng đất của vợ chồng khi ly hôn và ý nghĩa của việc giải quyết này đối với
cá nhân, gia đình và xã hội.
- Luận văn đã phân tích và chỉ ra những vướng mắc trong việc áp
dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về nhà ở, quyền sử dụng đất giữa vợ
chồng khi ly hơn, qua việc phân tích các vụ án xét xử trong thực tế tại các Tòa
án. Sự phân tích thực tế xét xử các vụ việc cụ thể qua hoạt động xét xử của
Tịa án đảm bảo tính thực tiễn và thuyết phục cho việc đưa ra các kiến nghị
sửa đổi bổ sung hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.


- Ngồi ra luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho
việc nghiên cứu và học tập khoa học Luật HN&GĐ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về giải quyết tranh chấp nhà
ở, quyền sử dụng đất giữa vợ chồng khi ly hôn.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về nhà ở, quyền sử dụng
đất giữa vợ và chồng khi ly hôn.
Chương 3: Những vướng mắc bất cập và kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả việc
giải quyết tranh chấp nhà ở, quyền sử dụng đất giữa vợ chồng khi ly hôn.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP NHÀ Ở, QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG KHI LY HÔN

1.1. CĂN CỨ PHÁP LÝ XÁC ĐỊNH NHÀ Ở, QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÀ

TÀI SẢN CHUNG, TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN

1.1.1. Căn cứ pháp lý xác định nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản
chung của vợ chồng
Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về tài sản chung của vợ chồng, theo đó tài
sản chung của vợ chồng gồm:
- Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất,
kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân;
- Thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân có thể
là: Tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ, chồng có được
hoặc tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định BLDS
năm 2005;
- Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên;
- Tài sản mà vợ chồng được tặng, cho chung hoặc thừa kế chung;
- Tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hơn hoặc những tài sản mà
vợ hoặc chồng được thừa kế riêng hay được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn
nhân được vợ chồng đã thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung hoặc theo pháp
luật quy định là tài sản chung.
Theo đó, Điều 219 của BLDS năm 2005 và Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000, tài sản
chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. Sở hữu
chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở


hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung. Do vậy, bình
thường chúng ta không thể xác định được phần tài sản nào là của vợ, phần tài sản nào
là của chồng trong khối tài sản chung hợp nhất, chỉ khi nào có sự phân chia tài sản
chung của vợ chồng như chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân hay trong trường
hợp ly hơn thì mới xác định được phần tài sản của từng người trong khối tài sản
chung đó [13].
Riêng đối với tài sản là quyền sử dụng đất được quy định riêng tại

Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000: "Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được
sau khi kết hơn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc
chồng có được trước khi kết hơn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi
vợ chồng có thỏa thuận…" [20].
Như vậy, nhà ở và quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng được xác định
trong ba trường hợp:
- Nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng do lao động
của vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân;
- Nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng do vợ chồng
được thừa kế chung, tặng cho chung trong thời kỳ hôn nhân.
- Nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản chung cửa vợ chồng do sự thỏa
thuận của vợ chồng.
Để xác định nhà ở và quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng có thuộc một
trong ba trường hợp trên hay khơng thì cần căn cứ vào ba yếu tố sau:
Thứ nhất, căn cứ vào thời điểm nhà ở, quyền sử dụng đất phát sinh khi
có sự tồn tại của quan hệ hôn nhân.
Việc xác định thời điểm phát sinh quan hệ hôn nhân (cũng là thời
điểm phát sinh khối tài sản chung của vợ chồng), theo nguyên tắc chung dựa
trên cơ sở giấy chứng nhận kết hôn bởi lẽ giấy chứng nhận kết hôn ghi rõ thời


điểm quan hệ vợ chồng được nhà nước công nhận do đó nó có ý nghĩa quan trọng
trong thực tế giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng. Ngoài ra, đối với
một số trường hợp đặc biệt nam nữ chung sống như vợ chồng trong quan hệ"hôn
nhân thực tế" được quy định tại Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về thi
hành Luật HN&GĐ năm 2000. Theo đó, việc chung sống như vợ chồng được coi là
có quan hệ hôn nhân và được xác định như sau:
- Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03
tháng 01 năm 1987, ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng
ký kết hơn thì được khuyến khích đăng ký kết hơn; trong trường hợp có u

cầu ly hơn thì được Tịa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của
LHN&GĐ năm 2000.
- Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày
03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện
kết hơn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời
hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm
2003; trong thời hạn này mà họ khơng đăng ký kết hơn, nhưng có u cầu ly
hơn thì Tịa án áp dụng các quy định về ly hôn của LHN&GĐ năm 2000 để
giải quyết. Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hơn
thì pháp luật khơng cơng nhận họ là vợ chồng.
Vấn đề xác định đúng quan hệ hôn nhân, thời điểm phát sinh quan hệ hơn nhân có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp tài sản nhà ở, quyền sử dụng
đất của vợ chồng khi ly hôn. Bởi lẽ, chỉ những quan hệ hôn nhân được nhà nước
cơng nhận khi có u cầu ly hơn thì được tịa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly
hơn, cịn đối với trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng nên nếu có u
cầu ly hơn thì Tịa án thụ lý và tun bố khơng cơng nhận quan hệ vợ chồng; và
không phải là vụ án ly hôn mà sẽ được giải quyết thông qua một bản án dân sự khác
(nếu có tranh chấp).


Ngồi ra, xác định chính xác thời điểm phát sinh quan hệ hôn nhân là
cơ sở chứng minh tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất đó phát sinh trong thời
kỳ hôn nhân hay trước hoặc sau thời kỳ hơn nhân. Từ đó làm cơ sở xác định
tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng khi có tranh chấp.
Thứ hai, căn cứ vào nguồn gốc phát sinh tài sản.
Căn cứ vào Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 thì nhà ở, quyền sử dụng đất
mà vợ chồng "có" được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử
dụng đất là tài sản chung của vợ chồng theo quy định Nghị định số 70/2001/NĐ-CP
ngày 03-10-2001 quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ (sau đây gọi tắt là Nghị

định 70/2001/NĐ-CP) số gồm:
• Quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc mỗi bên vợ hay chồng
được Nhà nước giao kể cả giao khoán là tài sản chung của vợ chồng (các
quyền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, đất nuôi
trồng thủy sản, đất làm muối, đất làm lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở được
Nhà nước giao đất chuyên dùng).
Trong thời kỳ hôn nhân nếu vợ chồng hoặc một bên vợ, chồng được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền giao đất bao gồm cả đất ở, đất nông nghiệp trồng cây, đất lâm
nghiệp để trồng rừng, đất làm muối… thì các loại đất này cũng được xác định là tài
sản chung. Việc xác định tài sản chung căn cứ dựa trên nguồn gốc phát sinh là đất
được giao cho một bên vợ, chồng hoặc giao cho cả hai vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân chứ không căn cứ dựa trên nhu cầu sử dụng thực tế (Điều 24, 25 Nghị định số
70/2001/NĐ-CP).
Ví dụ: Sau khi kết hơn, người chồng đi làm ăn bn bán xa, cịn người vợ ở nhà làm
vườn. Năm 2004, người vợ được nhà nước giao đất nông nghiệp để trồng cây. Căn
cứ theo quy định trên thì quyền sử dụng đất nơng nghiệp mà người vợ được giao là
tài sản chung của hai vợ chồng.
Như vậy, mặc dù đất nông nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối... chỉ được
giao cho một bên nhưng thời điểm giao đất đó trong thời kỳ


hơn nhân thì vẫn thuộc tài sản chung của vợ chồng. Điều này không phụ thuộc vào
việc người chồng hoặc người vợ có trực tiếp sử dụng đất đó hay khơng. Khi vợ chồng
ly hơn, Tịa án sẽ xem xét vấn đề nhu cầu sử dụng đất, đảm bảo tính năng công dụng
của đất để phân chia quyền sử dụng đất trên hợp lý, hợp tình.
• Nhà ở, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng được Nhà nước cho thuê.
Nhà ở, quyền sử dụng đất mà vợ chồng hoặc mỗi bên vợ chồng thuê của nhà nước
sau khi kết hôn là tài sản chung của hai vợ chồng. Do đó, khi ly hôn, tài sản trên phải
được chia theo quy định của pháp luật. Tùy theo phương thức thanh toán tiền đối với
nhà nước là trả tiền thuê hàng năm hay trả tiền thuê một lần và nhu cầu sử dụng,

mức độ đầu tư vào tài sản của cả hai vợ chồng mà Tịa án có sự phân chia theo quy
định tại Điều 25 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP.
• Nhà ở, quyền sử dụng đất mà hai vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung;
Trong thực tế cuộc sống cho thấy, ở Việt Nam hầu hết quan hệ vợ
chồng đều được xây dựng bắt nguồn từ yếu tố tình cảm, tình u. Do đó khi
cuộc sống hịa thuận hạnh phúc, vợ chồng thường không phân biệt tài sản
chung và tài sản riêng của vợ, chồng. Cả vợ và chồng đều mong muốn sử
dụng các loại tài sản nhằm đáp ứng nhu cầu chung của gia đình, của vợ
chồng; giữa vợ chồng thường không phân biệt "ranh giới" giữa tài sản chung
và tài sản riêng; không phân biệt "của anh, của tôi". Sau nhiều năm tháng
chung sống trong quan hệ vợ chồng, cùng chung sức, chung ý chí tạo dựng tài
sản chung của vợ chồng. Đặc biệt với tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất là
tài sản lớn, là một yếu tố góp phần tạo nên một gia đình. Trong quá trình
chung sống, để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt thơng thường vợ chồng sẽ có
sự đầu tư, cơi nới xây dựng lại nhà ở. Tuy nhiên, khi có tranh chấp, giữa vợ
chồng khó chứng minh được nhà ở, quyền sử dụng đất đó thuộc khối tài sản
chung của vợ chồng hay là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Vì vậy, trên


nguyên tắc bảo đảm quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu (theo Điều 164 BLDS
năm 2005) giữa vợ chồng có thể thỏa thuận cho rằng nhà ở, quyền sử dụng đất đó là
tài sản chung của vợ chồng hoặc là tài sản riêng của vợ, chồng hoặc thỏa thuận nhập
tài sản riêng vào tài sản chung. Việc vợ, chồng tự nguyện nhập nhà ở, quyền sử
dụng đất là tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng phải bằng
văn bản theo điều 32 khoản 2 Luật HN&GĐ năm 2000 và khoản 1 Điều 13 Nghị định
70/2001/NĐ-CP. Thực tế giải quyết các tranh chấp về nhà ở và quyền sử dụng đất
giữa vợ chồng cho thấy nhiều trường hợp xác định đâu là tài sản chung của vợ chồng
để chia, đâu là tài sản riêng của vợ, chồng vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó cịn
gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, do tính chất phức tạp của quan hệ tài sản giữa
vợ chồng. Do tính chất cộng đồng của hơn nhân chi phối, nhiều trường hợp tài sản

riêng của một bên đã được bảo đảm cho nhu cầu chung của gia đình mà khơng cịn
nữa; hoặc có sự chuyển hóa, trộn lẫn giữa các loại tài sản chung và tài sản riêng
của vợ chồng trong quá tình sử dụng dẫn tới các ranh giới (căn cứ) ban đầu về tài sản
chung và tài sản riêng giữa vợ chồng khơng cịn nữa và rất khó xác định [8, tr. 99100].
Xuất phát từ thực trạng đó, nhằm bảo đảm nguyên tắc công bằng và
hợp lý, khoản 3 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 đã dự liệu: "Trong trường
hợp khơng có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ chồng đang có tranh chấp
là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung" [20].
Đây là nguyên tắc suy đoán về nguồn gốc tài sản của vợ chồng, lần
đầu tiên được quy định trong Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước ta (trước
đây Luật HN&GĐ năm 1986 không quy định cụ thể về nguyên tắc này). Điều
này cũng phù hợp với nguyên tắc chứng minh thuộc về các bên đương sự theo
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004.
• Nhà ở, quyền sử dụng đất của vợ chồng được chuyển đổi, chuyển
nhượng, nhận thế chấp.


Theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000, nhà ở, quyền sử dụng đất do vợ
chồng nhận thế chấp, chuyển đổi, chuyển nhượng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản
chung. Khoản 3 Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến
tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia
đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ
chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư
kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này
[20].
Theo đó trong thời kỳ hơn nhân mà vợ chồng xác lập giao dịch dân sự
được chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, nhận thế chấp là nhà ở, quyền sử
dụng đất phải có sự thỏa thuận của hai vợ chồng. Việc thỏa thuận của hai vợ
chồng được hiểu là có chữ ký của cả hai vợ chồng trong hợp đồng, hoặc có

văn bản ủy quyền giữa hai vợ chồng khi thực hiện giao dịch dân sự đó. Trong
trường hợp giao dịch dân sự đó được một bên vợ hoặc chồng xác lập trong
thời kỳ hơn nhân mà khơng có sự đồng ý của người chồng hoặc người vợ thì
giao dịch dân sự đó được xem là vơ hiệu do bị lừa dối, giao dịch dân sự vô
hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức theo Điều 132, Điều 134 BLDS
năm 2005. Trừ trường hợp việc xác lập giao dịch dân sự đó được được thực
hiện bằng tài sản riêng của người vợ hoặc người chồng.
Ngoài ra, đối với giao dịch dân sự vơ hiệu về hình thức pháp luật cho phép các bên
thời hạn để thực hiện quy định về hình thức, do đó trong trường hợp mà hợp đồng
chỉ một bên vợ hoặc chồng xác lập nhưng khi có tranh chấp, hai vợ chồng thừa
nhận đó là tài sản chung và cùng đồng ý thực hiện hợp việc chuyển đổi, nhận
chuyển nhượng, nhận thế chấp trên thì giao dịch dân sự đó vấn được cơng nhận
và các bên phải làm lại hợp đồng theo quy định của pháp luật (Điều 137 BLDS
năm 2005).
Ví dụ: Vợ chồng A và B có 500 triệu tiền tiết kiệm, A đã dùng số tiền này để kinh
doanh và có lợi nhuận là 2 tỷ đồng. A dùng số tiền này để ký hợp


đồng nhận chuyển nhượng căn nhà của D ở quận Đống Đa và cho bà C ở. Do mâu
thuẫn, A và B làm thủ tục ly hôn. Khi ly hôn, A cho rằng căn nhà trên là tài sản riêng
của A bởi hợp đồng do một mình A đứng tên nhận chuyển nhượng. B cho rằng căn nhà
đó được mua từ tài sản chung của hai vợ chồng nên đó là tài sản chung của vợ chồng.
Do A không chứng minh được căn nhà trên được mua bằng tài sản riêng của mình
nên Tịa án tun căn nhà trên thuộc tài sản chung của hai vợ chồng. Và vì bà B
không yêu cầu hủy hợp đồng nhận chuyển nhượng trên do vơ hiệu về hình thức và
đồng ý nhận chuyển nhượng căn nhà trên đồng thời yêu cầu muốn được ở căn nhà đó
nên Tịa án quyết định căn nhà trên vẫn thuộc tài sản chung của hai vợ chồng buộc các
bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn.
• Quyền sử dụng đất của vợ chồng được giao chung với hộ gia đình.
• Nhà ở, quyền sử dụng đất của vợ chồng được thừa kế chung, tặng

cho chung.
Việc nhà ở, quyền sử dụng đất vợ chồng được thừa kế chung, được
tặng cho chung là trường hợp xác lập tài sản chung của vợ chồng dựa trên
quyền định đoạt của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật về thừa kế
(Điều 631 Điều 687 BLDS năm 2005).
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng (có thể) được người khác (những người thân thuộc
trong gia đình hoặc bạn bè) tặng cho chung tài sản hoặc được hưởng thừa kế
chung một khối di sản. Những tài sản này thuộc khối tài sản chung của vợ chồng.
Như đối với trường hợp vợ chồng được tặng cho chung, được thừa kế chung mà
người để lại thừa kế hoặc người tặng cho tài sản không phân biệt "kỷ phần" tài sản
cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng. Nhưng nếu trong hợp đồng tặng cho chung hoặc
di chúc để lại thừa kế chung cho vợ chồng mà chủ sở hữu tài sản đã "xác định" kỷ
phần (tỷ lệ) tài sản từ trước cho mỗi bên vợ, chồng thì về nguyên tắc, những tài sản
đó sẽ thuộc tài sản riêng của vợ, chồng. Tài sản này chỉ là tài sản chung khi vợ, chồng
tự nguyện nhập vào khối tài sản chung hay vợ chồng thỏa thuận đó là tài sản chung.


Vấn đề xác định tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp nhận thừa kế phụ
thuộc vào quy định của pháp luật về thừa kế. Bởi lẽ, nếu bố mẹ chết đi khơng để lại
di chúc thì tài sản thừa kế đó sẽ được chia theo pháp luật và chỉ con đẻ mới thuộc
hàng thừa kế còn con dâu hoặc con rể khơng thuộc hàng thừa kế. Ngồi ra, có
nhiều trường hợp khi cịn sống bố mẹ cho vợ chồng nhà ở và đất bằng miệng,
chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng nhà ở và đất đó cho vợ chồng mà bố mẹ chết
đi (không để lại di chúc) thì tài sản đó vẫn thuộc di sản thừa kế của bố mẹ chồng
(hoặc vợ) để lại và được chia thừa kế theo pháp luật. Trong trường hợp này, nếu vợ
chồng người con ly hơn thì Tịa án sẽ xác định kỷ phần nhà ở, quyền sử dụng đất mà
người chồng hoặc người vợ do được thừa kế riêng theo quy định của pháp luật về
thừa kế là tài sản riêng của người đó.
Đối với trường hợp vợ chồng được tặng cho nhà ở và quyền sử dụng
đất thì việc tặng cho đó phải được lập thành văn bản theo khoản 1 Điều 467

BLDS năm 2005: "Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có
cơng chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật
bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu" [25]. Trong đó, văn bản tặng cho
nhà ở và quyền sử dụng đất đó phải ghi đích danh tên của hai vợ chồng thì khi
đó mới được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Đây cũng là một trong
những chứng cứ để chứng minh tài sản trên là tài sản chung hay tài sản riêng
của vợ chồng. Song, trên thực tế cuộc sống, do nhận thức của người dân chưa
cao nên rất nhiều trường hợp bố mẹ tặng cho nhà ở và quyền sử dụng đất cho
vợ chồng bằng miệng và khơng được lập thành văn bản. Chính vì vậy, trong
trường hợp vợ chồng người con ly hơn, bố mẹ thường phủ nhận việc tặng cho
trên để bảo vệ quyền lợi cho con mình. Điều này sẽ ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của phía bên kia.
Thứ ba, một trong những chứng cứ chứng minh nhà ở, quyền sử dụng đất đó là tài sản
chung hay tài sản riêng của vợ chồng là Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở
và/hoặc quyền sử dụng đất.


Theo khoản 2 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: "Trong trường hợp tài sản
thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở
hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng" [20].
Điều này được hướng dẫn cụ thể tại Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP:
"Các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi đăng ký quyền sở hữu phải ghi tên
của cả vợ và chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật Hơn nhân và gia đình
bao gồm: nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật quy định
phải đăng ký quyền sở hữu" [2].
Điều này phù hợp với quy định của LĐĐ năm 2003: "Trường hợp
quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ và chồng thì giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng" [23, khoản 3 Điều 48].
Tuy nhiên trên thực tế, người chồng thường nắm giữ toàn bộ tài sản
trong gia đình và thường đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Vì vậy, việc quy định quyền sử dụng đất đai có được sau khi kết hơn cũng là
tài sản chung của vợ chồng có ý nghĩa bảo đảm sự bình đẳng giữa vợ và
chồng trong quan hệ về tài sản. Trên thực tế việc chia tài sản chung của vợ
chồng sau ly hôn là nhà cửa, quyền sử dụng đất rất phức tạp do các giấy tờ
pháp lý liên quan đến quyền sử dụng đất chỉ đứng tên một người và việc xác
định quyền sử dụng đất là tài sản chung hay riêng để bảo đảm lợi ích chính
đáng của mỗi người là rất khó khăn. Luật HN&GĐ năm 2000 quy định một
cách rõ ràng quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hơn là tài
sản chung, hoặc có được trước khi kết hôn mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản
chung là cơ sở pháp lý cần thiết cho vấn đề giải quyết tranh chấp về đất đai
khi chia tài sản chung của vợ chồng.
Để đảm bảo quyền lợi cho các bên, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-122000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết
số 02/2004/NQ-HĐTP) đã hướng dẫn cụ thể như sau:


Trong trường hợp tài sản do vợ chồng có được trong thời kỳ hôn
nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu nhưng trong
giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên vợ hoặc chồng, nếu khơng
có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng, nếu có tranh chấp
là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu
phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, tặng cho
riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài
sản riêng quy định tài khoản 1 Điều 32… Trong trường hợp không
chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì
theo quy định tại khoản 3 Điều 27 tài sản đó là tái sản chung của
vợ chồng [29].
Như vậy, đối với những trường hợp không ghi tên cả hai vợ chồng thì nếu có tranh
chấp các bên phải xuất trình các giấy tờ khác chứng minh đó là tài sản riêng của
mình, cịn trong trường hợp khơng chứng minh được là tài sản riêng thì đó là tài sản

chung. Đây là quy định mới khẳng định sự bình đẳng vợ chồng trong quan hệ về tài
sản, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ quyền sở hữu của người vợ. Việc
pháp luật quy định quyền được ghi tên của cả vợ và chồng vào Giấy chứng nhận
quyền sở hữu đối với tài sản chung vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sở hữu một mặt là thể chế hóa Điều 174 BLDS năm 2005: "Những tài sản mà
pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì phải được đăng ký" [25] (phù hợp
điểm h, khoản 1 Điều 16 Công ước Cedaw: "Quyền như nhau của cả vợ và chồng đối
với việc sở hữu thu nhập, kiểm soát, quản lý, hưởng thụ và sử dụng tài sản, dù đó là
tài sản khơng phải trả tiền hay đó là tài sản có giá trị lớn"), và là biện pháp bảo đảm
an toàn về mặt pháp lý quyền sở hữu của phụ nữ đối với tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân; mặt khác qua đó có thể tránh được những tranh chấp phát sinh về quyền tài
sản giữa vợ chồng, đồng thời, tạo cơ sở để Tòa án giải quyết một cách đúng đắn việc
phân chia tài sản, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của phụ nữ [16].


Như vậy, một trong những chứng cứ chứng minh tài sản chung của vợ
chồng chính là giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng có ghi tên của
hai vợ chồng.
Quy định trên phù hợp với việc đại diện cho nhau giữa vợ chồng khi thực hiện quyền
và nghĩa vụ trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
Đối với các giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản có giá trị lớn
hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình thì vợ chồng cần phải bàn bạc, thỏa
thuận với nhau thì những giao dịch đó mới có giá trị pháp lý. Điều này được
thể hiện qua việc ủy quyền phải được lập thành văn bản có chữ ký của cả vợ
và chồng (khoản 3 Điều 219 BLDS năm 2005 và khoản 1 Điều 24 Luật
HN&GĐ năm 2000).
1.1.2. Căn cứ pháp lý xác định nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản
riêng của vợ chồng
Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về quyền có tài sản riêng của vợ chồng
như sau:

1. Vợ chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi
kết hơn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ
hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại
khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ chồng có quyền nhập hoặc khơng nhập tài sản riêng
vào khối tài sản chung [20].
Từ quy định trên cho thấy, Luật HN&GĐ năm 2000 khẳng định vợ chồng có quyền
có tài sản riêng, pháp luật tơn trọng và bảo vệ quyền sở hữu riêng của vợ chồng đối
với tài sản này.


Theo đó, pháp luật quy định rõ việc xác định tài sản riêng của vợ
chồng căn cứ vào thời điểm có tài sản và nguồn gốc tái sản. Cụ thể, nhà ở và
quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ hoặc chồng gồm:
- Nhà ở và quyền sử dụng đất mà mỗi bên có trước khi kết hơn.
Trước khi kết hôn, hai bên nam nữ chưa phải là vợ chồng của nhau trước pháp luật.
Theo tính chất nghề nghiệp, công việc của mỗi bên, tài sản là nhà ở, quyền sử dụng
đất do mỗi bên tạo ra thuộc quyền sở hữu của mỗi bên vợ, chồng. Với tư cách là công
dân, vợ, chồng là chủ sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất mà mình có được trước khi kết
hôn và được pháp luật thừa nhận và bảo hộ (Điều 58 Hiến pháp 1992). Xét về nguồn
gốc, những tài sản này không phải do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, không
chịu sự tác động bởi tính chất cộng đồng của quan hệ hơn nhân và lợi ích chung của
gia đình. Trong xã hội ta hiện nay, Đảng và Nhà nước bằng pháp luật với các chính
sách, đường lối đổi mới và phát triển nền kinh tế - xã hội khuyến khích và bằng
nhiều biện pháp tạo điều kiện cho công dân tạo ra thu nhập, tài sản làm giàu cho cá
nhân, gia đình và xã hội nhằm thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của
con người ngày càng cao và phong phú.
Nhà ở, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được trước khi kết hơn có
thể do chính cơng sức của mỗi bên tạo ra theo tính chất nghề nghiệp, cơng

việc của mình; cũng có thể nhà ở, quyền sử dụng đó có được do người khác
chuyển dịch quyền sở hữu của mình cho vợ, chồng thơng qua các giao dịch
dân sự như: Mua bán, thừa kế, tặng cho... Chính vì vậy, tài sản phát sinh trước
thời kỳ hơn nhân là thuộc quyền sở hữu riêng của mỗi bên.
- Nhà ở và quyền sử dụng đất có trong thời kỳ hôn nhân do được tặng
cho riêng, thừa kế riêng, được chia riêng cho vợ hoặc chồng.
Nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ chồng còn được xác
định trong trường hợp mặc dù tài sản đó phát sinh trong thời kỳ hôn nhân
nhưng nguồn gốc của tài sản đó là do vợ, chồng được thừa kế riêng, được


×