LUẬN VĂN:
Đảng bộ tỉnh Hịa Bình lãnh đạo đổi
mới giáo dục phổ thông từ
năm 1991 đến 2001
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhận
thức sâu sắc về vị trí, vai trị quan trọng của GD - ĐT trong sự nghiệp cách mạng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” mà “dốt thì dại, dại
thì hèn”. Vì vậy ngay từ buổi đầu mới giành được chính quyền, Người kêu gọi: “Một
trong những cơng việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”[51,
tr.36].
Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam, GDPT
được Đảng ta nhìn nhận là một bậc giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt, vừa là “bản lề”,
vừa là “xương sống” của tồn bộ q trình hình thành và phát triển nhân cách của lứa
tuổi nhi đồng, thiếu niên và thanh niên, giúp các em từ bước đi chập chững, từ nhận biết
đơn sơ lên lắm bắt được nhiều kiến thức cơ bản về văn hóa chữ, văn hóa làm người và
định hướng được cuộc sống của mình là phục vụ sự nghiệp của Đảng, của dân tộc. Vì
vậy từ ngày nước nhà được độc lập, đặc biệt là trong hơn nửa thập kỷ qua, sự nghiệp phát
triển GDPT đã đạt được những thành tựu to lớn: Quy mô không ngừng được mở rộng;
chất lượng ngày một được nâng cao và từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu cung cấp
nguồn nhân lực cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Với vị trí và vai trị to lớn
đó, Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về cải cách giáo dục lần thứ 3 (năm
1979) đã chỉ rõ: “Giáo dục phổ thơng là nền tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh
tương lai của một dân tộc. Nó đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển toàn diện con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[64, tr.23].
Là một tỉnh miền núi, nằm ở vùng cửa ngõ Tây Bắc của Tổ quốc, tỉnh Hịa Bình là nơi tụ
hội nhiều điều kiện thuận lợi để trở thành trung tâm Văn hóa - Giáo dục của vùng Tây
Bắc. Với đặc điểm địa lý giáp với đồng bằng sông Hồng và thủ đơ Hà Nội, Hịa Bình
được biết đến khơng chỉ nổi tiếng với cơng trình thủy điện lớn nhất Đơng Nam á, mà cịn
nổi tiếng với một nền văn hóa đặc sắc, cái nơi “văn hóa Hịa Bình”.
Là mảnh đất có chiều dày lịch sử, phát huy truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất
của dân tộc, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, Đảng bộ và
nhân dân các dân tộc tỉnh Hịa Bình đã kề vai, sát cánh làm nên những trang sử hào hùng,
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Bước vào công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước, với tinh thần “đoàn kết, dân chủ, kỷ cương và đổi mới”,
Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh tiếp tục vượt lên mọi khó khăn, thách thức để
hồn thành xuất sắc các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT - XH của tỉnh, phấn đấu trở
thành vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và vùng Tây Bắc, đặc biệt từng bước xây dựng
thị xã Hịa Bình trở thành thành phố Hịa Bình trên trục đô thị Hà Nội - Hà Đông - Lương
Sơn - Hịa Bình.
Nhận thức vai trị to lớn của GDPT trong hệ thống giáo dục quốc dân cũng như phát triển
GDPT nhằm “Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần
tích cực vào cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng tỉnh Hịa Bình
ngày càng giàu đẹp, văn minh và công bằng xã hội” [88, tr.314], trong những năm qua,
Đảng bộ tỉnh Hịa Bình đã thường xun chăm lo, tạo điều kiện để GDPT từng bước
được đổi mới và phát triển vững chắc. Do vậy, từ chỗ 99% dân số mù chữ, đội ngũ giáo
viên, học sinh, cơ sở vật chất trường lớp nghèo nàn, lạc hậu (năm 1945), đến nay, tỉnh đã
đạt chuẩn quốc gia về PCGDTH - CMC và PCGD THCS, đội ngũ giáo viên các ngành
học, bậc học khơng chỉ lớn về số lượng mà cịn mạnh cả về chuyên môn; cơ sở vật chất,
trang thiết bị dạy và học ngày càng hiện đại, bộ mặt ngành giáo dục ngày càng đổi mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, sự nghiệp đổi mới GDPT ở Hịa Bình trong
những năm qua cịn nhiều yếu kém, bất cập, thể hiện ở chỗ: chất lượng giáo dục các cấp
học, bậc học, ngành học còn thấp và chưa đồng đều; việc dạy và học ở vùng KT - XH
khó khăn còn hạn chế; cơ sở vật chất còn thiếu thốn, lạc hậu. Bên cạnh đó, năng lực trình
độ tổ chức quản lý của đội ngũ cán bộ, giáo viên cịn thấp so với u cầu nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho xã hội. Đây là những vấn đề đặt ra cần phải
giải quyết.
Từ những vấn đề nêu trên, việc thực hiện các mục tiêu, chiến lược phát triển KT - XH
của Đảng bộ tỉnh trong giai đoạn (2001 - 2005), trong đó GDPT đóng vai trị quan trọng
trong việc cung cấp nguồn nhân lực, càng trở nên có ý nghĩa quan trọng và cấp bách hơn
bao giờ hết. Không ngừng đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa chất lượng GDPT trong thời
gian tới cũng như góp tiếng nói chung vào mục tiêu chiến lược phát triển KT - XH của
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Đảng bộ tỉnh Hịa Bình là địi hỏi của thực tiễn. Vì vậy, tơi chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh
Hịa Bình lãnh đạo đổi mới giáo dục phổ thơng từ năm 1991 đến 2001” làm đề tài luận
văn thạc sỹ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Xuất phát từ vị trí, vai trị của GD - ĐT nói chung, GDPT nói riêng đối với sự phát triển
KT - XH của đất nước, trong những năm qua, các tổ chức, học giả trong và ngồi nước rất
quan tâm, đã cơng bố một số cơng trình nghiên cứu, bài viết bàn về thực trạng, phương
hướng phát triển sự nghiệp GDPT.
- Tổ chức Văn hóa - Khoa học - Giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO), chương trình
phát triển của Liên Hợp Quốc (undp) với dự án: “Nghiên cứu tổng thể giáo dục - đào tạo,
phân tích nguồn nhân lực VIE89/022” và dự án: “Báo cáo đánh giá tình hình giáo dục và
đào tạo của Việt Nam hiện nay”, được tiến hành trong 2 năm (1991-1992).
- Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, giới nghiên cứu, các chuyên gia đầu ngành
về GD - ĐT đã đã tìm hiểu, nghiên cứu trên nhiều góc độ khác nhau như: Tác phẩm
“Vấn đề giáo dục” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục, Hà Nội (1990); “Sự nghiệp
giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa” của Phạm Văn Đồng, Nxb Sự thật, Hà Nội
(1978); “Phát triển mạnh mẽ giáo dục và đào tạo phục vụ đắc lực sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” của tổng bí thư Đỗ Mười, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
(1991)...Các tác giả là những người giữ cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà
nước; hệ thống những quan điểm, tư tưởng của Đảng về GD - ĐT.
- Đảng Cộng sản Việt Nam với các Nghị quyết chuyên đề bàn về thực trạng và phương
hướng đổi mới GD - ĐT như: NQTw 4 (khóa VII), NQTw 2 (khóa VIII), NQTW 6 (khóa
IX). Những tài liệu này là một hệ thống những quan điểm, tư tưởng khoa học, bao gồm
cả khái niệm, mục đích, nội dung, cách dạy, cách học, cách quản lý, cách lãnh đạo ngành
giáo dục. Đây là cơ sở lý luận cho đường lối chính sách giáo dục đã và đang tiến hành ở
nước ta, cho nền khoa học giáo dục Việt Nam, cho chiến lược xây dựng con người mới
của đất nước Việt Nam XHCN.
Bên cạnh đó, các cơng trình nghiên cứu của tập thể, cá nhân nhà khoa học như: Ban
Khoa giáo Trung ương, Bộ GD - ĐT; các đồng chí đã từng là lãnh đạo ngành GD - ĐT
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
như: Tác phẩm “ Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội”, Nxb Khoa học xã hội (1996) của Phạm Minh Hạc; “ Tiếp tục nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện”, Tạp chí Cộng sản, số tháng 9 (2002) của Trần Hồng Qn; “Đổi mới
về nhận thức vị trí, vai trị của giáo dục và đào tạo”, Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 1
(1992) của Nguyễn Minh Hiển…cũng là cơ sở quan trọng giúp cho người viết có được
cái nhìn rõ nét về định hướng chiến lược phát triển GD - ĐT ở Việt Nam cũng như quá
trình tổ chức thực hiện đường lối phát triển GD - ĐT của Đảng để từ đó khẳng định vai
trị lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới GD - ĐT.
- Cho đến nay, chưa có tác giả nào nghiên cứu một cơng trình về GD - ĐT Hịa Bình (đặc
biệt là GDPT) như một cơng trình khoa học chun khảo. Đây là vấn đề đặt ra mà người
viết nhận thấy cần phải đi sâu nghiên cứu. Thơng qua các Báo cáo chính trị của đại hội
Đảng bộ, HĐND và UBND tỉnh Hịa Bình, các báo cáo tổng kết của Sở GD - ĐT Hịa
Bình, người viết tìm hiểu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hịa Bình đối với sự
nghiệp đổi mới GD - ĐT nói chung, GDPT nói riêng trên các mặt: đề ra chủ trương,
đường lối, tổ chức thực hiện, kết quả, trong giai đoạn (1991- 2001).
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu và trình bày có hệ thống q trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hịa Bình về
GDPT từ năm 1991 đến 2001 (chủ trương, đường lối, biện pháp thực hiện đổi mới
GDPT).
- Đánh giá khách quan, khoa học về thành tựu, hạn chế và nguyên nhân quá trình lãnh
đạo đổi mới GDPT của Đảng bộ tỉnh Hịa Bình.
- Rút ra một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình đối với sự nghiệp
đổi mới GDPT trong giai đoạn (1991- 2001) góp phần phục vụ cho việc đổi mới GDPT
trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
* Đối tượng nghiên cứu:
- Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hịa Bình về sự nghiệp đổi mới GDPT.
- Thực tiễn đổi mới GDPT của tỉnh thể hiện ở ba bậc: tiểu học, THCS, THPT.
- Những kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn trên.
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
* Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hịa Bình về đổi mới GDPT và kết quả
thực hiện trong giai đoạn (1991- 2001).
* Về thời gian:
Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hịa Bình về đổi mới GDPT trong 10
năm đổi mới (từ năm 1991 đến năm 2001); từ thời điểm tại kỳ họp thứ IX, Quốc hội khóa
VIII quyết định tái lập tỉnh Hịa Bình (8 - 1991) đến Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hịa
Bình lần thứ XIII tháng (1 - 2001).
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
* Cơ sở lý luận:
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới GDPT. Đây là cơ sở lý luận cho
việc nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Hịa Bình đối với GDPT (1991 - 2001).
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp lịch sử, phương pháp lơgíc và kết hợp sử dụng một
số phương pháp khác như: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so
sánh, điền dã…để thực hiện đề tài.
* Nguồn tư liệu:
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ lịch sử, tác giả sử dụng nguồn tư liệu chủ yếu sau:
- Về kinh điển: tác giả chọn lựa các bài nói, bài viết của Các Mác, Ăng ghen, Lênin và
Hồ Chí Minh bàn về giáo dục.
- Các Văn kiện, Nghị định, Chỉ thị, Quyết định của Đảng và Nhà nước; của Tỉnh ủy,
HĐND và UBND tỉnh Hịa Bình về GDPT.
- Một số bài phát biểu, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ GD - ĐT;
Tỉnh ủy, Sở GD - ĐT tỉnh Hịa Bình.
- Các văn bản, báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về GDPT.
- Các báo cáo của Sở GD - ĐT tỉnh Hịa Bình, Phịng Giáo dục các Huyện, Thị xã trong
tỉnh.
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
- Các cơng trình, bài viết của các chun gia nghiên cứu, các luận văn, luận án về lĩnh
vực GDPT đã được công bố.
- Các tài liệu, sách báo nước ngoài của các tổ chức, học giả bàn về GD - ĐT ở Châu á,
Việt Nam trong những năm gần đây.
- Các bài báo, Tạp chí số ra hàng ngày, hàng tháng được đăng tải trên các phương tiện
thông tin đại chúng…
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Trình bày một cách hệ thống quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện đổi mới GDPT của
Đảng bộ tỉnh Hịa Bình trong giai đoạn (1991 - 2001).
- Rút ra một số kinh nghiệm từ quá trình trên.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả
GDPT của tỉnh trong thời gian tới, từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu đào tạo nguồn
nhân lực phục cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước nói chung, phát triển KT XH của tỉnh Hịa Bình nói riêng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; nội dung chính
của luận văn được chia thành 2 chương 6 tiết.
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Chương 1
Đảng bộ tỉnh Hịa Bình lãnh đạo đổi mới giáo dục
phổ thông trong những năm 1991-1996
1.1. Một số nét về tỉnh hịa bình
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội
Hịa Bình là một tỉnh miền núi nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc của Tổ quốc, có vị trí địa lý
quan trọng của vùng chuyển tiếp từ đồng bằng lên vùng núi, điểm trung chuyển sức hút
ảnh hưởng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của thủ đô Hà Nội.
Nằm trong giới hạn 20º19´- 21°08´ vĩ bắc và 104°48´- 105°50 ´kinh đơng, phía Bắc giáp
tỉnh Phú Thọ, phía Đơng giáp tỉnh Hà Tây, phía Tây giáp tỉnh Sơn La, phía Nam giáp
tỉnh Ninh Bình, Hà nam và Thanh Hóa, Hịa Bình có diện tích tự nhiên 4.662,53 km².
Phần lớn diện tích của tỉnh Hịa Bình là đất lâm nghiệp chiếm 46,5%. Đất nông nghiệp
chỉ chiếm 15,3% (trong đó đất cấy lúa chỉ chiếm 5,9%), cịn lại là núi đá vôi và đồi núi
trọc.
Được thành lập từ ngày 22- 6 - 1886, khi chính quyền thực dân Pháp kí Nghị định cắt
vùng đất có nhiều đồng bào Mường cư trú thuộc các tỉnh Hưng Hóa, Sơn Tây, Hà Nội và
Ninh Bình để thành lập một tỉnh mới gọi là tỉnh Mường (tỉnh lỵ đặt tại Chợ Bờ). Tỉnh
Mường bao gồm 4 phủ: Vàng An, Lương Sơn, Lạc Sơn và chợ Bờ. Đến ngày 5 - 9 1896, tỉnh lỵ tỉnh Mường được chuyển về làng Vĩnh Diệu, xã Hịa Bình (phía tả ngạn
sơng Đà, đối diện xã Phương Lâm). Từ đó tỉnh Mường được gọi là tỉnh Hịa Bình và địa
giới của tỉnh về cơ bản đã được ổn định. Sau năm 1954, các châu được chuyển thành đơn
vị hành chính cấp huyện. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa V, kì họp thứ 2, ngày
1 - 4 - 1976, hai tỉnh Hịa Bình và Hà Tây sát nhập thành tỉnh Hà Sơn Bình và chính thức
đi vào hoạt động. Năm 1991, Quốc hội khóa VIII, kì họp thứ IX, đã quyết định điều
chỉnh lại địa giới và chia cắt tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh Hà Tây và Hịa Bình.
Hiện nay, tỉnh Hịa Bình có 10 huyện và 1 thị xã, bao gồm 195 xã, 8 phường và 11 thị
trấn. Tỉnh lỵ Hòa Bình, nay là thị xã Hịa Bình, cách Hà Nội 76 km về phía Tây. Đường
quốc lộ 6 đi qua Hịa Bình dài 125 km, nối liền Hà Nội, đồng bằng Bắc Bộ với Tây Bắc
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
và Thượng Lào. Các tuyến đường 12, 15, 21 đã nối liền Hịa Bình với các tỉnh Ninh
Bình, Thanh Hóa và Hà Nam. Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2002, tỉnh Hịa Bình
có 776,8 nghìn người. Hịa Bình là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc anh em, trong đó có 6
dân tộc chính. Dân tộc Mường đông nhất: Chiếm 62,98%, dân tộc Kinh: 27,84%; dân tộc
Thái: 4,45%; dân tộc Tày: 2,63%; dân tộc Dao: 1,50%; dân tộc H’Mơng: 0,45%.
Địa hình Hịa Bình bị chia cắt phức tạp, có độ dốc lớn. Vùng núi cao hiểm trở nằm ở phía
Tây Bắc với độ cao trung bình 600 - 700m so với mặt nước biển, với độ dốc 30 - 35°, có
nơi dốc trên 40°. Phía Đơng Nam là vùng núi thấp với độ cao trung bình 100 - 200m và
độ dốc 20 - 25°. Trên dải cao nguyên đá vôi chạy suốt từ Phong Thổ (Lai Châu) đến bờ
biển Ninh Bình, hoạt động cacxtơ hóa đã tạo ra bồn địa giữa núi có điều kiện cư trú
thuận lợi (địa hình thấp, khá bằng phẳng, đất đai màu mỡ, có nguồn nước…) hình thành
lên các xứ Mường trù phú sinh sống.
Khí hậu ở Hịa Bình có đặc điểm nổi bật là nóng ẩm và mưa nhiều theo mùa và hay có
thiên tai, mưa lũ, bão tố, gió lốc, hạn hán…Nhiệt độ trung bình từ 22,9°C - 25°C; những
tháng nhiệt độ cao thường vào tháng 6, tháng 7, tháng 8 nhiệt độ trên dưới 30°C; lượng
mưa hàng năm từ 1500mm - 2500mm và độ ẩm trung bình hàng năm 80% - 85% [89,
tr.8].
Hịa Bình có hai con sơng chính: Sơng Đà bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua các
tỉnh Tây Bắc - Việt Nam ra Việt Trì nhập vào sơng Hồng, có chiều dài chảy qua Hịa
Bình 151km. Sông Bôi, bắt nguồn từ Kỳ Sơn, chảy qua huyện Kim Bơi, Lạc Thủy ra Nho
Quan (Ninh Bình), có chiều dài qua Hịa Bình 66km. Ngồi ra cịn có các sơng Bưởi,
sơng Bùi, sơng Lạng…Hồ lớn nhất của tỉnh Hịa Bình là hồ sơng Đà với diện tích mặt
nước trên 9000ha và dung tích 9,5 tỉ m³. Đây khơng chỉ là cơng trình thủy điện lớn nhất
cả nước với tổng công xuất 1920Mw và lượng thủy năng 50 tỷ kw/h mà cịn là cơng trình
thủy lợi cung cấp nguồn nước phục vụ sản xuất sinh hoạt, nuôi trồng thủy hải sản của
tỉnh cũng như tạo ra khu du lịch lòng hồ đầy triển vọng.
Thiên nhiên đã tạo ra cho Hòa Bình nhiều cảnh quan đẹp và kỳ thú như: núi Cột Cờ
(huyện Tân Lạc) hang Can (huyện Kỳ Sơn) hang Trại (huyện Lạc Sơn) hang Đồng Nội
(huyện Lạc Thủy) các khu du lịch Vua Bà, Chợ Bờ, suối nước khoáng Mớ Bà (huyện
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Kim Bôi)…Nhờ bàn tay lao động cần cù và sáng tạo của mình, nhân dân các dân tộc ở
đây đã tạo nên nền văn hóa Hịa Bình nổi tiếng với những bản làng đẹp của đồng bào
Thái (bản Lác - Mai Châu), của dân tộc Mường (bản Đốm - thị xã Hịa Bình), cùng với
trang phục thổ cẩm đầy màu sắc, đặc sản rượu cần của địa phương…đã mang đến cho
Hịa Bình những điểm du lịch vừa là nơi điều dưỡng có giá trị văn hóa cao.
Với đặc điểm của điều kiện tự nhiên như trên, đã tác động rất lớn đến chiến lược
phát triển GD - ĐT của Hòa Bình. Bởi lẽ, bên cạnh những thuận lợi, là một tỉnh Miền
Núi, Hịa Bình cịn gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với những vùng nhiều đồng bào dân
tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ. Nơi đây, điều kiện KT - XH cho con em
theo học còn hạn chế, giao thơng đi lại cịn khó khăn... Đây là vấn đề đặt ra đối với Đảng
bộ tỉnh, cần có sự quan tâm chỉ đạo và sự phối hợp của nhiều cơ quan ban ngành, từng
bước đưa giáo dục Hịa Bình vượt qua những khó khăn khắc nhiệt của tự nhiên.
Quán triệt tinh thần đổi mới toàn diện đất nước theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, xuất phát từ thực tiễn tình hình phát triển KT - XH của địa phương. Trong các văn
kiện, Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hịa Bình khóa XI (1992), khóa XII
(1996) và khóa XIII (2001), chủ yếu đưa ra những mục tiêu trọng tâm là: ổn định và đẩy
mạnh phát triển KT - XH, giải phóng năng lực sản xuất; từng bước chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH, HĐH, bằng việc phát triển mạnh mẽ tiểu thủ công nghiệp, xây
dựng - công nghiệp và phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ; tăng trưởng kinh tế gắn
với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng, từng bước
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thực hiện mục tiêu, chiến lược do các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hịa Bình
đề ra, giai đoạn 1991 - 2001, tình hình phát triển KT - XH ở Hịa Bình có bước chuyển
biến rõ nét. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm thời kỳ 1991 - 1995 đạt 7,8%
và đạt 7,9% thời kỳ 1996 - 2001. GDP thu nhập bình quân đầu người năm 1991 đạt 738
nghìn đồng, năm 1995 đạt 1,518 triệu đồng, năm 2000 là 2,3827 triệu đồng [89, tr.424].
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hịa Bình đã và đang diễn ra theo hướng
giảm dần tỉ trọng của nông - lâm - ngư nghiệp, tăng dần tỉ trọng của xây dựng và dịch vụ.
Tiến trình này phù hợp với xu thế chung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước trong
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
thời kỳ đổi mới cũng như trong toàn bộ quá trình CNH, HĐH, được thể hiện qua biểu đồ
sau:
Biểu đồ 1.1: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế [89, tr.427].
Nm 1991
Công
nghiệp Xây dựng
19%
Dịch vụ
21%
Nông Lâm
nghiệp
60%
Nm 2000
Công
nghiệp Xây dựng
17%
Dịch vụ
34%
Nông L©m
nghiƯp
49%
Bên cạnh đó, số hộ đói, nghèo từ 36,6% năm 1996 đã giảm còn 14,4% năm 2000. 100%
số xã, phường, thị trấn trong tồn tỉnh có điện lưới quốc gia [89, tr.429]. Điều này có
nghĩa là việc thực hiện quan điểm công bằng trong giáo dục của Đảng bộ tỉnh Hịa bình
ngày càng có điều kiện được qn triệt sâu rộng.
Ngành giáo dục cũng góp phần đào tạo cho tỉnh một đội ngũ cán bộ có trình độ khoa học
kỹ thuật khá cao. Tính đến ngày 1- 4 - 1999, tổng số cán bộ khoa học kỹ thuật làm việc
trong các ngành kinh tế Hịa Bình là 10.929 người. Trong đó, trình độ cao đẳng có 5570
người, đại học có 5296 người, thạc sỹ có 52 người, tiến sỹ có 11 người. Ngồi ra cịn có
đội ngũ cơng nhân đơng đảo đó là lực lượng lao động rất quý.
Mạng lưới y tế phát triển đến tận xã, phường. Đến năm 2000, tồn tỉnh có gần 2000
giường bệnh và 2156 cán bộ y tế với trên 400 bác sỹ; hàng chục đề tài khoa học trực tiếp
phục vụ phòng và chữa bệnh cho nhân dân.
Các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao cũng được tổ chức rộng rãi và
thường xuyên hơn; phong trào xây dựng nếp sống văn minh, đời sống văn hóa mới trong
cưới xin, tang lễ, tơn giáo, tín ngưỡng được đổi mới theo hướng gọn nhẹ, tiết kiệm và
đúng pháp luật. Các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là Phát thanh truyền hình, báo
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
chí từng bước được nâng cấp, đưa 100% số hộ được nghe Đài Tiếng nói Việt Nam và
60% số hộ được xem truyền hình vào năm 2000 [89, tr.430].
Bên cạnh những chuyển biến to lớn, tích cực nói trên, song sự phát triển về KT - XH của
tỉnh Hịa Bình trong giai đoạn này cũng bộc lộ khơng ít những hạn chế, khó khăn. Quy
mơ tăng trưởng và quy mơ tổng sản phẩm quốc nội (GDP) còn nhỏ bé so với quy mô
tăng trưởng nền kinh tế của cả nước. Năm 1995, GDP của tỉnh mới đạt 1.098,6 tỉ đồng và
năm 2000 đạt gần 1.830,79 tỉ đồng (tính theo giá thực tế) [89, tr.424]. Thu nhập bình
qn đầu người cịn thấp; năm 2002 đạt 2,7 triệu đồng (bằng 40,5% so với mức bình
quân chung của cả nước là 6,7 triệu đồng) [89, tr.430 - 431]. Nền kinh tế chủ yếu vẫn
dựa vào nông - lâm nghiệp, chiếm tới gần 50% tổng GDP tồn tỉnh; cơng nghiệp và xây
dựng mới chỉ chiếm 17,13% trong cơ cấu GDP (thấp hơn nhiều so với tỷ trọng công
nghiệp và xây dựng trong tổng GDP của cả nước là 36,73%) [89, tr.427]. Một số nơi
vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ, cơ cấu kinh tế truyền thống vẫn cịn đậm nét; giao
thơng đi lại, thơng tin liên lạc cịn gặp nhiều khó khăn. Trình độ dân trí, văn hóa, giáo
dục cịn nhiều bất cập, phần đơng các hộ gia đình ở nơng thơn, vùng sâu, vùng xa, vùng
lịng hồ trình độ học vấn cịn thấp, trong đó có khơng ít phụ nữ và thanh niên. Một số
cộng đồng dân cư, các hủ tục, tập quán lạc hậu như ma chay, cưới xin, lễ tết…vẫn còn
khá nặng nề, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống.
Từ thực trạng phát triển KT - XH của Hịa Bình như trên. Có thể nói, so với mặt bằng
chung của cả nước, Hịa Bình vẫn là một tỉnh Miền Núi cịn nghèo, những khó khăn về
điều kiện tự nhiên, về phát triển KT - XH rõ ràng ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược phát
triển GD - ĐT trên địa bàn tỉnh, nhất là những nơi có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn.
Do vậy, phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, tiếp tục đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới GD - ĐT là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành công của
sự nghiệp CNH, HĐH mà Đảng bộ tỉnh Hịa Bình đã đề ra.
1.1.2. Truyền thống văn hóa
Nhân dân các dân tộc tỉnh Hịa Bình có niềm tự hào là quê hương của một nền văn hóa,
đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hình thành, phát triển của lồi người nói
chung và con người Việt Nam nói riêng. Đó là nền văn hóa Hịa Bình, nền văn hóa của
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
dân cư nông nghiệp sơ khai cách đây hàng vạn năm và được đại hội lần thứ nhất các nhà
tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội vào tháng giêng năm 1932 thừa nhận.
Văn hóa Hịa Bình có niên đại C14 sớm nhất từ 16.470 ± 80 năm đến 18.420 ±150 năm
trước Công nguyên và tồn tại đến khoảng 7.500 năm trước Cơng ngun. Trong đó, tuyệt
đại đa số các di tích Hịa Bình có niên đại trong khung 12.000 năm đến 7.500 năm trước
Công nguyên.
Dựa trên căn cứ các di chỉ khảo cổ Hịa Bình là những minh chứng lịch sử để khẳng định
điều đó như di chỉ: hang Bưng (Đà Bắc), hang Tùng, hang làng Gạo (Kim Bôi), hang
Đồng Nội (Lạc Thủy) hang Trại (Lạc Sơn)…Đặc biệt di chỉ hang Bưng là một trong
những di chỉ thuộc nền văn hóa Hịa Bình. Bằng phương pháp phân tích bào tử phấn hoa,
đã tìm ra phấn hoa thuộc họ rau đậu, đã chứng tỏ những cư dân ở đây là chủ nhân mảnh
đất này đã thực hiện một bước nhảy vọt lớn lao trong đời sống nhân loại: từ săn bắn, hái
lượm đã tiến lên trồng rau củ và đã tiến một bước dài hơn là biết trồng cấy lúa. Như vậy,
có thể nói dân cư Hịa Bình là một trong những dân cư đầu tiên phát minh ra nông nghiệp
trồng trọt và Việt Nam - Hịa Bình là một trong những trung tâm phát minh nông nghiệp
sớm nhất thế giới.
Đến nay trên địa bàn tỉnh Hịa Bình đã phát hiện được nhiều trống đồng cổ, chủ yếu là
hai loại: Loại I Hêgơ (thường gọi là trống Đông Sơn), loại II Hêgơ (cịn gọi là trống
Mường). Chiếc trống sơng Đà là một trong những chiếc trống đẹp nhất thế giới (có niên
đại khoảng thế kỷ VI đến thế kỷ IV trước Cơng ngun). Ngồi ra, các nhà khảo cổ học
cịn tìm thấy những cơng cụ bằng đồng như: rìu lưỡi xéo, lưỡi giáo, thuổng, dao cắt,
thạp…Đây là những minh chứng khẳng định dân tộc Mường chính là người Việt cổ.
Tự hào là mảnh đất có chiều dày lịch sử, nhân dân các dân tộc trong tỉnh cũng tạo cho
mình một sắc thái đặc sắc riêng. Đồng bào Mường có lễ hội Cồng Chiêng, có trường ca
“đẻ đất, đẻ nước”…Đồng bào Thái có chữ viết riêng từ lâu đời với trường ca “sống trụ
sôn sao”…Tiếng sáo cùng những làn điệu dân ca H’Mông say đắm đã tạo ra sự phong
phú đa dạng về văn hóa của một tỉnh nhiều dân tộc, góp phần vào sự phong phú đa dạng
của nền văn hóa Việt Nam.
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Trong lịch sử phát triển của mình, Hịa Bình có bề dày văn hóa, nhưng do nhiều nguyên
nhân, nền giáo dục Hịa Bình phát triển rất chậm. Qua hàng ngàn năm sống trong điều
kiện kinh tế chậm phát triển, mang tính tự cấp, tự túc, lại bị chế độ lang đạo, thực dân
thống trị cực kỳ tàn bạo, lạc hậu và bảo thủ đã kìm hãm trình độ dân trí của dân nhân các
dân tộc trong tỉnh. “Điều này đã khiến Cơng sứ Hịa Bình Rênhiê (Regnier) xem đó như
một sai lầm cần phải sửa chữa” [89, tr.237, 264].
Sau khi chấm dứt việc thi chữ Hán vào năm 1919, thực dân Pháp chủ trương thực hiện
đào tạo một lớp trí thức mới nhằm đáp ứng yêu cầu cai trị của chúng. ở Hịa Bình, cho
đến nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Pháp mới mở 6 lớp sơ đẳng tiểu học tại Vụ
Bản, Kim Bôi, Lương Sơn, Cao Phong và Suối Rút; mỗi lớp có 30 học sinh được dạy đến
trình độ biết đọc, biết viết, biết làm tính. Do vậy, tồn tỉnh Hịa Bình lúc này có khoảng
180 học sinh trên khoảng 60.000 dân (trung bình 3 học sinh/1000 dân) [89, tr.264].
Khơi dậy tinh thần học tập, chống nạn mù chữ; nhiều làng đông dân đã tự mời thầy để
dạy cái chữ cho con em trong làng và các làng lân cận. Những trường làng và liên làng
được thành lập ngày một nhiều. Đến giữa năm 30 thế kỷ XX, Hịa Bình có 13 trường do
dân tự mở gồm: 6 trường ở châu Lạc Sơn, 2 trường ở châu Lương Sơn, 1 trường ở châu
Kỳ Sơn, 1 trường ở châu Đà Bắc, 1 trường ở châu Mai Châu, 1 trường của người Mán
Sơn Đầu và một trường của người Mán Đeo Tiền [89, tr.264 - 265]. Trước tình hình đó,
chính quyền thực dân ở Hịa Bình quyết định sát nhập một số trường, viện cớ học sinh có
thể học lên chương trình cao hơn, thực tế là để chúng dễ kiểm soát.
Theo báo cáo của Thanh tra giáo dục Hịa Bình, đến tháng 6 - 1935, tồn tỉnh mới có 140
học sinh trong đó 117 học sinh người Kinh, 22 học sinh Mường, 1 học sinh người Thái
và có 2 người thi đậu bằng Sơ học yếu lược (tương đương bằng tốt nghiệp tiểu học hiện
nay). Đến tháng 6 - 1936 đã lên đến 161 học sinh (tăng 21 học sinh so với năm 1935),
trong đó có 141 học sinh người Kinh, 20 học sinh người Mường. Số học sinh được cấp
học bổng là 13 học sinh [89, tr.265]. Đây là một tiến bộ đáng kể trong lịch sử phát triển
nền giáo dục của Hịa Bình.
Với tính cách cần cù lao động, nghị lực trong cuộc sống đầy khó khăn vất vả, thật
thà chân chất và giàu lịng nhân ái, mến khách; tình gắn bó keo sơn giữa những người
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
cùng cộng đồng. Nhân dân các dân tộc trong tỉnh không ngừng phát huy truyền thống lâu
đời, tinh thần học tập, vượt lên những khó khăn trong cuộc sống. Đây là những cơ sở
giúp cho học sinh Hịa Bình sớm tiếp thu được những tinh hoa của thời đại trước biến
thiên của lịch sử, góp phần xây dựng và phát triển KT - XH của tỉnh qua các thời kỳ.
1.2. Quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thơng ở tỉnh Hịa Bình
trước khi tái lập tỉnh (1991)
1.2.1. Giáo dục phổ thơng ở tỉnh Hịa Bình, trong những năm từ 1945 - 1975
Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2 - 9 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
Tun ngơn độc lập tun bố khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngay trong
tháng 9 - 1945, chính phủ ta đã quyết định thành lập “nha bình dân học vụ”. Các trường
học trong cả nước đã nhanh chóng khai giảng năm học mới - mở đầu cho quá trình xây
dựng nền giáo dục dân chủ nhân dân, thay thế cho nền giáo dục thực dân. Hịa cùng
khơng khí sơi nổi của cả nước, tỉnh bộ Việt Minh và ủy ban nhân nhân tỉnh Hịa Bình đã
quyết định thành lập “ty bình dân học vụ” để chỉ đạo triển khai cơng tác “bình dân học
vụ” tới các huyện, xã, bản, làng, trong toàn tỉnh. Với khí thế cách mạng của những ngày
đầu tổng khởi nghĩa thắng lợi, nhân nhân các dân tộc tỉnh Hịa Bình đã nhiệt liệt hưởng
ứng lời kêu gọi chống nạn “thất học” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào tháng 10 - 1945.
Phong trào bình dân học vụ được dấy lên khắp các làng bản. Với phương châm người
biết chữ dạy người chưa biết chữ; người dạy, người học đều tận dụng thời gian để dạy và
học. Dù còn nhiều khó khăn nhưng đêm đêm ở khắp các bản làng đều đỏ đèn của các lớp
học bình dân học vụ. Các lớp học được tổ chức ngay trên nhà sàn, giữa buổi làm nương
hay trong những phiên chợ. ở một số chợ như: chợ Phương Lâm (thị xã Hòa Bình), chợ
Đồn (Lương Sơn), chợ Gị Chè (Kim Bơi), chợ Suối Rút (Mai Châu), chợ Vụ Bản (Lạc
Sơn)…người đi chợ phải qua kiểm tra, vừa được dạy thêm dăm ba chữ mới được vào
chợ. Khắp các bản làng đều có khẩu hiệu với các dòng chữ: “đi học là yêu nước”, “mỗi
lớp bình dân là một tổ tuyên truyền kháng chiến”, “có học thì kháng chiến mới thắng
lợi”…
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Cùng với phong trào bình dân học vụ, phong trào xóa mù chữ cũng phát triển rộng khắp
trong tồn tỉnh. Năm 1948, xã Thanh Nông huyện Lương Sơn (nay thuộc huyện Kim
Bơi) đã thanh tốn xong nạn mù chữ và vinh dự được Bác Hồ gửi thư khen ngợi.
Năm 1950, thực hiện chủ trương cải cách giáo dục lần thứ nhất của Đảng và Nhà nước,
ngành GD - ĐT Hòa Bình đã xác định rõ mục đích của giáo dục là phục vụ kháng chiến,
kiến quốc với phương châm: Khoa học, dân tộc và đại chúng. Đây là bước chuyển cơ bản
của nhà trường kiểu cũ sang nhà trường dân chủ nhân dân với hệ thống giáo dục 9 năm.
Mục tiêu giáo dục lúc đó của tồn ngành là: Giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những
công dân lao động tương lai, trung thành với chế độ dân chủ nhân dân và có đủ phẩm
chất, năng lực phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân, bồi dưỡng cho học sinh tinh thần
dân tộc, lịng u nước, chí căm thù giặc, tinh thần yêu lao động. Do vậy giai đoạn này,
tỉnh Hịa Bình có trường trung học đầu tiên là trường Lạc Long Quân. Đến năm 1951,
trường đổi tên thành trường cấp II Hồng Văn Thụ.
Tháng 1- 1953, Ty Bình dân học vụ và ty thanh tra tiểu học được sát nhập thành Ty giáo
dục Hịa Bình. trong thời gian này, tỉnh Hịa Bình có cuộc chỉnh huấn nhằm nâng cao
lịng u nước, lập trường giai cấp cho tồn thể đội ngũ giáo viên của ngành giáo dục,
phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc.
Thời kỳ 1954 - 1965. Đây là thời kỳ cả nước cùng chung nhiệm vụ chống đế quốc mỹ
cứu nước, tiến tới thống nhất tổ quốc. Trong bối cảnh đó, ngành giáo dục Hịa Bình tiếp
tục thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về tiến hành cải cách giáo dục lần thứ hai
theo hệ thống giáo dục 10 năm. Do vậy, đã thúc đẩy hệ thống GDPT không ngừng phát
triển. Các xã đều có các trường cấp I, cấp II, huyện có trường cấp III; trường Hồng Văn
Thụ có thêm trường cấp I, cấp II; trường Lý Tự Trọng (thị xã Hịa Bình); trường Vụ Bản
(Lạc Sơn); trường Lạc Long Qn (Lạc Thủy)…Con em các dân tộc trong tỉnh được đến
trường ngày một đơng hơn. Ngồi ra, các phong trào như “dạy tốt, học tốt”, “xây dựng
kỷ cương, tình thương, trách nhiệm”,“vở sạch chữ đẹp”…được phát động rộng khắp ở
các trường học.
Phong trào xóa mù chữ cũng được triển khai trong tồn tỉnh. Đầu năm 1961, Hịa Bình là tỉnh
miền núi đầu tiên hồn thành cơng tác xóa mù chữ và vinh dự được đón phó chủ tịch nước
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Tơn Đức Thắng dự lễ mừng cơng về xóa mù chữ và trao tặng huân chương Lao động hạng
nhất cho ngành giáo dục của tỉnh.
Cũng trong thời gian này, hưởng ứng phong trào miền xuôi đi xây dựng kinh tế, văn hóa
và lập nghiệp ở miền núi, năm 1959, tỉnh Hịa Bình nhận được sự hỗ trợ của các tỉnh và
đơn vị như: Nghệ An, Thanh Hóa, Trường sư phạm miền núi Trung ương, Đại học sư
phạm Hà Nội I. Hịa Bình đã tiếp nhận 86 giáo viên và hàng chục sinh viên tình nguyện
lên cơng tác ở địa phương. Do vậy, hàng loạt các trường cấp I, cấp II tiếp tục được thành
lập như: trường Ngọc Lương (Yên Thủy), Suối Rút (Mai Châu), Hợp Thịnh, Thịnh Lang,
Dân Hạ, Thu Phong(Kỳ Sơn), Mãn Đức, Tử Nê (Tân Lạc), Vĩnh Tiến, Thanh Lương
(Kim Bôi). Đặc biệt, được sự quan tâm của tỉnh ủy và chính quyền địa phương, tháng 10
- 1961, tỉnh Hịa Bình đã thành lập khu học xá và phát động phong trào thi đua “hai tốt”.
đây là một sáng tạo trong phát triển sự nghiệp GD - ĐT của tỉnh Hịa Bình.
Khơng ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, ngành học phổ thông tổ chức tốt các kỳ thi
giáo viên dạy giỏi, thi đồ dùng dạy học. Ngành GD - ĐT Hịa Bình chủ trương xóa nạn
mù chữ đến đâu, tiến hành bổ túc văn hóa đến đó và chống hiện tượng tái mù chữ. Tỉnh
đã chỉ đạo thành lập Trường phổ thông lao động của tỉnh và Trường phổ thông lao động
ở các huyện. Các lớp bổ túc văn hóa được mở ngay ở các cơ quan và địa phương, nhằm
nâng cao trình độ văn hóa cho cán bộ và nhân dân.
Khi chiến tranh bước vào thời kỳ ác liệt, nhiều thầy giáo và học sinh của ngành GD - ĐT
của tỉnh Hịa Bình đã hăng hái tình nguyện nhập ngũ lên đường đi chiến đấu. Nhiều học
sinh với quyết tâm cao đã viết đơn bằng máu xung phong vào bộ đội và tham gia lực
lượng vũ trang. Tiêu biểu là các em học sinh trường cấp II Hồng Văn Thụ, nhiều người
đã lập cơng xuất sắc và được tặng thưởng danh hiệu cao quý trong quân đội. Đây thể
hiện là sự nối tiếp truyền thống chống giặc ngoại xâm của cha anh và quê hương.
Thời kỳ 1965 - 1975. Năm 1965 đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, các trường
học, thầy và trò đều phải đi sơ tán về các bản làng. Mặc dù vậy, với tinh thần quyết tâm
cao, thầy và trị ln duy trì bám trường, bám lớp dạy và học.
Thực hiện chỉ thị 237 của Thủ tướng Chính phủ và chỉ thị 26 của Bộ GD - ĐT về công
tác lãnh đạo sản xuất trong các trường học. Trước đó, ngày 1 - 4 - 1958, Trường Thanh
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
niên lao động xã hội chủ nghĩa Hịa Bình ra đời với mơ hình vừa lao động, vừa học văn
hóa, đã thu hút đông đảo con em các dân tộc trong tỉnh vào học tập, lao động và rèn
luyện. Đây là trường “vừa học, vừa làm” đầu tiên ở Việt Nam với phương châm giáo dục
của nhà trường là thực hiện “học đi đôi với hành”. Ngày 17 - 8 - 1962, trường đã vinh dự
được đón Bác Hồ về thăm, Bác đã ghi trong sổ vàng truyền thống của trường dòng chữ:
“phải học tập tốt, lao động tốt, cố gắng mãi, tiến bộ mãi”. Đây không chỉ là yêu cầu đối
với Trường Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hịa Bình và cịn là mục tiêu chung
cho tồn bộ hệ thống GD - ĐT của cả nước.
Từ mô hình Trường Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hịa Bình, trường đã trở thành
một điển hình giáo dục khơng chỉ ở trong nước mà cịn có ảnh hưởng tới một số nước
khác. Nhiều đoàn khách từ các nước bạn Lào, Cuba…đã tới thăm quan và học tập kinh
nghiệm. Không ngừng xây dựng và trưởng thành, thời kỳ này Trường luôn là đơn vị dẫn
đầu các trường vừa học vừa làm và được nhận cờ thi đua xuất sắc nhất của Bộ giáo dục
trao tặng tại đại hội thi đua “hai tốt” toàn miền Bắc (12 - 1966). Ngoài ra các trường 19 - 5,
Công nghiệp A thị xã Hịa Bình cũng ra đời và đóng góp thêm một phương thức dạy và học
mới phục vụ đắc lực vào sự nghiệp phát triển GD - ĐT của tỉnh.
Với sự nỗ lực cố gắng của toàn ngành GD - ĐT Hịa Bình; tháng 12-1966, trường cấp III
Hồng Văn Thụ tiếp tục được Bộ giáo dục công nhận là 1 trong 9 trường tiên tiến toàn
Miền Bắc. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi
đua dạy tốt và học tốt” [53, tr.403], các trường, các cấp học, ngành học trong tỉnh đã phát
động phòng trào thi đua “dạy tốt, học tốt”. Các trường điển hình tiên tiến như: Ngổ
Lng, Định Cư, Thu Phong, Kim Bình, Vĩnh Tiến ln là lá cờ đầu của ngành giáo dục
tỉnh. Song, thời gian này do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh phá hoại, các trường, lớp sư
phạm không đáp ứng đủ số lượng giáo viên, Ty giáo dục tỉnh Hịa Bình đã phải xin các
tỉnh bạn một số giáo viên để bổ sung vào đội ngũ giáo viên của tỉnh. Bên cạnh đó, để
nâng cao chất lượng giáo dục, tỉnh đã tiến hành sát nhập một số trường như: Trường sư
phạm bổ túc văn hóa Lê Hồng Phong nhập với trường Trung cấp sư phạm; trường sư
phạm cấp I Mai Châu, Đà Bắc nhập với trường sư phạm cấp I của tỉnh. Cũng trong thời
gian này, ngành GD - ĐT Hịa Bình tiếp tục mở thêm hệ sư phạm 10 +3 để đáp ứng nhu
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
cầu về giáo viên và khai giảng khóa đầu tiên vào năm học 1971 - 1972, với 2 lớp Toán Lý và Văn - sử. Do yêu cầu của tình hình mới, Trường sư phạm 10 +3 Hịa Bình tiến
hành sát nhập với Trường Cao đẳng sư phạm Thường Tín (Hà Tây) để tiếp tục làm
nhiệm vụ đào tạo giáo viên. Vì vậy, hàng năm trường đã đào tạo được 400 - 500 giáo
sinh, trong đó phần đơng là các giáo sinh dân tộc thiểu số trong tỉnh. Hệ thống trường sư
phạm trên đây đã đóng góp một phần quan trọng vào việc phát triển đội ngũ giáo viên và
sự nghiệp GD - ĐT của tỉnh Hịa Bình. Miền nam hồn tồn giải phóng, đất nước thống
nhất, ngành GD - ĐT Hịa Bình cùng cả nước lại bước tiếp vào một thời kỳ mới với
những nhiệm vụ chính trị nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang.
1.2.2. Giáo dục phổ thông ở Hịa Bình từ 1975 đến 1991
Ngày 30 - 4 - 1975, miền Nam hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến
lên xây dựng CNXH, nhưng những khó khăn trước mắt đặt ra cũng rất nặng nề.
Trước yêu cầu và nhiệm vụ mới của cách mạng, ngày 27 - 12 - 1975, Quốc hội nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tại kỳ họp thứ II, Quốc hội (khóa V) đã ra nghị quyết về việc
hợp nhất hai tỉnh Hà Tây và Hịa Bình thành một tỉnh mới, đặt tên là tỉnh Hà Sơn Bình.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, việc hợp nhất được tiến hành khẩn trương và nhanh
chóng đi vào hoạt động. Trong bối cảnh đó sự nghiệp phát triển giáo dục Hịa Bình cũng gắn
liền với mục tiêu phát triển KT - XH của tỉnh Hà Sơn Bình và đạt được những kết quả đáng
chú ý.
Riêng về tỉnh Hịa Bình, từ năm 1976 - 1980, sự nghiệp giáo dục Hịa Bình có bước phát
triển mới ở các ngành học, đặc biệt là ngành học mẫu giáo và bổ túc văn hóa. Các xã đều
có trường cấp I và hầu hết có trường cấp II (trừ một số xã vùng cao), riêng cấp III mỗi
huyện có một trường. Với phong trào thi đua “hai tốt”, các điển hình dạy tốt, học tốt
được xuất hiện, chất lượng qua các kỳ thi năm học có sự chuyển biến tích cực.
Năm học 1976 - 1977, số học sinh tốt nghiệp cấp III đạt tỷ lệ 82,7%, cấp II đạt 87,5%,
cấp II bổ túc đạt 92%. Trong chiến dịch ánh sáng văn hóa đã xóa mù chữ cho 3.470
người; hoàn thành việc hợp nhất cấp I, cấp II để chuẩn bị cho việc cải cách giáo dục.
Năm học 1977 - 1978, cơng tác bổ túc văn hóa và mẫu giáo đều thực hiện vượt mức kế
hoạch, ngành học phổ thông tiếp tục phát triển khá, nhiều trường cấp III đã có sự chuyển
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
biến theo phương thức “vừa học, vừa làm”, thực hiện tốt việc kết hợp giữa Nhà nước và dân
nhân cùng làm, nhiều nơi đã chú trọng tăng cường xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất, kỹ
thuật phục vụ cho năm học mới.
Trong năm học 1978 - 1979, các ngành học, cấp học tiếp tục phát triển, đặc biệt ở các
huyện miền núi. Số học sinh cấp II tăng từ 10 - 20%, cấp III tăng 20% (riêng huyện Đà
Bắc tăng 110%). Cá biệt, huyện Yên Thủy là đơn vị dẫn đầu toàn tỉnh hoàn thành phổ
cập cấp I cho tồn dân và xã Ngổ Lng (Tân Lạc) hồn thành phổ cập cấp II trong độ
tuổi [88, tr.53 - 54].
Tuy nhiên với những kết quả đạt được, song công tác giáo dục vẫn còn yếu kém thể hiện
ở chỗ: chất lượng giảng dạy và học tập không đồng đều, đội ngũ giáo viên các cấp so với
sự phát triển của trường vẫn còn yếu kém, cơ sở vật chất của các trường cịn nghèo nàn,
thiếu thốn…những hạn chế đó đã ảnh hưởng rất lớn đến quy mô, chất lượng của toàn
ngành giáo dục, từng bước cần phải khắc phục hơn nữa.
Thời kỳ 1981 - 1985, vượt lên hoàn cảnh của hai cuộc chiến tranh biên giới, cùng
những khó khăn về tình hình phát triển KT - XH (1976 - 1980). với sự nỗ lực cố gắng
của thầy và trò, sự nghiệp phát triển giáo dục Hà Sơn Bình đã đạt được những bước tiến
nổi bật.
Trước hết, quán triệt tinh thần Nghị quyết 14/NQ - TW của Bộ chính trị (1 - 1979) về cải
cách giáo dục đã xác định rõ ba mục tiêu của cải cách giáo dục là: Làm tốt việc chăm sóc và
giáo dục thế hệ trẻ ngay từ tuổi thơ ấu cho đến lúc trưởng thành; thực hiện phổ cập giáo dục
toàn dân; đào tạo và bồi dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ lao động mới. Nghị quyết
chỉ rõ: “trong cải cách giáo dục lần này, phải làm cho công tác giáo dục thấu suốt hơn
nguyên lý: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền
với xã hội” [64, tr.4]. Với tinh thần đó, ngày 25 - 8 - 1981, tỉnh Hà Sơn Bình ra nghị quyết
chun đề về cơng tác giáo dục. Tiếp đó, ngày 29 - 8 - 1981, UBND tỉnh Hà Sơn Bình đã ra
chỉ thị số 21/CT - UB đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng của các ngành trong
tỉnh đối với sự nghiệp giáo dục.
Có được những động lực quan trọng như vậy, sự nghiệp giáo dục tỉnh Hà Sơn Bình đã
nhanh chóng có những chuyển biến rõ nét. Ngành đã tiến hành khẩn trương công tác đào
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên. Đến năm 1985, tồn ngành có trên
2 vạn cán bộ, giáo viên (bao gồm cả 2000 giáo viên mẫu giáo khơng nằm trong biên
chế), trong đó giáo viên cấp I chiếm 11%, cấp II chiếm 42%, cấp III chiếm 9 % và các
trường sư phạm chiếm 2% [88, tr.97].
Việc bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên đạt kết quả khá. 68,5% giáo viên cấp I đạt
hệ chuẩn 10 + 2; 78.2% giáo viên cấp II đạt hệ chuẩn 10 + 3 và Cao đẳng sư phạm; 87%
giáo viên cấp III đạt hệ chuẩn 10 + 4 [88, tr.97]. Đội ngũ giáo viên tỉnh Hà Sơn Bình
được đào tạo có hệ thống, có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần chịu đựng khó khăn,
nhất là giáo viên miền núi. Dù đời sống cịn nhiều khó khăn, thiếu thốn song đại bộ phận
giáo viên bám trường, bám lớp, nhiều đồng chí thực sự là tấm gương sáng của ngành.
Về cơng tác xã hội hóa giáo dục, nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Sơn Bình cùng các cấp ủy
Đảng, chính quyền, đồn thể chăm lo cho sự nghiệp giáo dục với phương châm “nhà
nước và nhân dân cùng làm”. Trên thực tế, nhiều địa phương, đơn vị trong tỉnh đã
chuyển thành “nhân dân làm, nhà nước hướng dẫn, hỗ trợ”. Do đó đến năm 1985, ngành
giáo dục có gần 700 trường học, trong đó có: 422 trường PTCS, 36 trường THPT, 5
trường trường Cao đẳng sư phạm và Trung học sư phạm [88, tr.97].
Tính trong 10 năm (1975 - 1985) ngành giáo dục tỉnh Hà Sơn Bình đã tu bổ, sửa chữa và
xây dựng được 7.120 phòng. Trong đó, số phịng gạch ngói là 4.284 phịng (chiếm 70%).
Tổng số vốn đầu tư 412 triệu đồng (nhà nước đầu tư 125 triệu đồng) [88, tr.98]. Sách
giáo khoa, nhất là sách cho các lớp cải cách và thiết bị trong nhà trường cũng được chú ý
hơn.
Thực hiện tốt phương châm cải cách: phát triển đi đôi với củng cố mà trọng tâm là nâng
cao chất lượng toàn diện chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng, hướng nghiệp kỹ thuật
tổng hợp cho các nhà trường, cải tiến phương pháp giảng dạy, gắn liền với nhiệm vụ kinh
tế, chính trị của địa phương, do vậy, về công tác tổ chức trong hệ thống giáo dục của tỉnh
cũng được sắp xếp lại. Riêng cấp I thực hiện chương trình thay sách cải cách giáo dục.
Việc huy động trẻ em trong độ tuổi đến trường đạt tỷ lệ khá cao (vùng đồng bằng là 98%,
miền núi là 83%). Tổng số học sinh cấp I trong toàn tỉnh năm học 1984 - 1985 là 254.026
em, chiếm 15,03 % dân số (năm học 1975 - 1976 là 204.006 em). Học sinh cấp II là
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
90.826 em và học sinh cấp III là 30.284 em [88, tr.99]. Ngành học phổ thơng, nhất là
THPT có nhiều cố gắng trong cơng tác giáo dục tồn diện về văn hóa, khoa học, về đạo
đức lối sống, về hoạt động văn nghệ thể dục, cơng tác đồn, về lao động sản xuất và
hướng nghiệp. Đáng chú ý là tỉnh Hà Sơn Bình đã xây dựng được 8/36 trường THPT vừa
học vừa làm, trong đó có những trường vươn tới trường kiểu mới của cải cách giáo dục
như trường THPT Lạc Thủy, THPT Hồng Dương, THPT Công nghiệp A - B và trường
Hoàng Văn Thụ…Với phương pháp giáo dục toàn diện như vậy, năm học 1984 - 1985,
thi tốt nghiệp của các cấp học đạt trên 90%.
Phong trào xóa mù chữ, phổ cập cấp I phát triển khá tốt. Trong 5 năm 1981 - 1985 tồn
tỉnh đã xóa mù chữ cho 7.960 người, trong đó có 4.404 người thuộc khu vực miền núi,
18/18 huyện, thị xã, 365 phường, thị trấn và 316 cơ quan xí nghiệp, nơng - lâm trường
hồn thành phổ cập cấp I cho 354.192 người là cán bộ, công nhân, nhân dân lao động
[88, tr.100].
Thực hiện mạnh mẽ chương trình “ánh sáng văn hóa miền núi”, riêng khu vực Hịa Bình
có 10 huyện, 1 thị xã đã hoàn thành phổ cập cấp I toàn dân từ năm 1982 (huyện Yên
Thủy là huyện dẫn đầu tỉnh Hà Sơn Bình về phổ cập cấp I, hồn thành năm 1979 và phổ
cập cấp II cho toàn bộ cán bộ huyện, xã, đảng viên và thanh niên ưu tú). Ngoài ra, cịn có
trên 40 xã, phường thuộc thị xã Hịa Bình, huyện Lạc Sơn, Lạc Thủy, Tân Lạc và 3/4 cơ
quan xí nghiệp hồn thành phổ cập cấp II [88, tr.100].
Phong trào thi đua “hai tốt” tiếp tục phát triển rộng khắp ở các địa bàn trong tỉnh, các
điển hình tiên tiến vẫn được giữ vững và phát huy tác dụng tốt. Đặc biệt, năm 1985,
Trường Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hịa Bình và xã Ngổ Lng, hai đơn vị
duy nhất của tỉnh Hà Sơn Bình được hội đồng nhà nước tuyên dương danh hiệu anh hùng
lao động về thành tích giáo dục. Đây khơng chỉ là niềm vinh dự, tự hào của sự nghiệp
giáo dục miền núi mà còn là niềm tự hào chung của các dân tộc tỉnh Hà Sơn Bình.
Thời kỳ 1981 - 1985, sự nghiệp giáo dục tỉnh Hà Sơn Bình vẫn cịn nhiều khó khăn, yếu
kém chưa được khắc phục. Chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp so với yêu cầu,
biểu hiện là tình hình lưu ban, bỏ học khá cao; có sự chênh lệch khá lớn về chất lượng
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
giáo dục giữa các trường tiên tiến, trường trọng điểm về cải cách giáo dục với các trường
diện đại trà, giữa các trường ở thị xã với nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi.
Tình trạng thiếu giáo viên cấp I, giáo viên khu vực miền núi khá phổ biến, đời sống của đa
số cán bộ giáo viên rất khó khăn khiến họ không yên tâm với nghề. Cơ sở vật chất, trang
thiết bị của ngành vẫn quá nghèo nàn và thiếu thốn, kinh phí đầu tư cho giáo dục tuy có tiến
bộ song vẫn khơng đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu của công tác giáo dục. Số trường
xây dựng bằng tranh tre, nứa lá cịn cao, chính sách đối với giáo viên vùng cao, vùng sâu
chưa được thực hiện tốt…Đây là những khó khăn khơng chỉ riêng đối với tỉnh Hà Sơn Bình
mà cịn là những khó khăn chung của cả nước trong bối cảnh lúc bấy giờ. Song, với những
kết quả to lớn đã đạt được, sự nghiệp giáo dục của tỉnh đã góp phần quan trọng vào việc ổn
định tình hình, chính trị - xã hội của địa phương.
Thời kỳ 1986 - 1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của đảng đã mở ra
cơng cuộc đổi mới tồn diện trên đất nước ta.
Quán triệt tinh thần nghị quyết đại hội lần thứ VI của Đảng, nghị quyết đại hội lần thứ IV
của Đảng bộ tỉnh Hà Sơn Bình (10 - 1986) và quyết tâm thực hiện lời dạy của chủ tịch
Hồ Chí Minh “dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt” [53,
tr.403]. Năm học 1985 - 1986, tồn tỉnh có 44 vạn học sinh, học viên các ngành học, năm
học 1986 - 1987 đã tăng lên 47 vạn người. Song, thời gian này ngành giáo dục tỉnh Hà
Sơn Bình bộc lộ một số vấn đề đáng quan tâm như: Chất lượng giáo dục toàn diện chưa
cao nên học sinh sau khi ra trường chưa thích ứng kịp với u cầu, địi hỏi của đời sống
xã hội. Mặt khác, tỷ lệ tái mù chữ khá cao, tình trạng xuống cấp làm cho “trường khơng
ra trường, lớp không ra lớp” khá phổ biến; khu vực Hịa Bình thiếu giáo viên nghiêm
trọng chưa được đáp ứng; nhiều nơi cấp ủy, chính quyền chưa thực sự quan tâm đúng
mức đến công tác giáo dục, chưa kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã
hội…trước tình hình đó, ngày 19 - 8 - 1987, tỉnh ủy Hà Sơn Bình đã ra chỉ thị số 07/CT TU “Về việc đẩy mạnh một số công tác cấp bách trong sự nghiệp giáo dục”. Tiếp đó, tại
kỳ họp lần thứ 11, HĐND tỉnh khóa X (10 - 1987) ra nghị quyết chuyên đề về công tác
giáo dục và chỉ rõ: việc quan trọng hàng đầu và phải tiến hành ngay là kiện toàn đội ngũ
giáo viên, ở miền núi đào tạo đủ giáo viên cấp I, cấp II theo địa chỉ và bố trí dạy đúng
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
mơn; có chính sách khuyết khích giáo viên đồng bằng tình nguyện phục vụ lâu dài ở
miền núi; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật trong các nhà trường; giáo dục toàn
diện để xây dựng nhân cách XHCN cho học sinh; nâng cao chất lượng cuộc vận động
“mỗi thầy cô là một tấm gương cho học sinh noi theo”; coi trọng tổ chức tốt cho giáo
viên; kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Với tinh thần đó, đội ngũ giáo viên của tỉnh không ngừng được tăng cường về số lượng và
chất lượng. Tính đến năm 1990, tồn ngành có 22.510 cán bộ, giáo viên; riêng khu vực Hịa
Bình có 6.631 giáo viên. Số đào tạo mới trong 3 năm (từ 1987 - 1989) bao gồm: 2.500 giáo
viên cấp I, 1.000 giáo viên cấp II và 150 giáo viên cấp III. Số giáo viên này phần lớn được bổ
sung cho khu vực miền núi. Ngồi ra, ngành đã bồi dưỡng chuẩn hóa cho 2.500 giáo viên các
cấp [88, tr.174].
Cấp ủy, chính quyền địa phương đã quan tâm hơn đến sự nghiệp giáo dục. Tiếp tục thực
hiện phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”, trong 5 năm 1986 - 1991, tỉnh Hà
Sơn Bình xây dựng và tu sửa 60 trường cao tầng, 300 trường có phịng học kiên cố 1
tầng, bàn ghế đủ cho học sinh học hai ca. Riêng kinh phí đầu tư cho ngành giáo dục trong
4 năm (1987 - 1991) là 15 tỷ đồng (chiếm 20% ngân sách địa phương). Từ những cố
gắng đó, năm học 1987 - 1988, tồn tỉnh có 451.549 học sinh đến trường. Năm học 1988
- 1989 tăng lên 491.019 học sinh và năm học 1989 - 1990 là 407.040 học sinh. Riêng khu
vực Hòa Bình là 147.443 học sinh (năm1990) [88, tr.175].
Tiếp tục thực hiện chương trình cải cách giáo dục, các nhà trường từng bước đổi mới
phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng học tập nhất là ở các trường chuyên, lớp chọn.
Tỷ lệ tốt nghiệp các cấp đạt 93 - 95 %. Bình qn hàng năm có gần 300 em thi đỗ vào các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp. Số trường tiên tiến cũng không ngừng tăng lên, từ 257
trường (năm học 1987 - 1988) lên 262 trường (năm học 1989 - 1990) [88, tr.175]. Các đơn
vị điển hình tiên tiến xuất sắc như phong trào giáo dục huyện Lạc Thủy, thị xã Hịa Bình,
tiếp tục là những lá cờ đầu của ngành giáo dục tỉnh Hà Sơn Bình. Đây là những tiến bộ rõ rệt
minh chứng cho sự đúng đắn của đường lối đổi mới toàn diện đất nước và sự lãnh đạo, chỉ
đạo sát sao của Đảng bộ tỉnh Hà Sơn Bình.
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Tóm lại: Trải qua hơn nửa thập kỷ (1945 - 1991), đất nước ta đứng trước rất nhiều khó
khăn, thử thách, trước những chuyển biến của tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa - xã
hội trong và ngồi nước. Song, do xác định đúng đắn nhiệm vụ trọng tâm, khơng ngừng
vượt lên những khó khăn, thách thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và sự đồn kết nhất
trí của nhân dân các dân tộc tỉnh Hịa Bình, sự nghiệp GD - ĐT đã thu được những kết
quả to lớn. Đây là tiền đề quan trọng cho việc đẩy nhanh tiến trình phát triển sự nghiệp
GD - ĐT nói chung, GDPT nói riêng của Hịa Bình sau này.
1.3. Sự nghiệp đổi mới giáo dục phổ thơng ở Hịa Bình trong những năm 1991 1996.
1.3.1. Những quan điểm cơ bản của Đảng và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hịa
Bình về đổi mới giáo dục phổ thông (1991 - 1996)
Cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới và trong nước
có nhiều diễn biến phức tạp, điều đó đã tác động khơng nhỏ đến sự nghiệp đổi mới
tồn diện đất nước nói chung, đổi mới GDPT nói riêng ở nước ta.
ở trong nước, “sau hơn bốn năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, công cuộc đổi mới đã đạt
được những thành tựu bước đầu rất quan trọng” [19, tr.49]. Mặc dù nước ta chưa ra khỏi
khủng hoảng KT - XH, song “mức độ khủng hoảng đã giảm bớt” [19, tr.49].
Trên phạm vi thế giới, hệ thống các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đã và đang lâm
vào “cuộc khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng nhất từ trước đến nay” dẫn đến sự sụp
đổ. Đây là một tổn thất to lớn và ảnh hưởng mạnh mẽ đối với nước ta. Tuy nhiên, CNXH
lâm vào thối trào, song điều đó khơng làm thay đổi tính chất của thời đại, lồi người vẫn
trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Nhân loại chuẩn bị bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ của nền văn minh tri thức, từ một nền
kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế dựa vào trí tuệ
con người. Khoa học và cơng nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp làm thay đổi
sâu sắc bộ mặt thế giới. Những thành tựu của khoa học công nghệ thể hiện ở các lĩnh vực
Internet, công nghệ Nanô, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ…đã đặt ra
những yêu cầu mới đối với GD - ĐT ở nước ta.
LUAN VAN CHAT LUONG download : add