Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Phát hiện sưu tập khuôn đúc luy lâu (bắc ninh) – thành tựu mới trong nghiên cứu kĩ thuật đúc trống đông sơn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 16 trang )

Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 13-28

Phát hiện sưu tập khuôn đúc Luy Lâu (Bắc Ninh) Thành tựu mói trong nghiên cứu kĩ thuật đúc trống
Đơng Son ở Việt Nam
Trương Đắc Chiến
*
Tóm tắt: Từ năm 2014 đến 2019, Báo tàng Lịch sử Quốc gia phối hợp với các nhà nghiên
cứu Nhật Bản đã tiến hành nhiều đợt khảo sát và khai quật tại thành cổ Luy Lâu, một trong
những đô thị sớm và quy mô lớn nhất miền Bắc Việt Nam giai đoạn 10 thế kỷ đầu công
nguyên. Đáng chú ý là trong hai đợt khai quật năm 2014 và 2015, các nhà khảo cổ đã phát
hiện hàng trăm mảnh khuôn đúc trống đồng nằm nguyên vị (in situ) trong tầng văn hóa.
Phát hiện này đã cung cấp bằng chứng thuyết phục cho thấy trống Đông Soil được đúc ở
ngay trung châu Bắc Bộ và mở ra cơ hội để tìm hiểu một cách thấu đáo ve quy trình đúc
trống của người Việt cổ. Ý nghĩa của phát hiện quan trọng này sẽ càng nổi bật hơn nếu
được đặt trong bối cảnh tình hình nghiên cứu kĩ thuật đúc trong Đơng Sơn từ trước tới nay.
Vì vậy, trong bài viết này, tơi sê điểm lại tình hình nghiên cứu kĩ thuật đúc trống Đơng
Sơn, xoay quanh ba vấn đề chính là: (i) phương pháp đúc trống; (ii) thành phần hợp kim;
và (iii) hoạt động đúc thực nghiệm. Trên cơ sở bối cảnh nghiên cứu đó, bài viết sẽ đưa ra
một số nhận xét về ý nghĩa của việc phát hiện những mảnh khuôn đúc trống đồng trong địa
tầng khảo cổ học ở thành cổ Luy Làu - một trong những phát hiện lớn nhất của khảo cổ
học Việt Nam trong những năm gần đây.

Từ khóa: khn đúc trống; quy trình đúc trống đồng; trống đồng Đơng Sơn; văn hóa Đơng
Sơn; thành cổ Luy Lâu.

Ngày nhận 09/7/2021: ngày chỉnh sửa 14/9/2021: ngày chấp nhận đăng 28/02/2022

DOI: .TruongDacChien

1. Dẩn nhập


còn là trung tâm văn hóa và tơn giáo, với sự
du nhập và phát triển của Phật giáo, hay sự
truyền bá chừ Hán và Nho giáo. Với ý nghĩa
như thể, Luy Lâu luôn thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của học giới trong và ngoài
nước, đặc biệt là trong khoảng hai thập kỷ
trở lại đây. Từ năm 1998 đến 2019, đã có tới
16 cuộc khai quật được thực hiện ở di tích
này. Trong đó, đáng chú ý là các đợt khai
quật của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Sở Văn
hóa, Thê thao và Du lịch Bắc Ninh và Đại
học Đông Á (Nhật Bản) trong hai năm
2014-2015, đã phát hiện hàng trăm mảnh
khuôn đúc trống Đóng Sơn, gây tiếng vang

Di tích thành cổ Luy Lâu thuộc xã
Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tinh
Bắc Ninh. Đây là đô thị vào loại sớm và lớn
bậc nhất miền Bắc Việt Nam, với số lượng
và loại hình di tích, di vật phong phú và đa
dạng nhất so với các khu di tích khác trong
giai đoạn 10 thế ki đầu cơng ngun. Trong
suốt q trình tồn tại của mình, Luy Lâu
khơng chỉ là trung tâm chính trị, kinh tế mà
’ Báo tàng Lịch sừ Quốc gia;
email:

13



14

Trương Đắc Chiên / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 13-28

lớn trong học giới. Phát hiện này góp phần
chửng minh tính bản địa của trống Đông
Sơn và mở ra cánh cửa đê tìm hiểu một cách
thấu đáo về quy trình đúc trống của người
Việt cổ. Những thông tin chi tiết về sưu tập
mảnh khuôn đúc vô giá này đã được chúng
tôi công bố trên Tạp chí Kháo cổ học, số
3/2020 (Trương Đắc Chiến 2020: 42-55).

Trong bài viết này, trên cơ sờ điểm lại tình
hình nghiên cứu kĩ thuật đúc trống Đơng
Sơn, tơi sẽ đưa ra một số nhận xét về ý
nghĩa của việc phát hiện những mảnh khuôn
đúc trổng đồng trong địa tầng khảo cổ học ớ
thành cô Luy Lâu - một trong những phát
hiện lớn nhất của khảo cố học Việt Nam
trong những năm gần đây.

Hình 1: Khơng ành thành cơ Luv Láu và vị tri phát hiện khuôn đúc trông

(Nguồn: Đồn nghiên cứu Việt - Nhật 2015)

Có thê nói, câu hỏi trơng Đơng Sơn (cịn
được gọi là Heger I) được đúc như thế nào
là đề tài thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
học giới trong và ngoài nước từ rất sớm.

Điềm qua các tài liệu về chủ đề này từ trước
tới nay, tôi thấy các nghiên cứu tập trung
chù yếu xoay quanh những vấn đề sau: (i)
phương pháp đúc trống; (ii) thành phần hợp
kim của trống; (iii) hoạt động đúc thực
nghiệm.
2. Các phương pháp đúc trống
Từ đầu thế ki XX cho tới nay, câu hỏi
trống đồng được đúc bằng phương pháp sáp
chảy (lost-wax method) hay phương pháp

ghép khuôn nhiêu mang (piece-mould
method) luôn là đề tài tranh luận của các nhà
nghiên cứu. Dưới đây là một số ý kiến của
các học giả liên quan tới hai phương pháp
đúc trống này.
2.1. Quan điểm trổng đồng Heger I được
đúc bằng phương pháp sáp chảy

Đại diện cho quan diêm này, có lẽ phải
kể đến trước hết là Parmentier (1918), với
công trinh Anciens tambours de bronze
(Trống đồng cổ đại) đăng trên Bulletin de
1'Ecole /ranẹaise d'Extrême-Orient - Tập
san cùa Trường Viên đỏng Bác cô


Trương Dắc Chiến / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số i (2022) ỉ 3-28

(BEFEO), tập 18. Khi đề cập đến kĩ thuật

đúc trống loại I Heger, ông cho rằng đây là
công việc đầy hứng thú và nó góp phần cho
ta hiểu biết về trình độ văn minh của chủ
nhân trống đồng. Nghiên cứu các dấu vết
còn lại trên trống đồng, Parmentier cho rằng
trống được đúc một lần, nguyên khối chứ
không phải hàn ghép từng phần. Ơng cũng
đặc biệt chú ý tới những ơ hình chữ nhật
cách đều nhau 7-10 cm ở mặt ngoài của
trống và cho rằng đây không phải hiện
tượng ngẫu nhiên mà chính là dấu vết của
những con kê giữ khoảng cách giữa các
mảnh khn sau khi sáp nóng chảy. Tiếp đó,
ơng cho rằng phần quai được gắn vào thân
trống từ trước khi tạo hoa văn, bởi không
thấy dấu vết hoa văn ở phía dưới quai trống.
Tuy chưa chỉ ra cụ thể quy trình đúc trống
như thế nào, nhưng qua những gì Parmentier
mơ tả, ta có thể nhận thấy ơng coi trống loại
I được đúc bằng phưcmg pháp sáp chảy (cire
perdue/lost-wax) (Parmentier 1918: 15-16).
Bemet (1988), nhà dân tộc học nổi tiếng
người Hà Lan, trong công trinh đồ sộ The
Kettledrums of Southeast Asia: A Bronze
Age world and its aftermath (Trong dong
Đông Nam Á: Thời đại Đồ đồng và hệ quả
của nó), đã mơ tả khá chi tiết quy trinh đúc
trống đồng bằng phương pháp sáp chảy.
Quy trình này gồm các bước sau: (i) tạo phôi
(core) hay khuôn trong (inner mould). Phôi

được làm bằng đất sét và có hình dáng như
một chiếc trống hồn chỉnh, gồm 3 mặt,
rỗng ruột và được làm trên bàn xoay, với sự
hỗ trợ của một công cụ như dưỡng gạt
(profile-gauge); (ii) phủ bên ngồi phơi đất
sét một lớp sáp. Độ dày của lớp sáp này
tương ứng với độ dày của trống. Bồ mặt của
sáp phải đủ mềm để khắc hoa văn bằng bút
nhọn hoặc in hoa văn bằng khuôn in đất
nung; (iii) gắn con kê và đinh chốt bằng kim
loại lên bề mặt lớp sáp để cố định khuôn lõi

15

và xác định độ dày của trống; (iv) đắp đất
bên ngồi lớp sáp để tạo khn ngồi (outer
mould); (v) sấy khn cho lớp sáp chảy; (vi)
rót đồng nóng chảy điền vào khoảng trống
do lớp sáp để lại; (vi) phá dỡ khn (cả
khn ngồi và khn trong) để lấy trống
thành phẩm (Kempers 1988: 185-190).
Bên cạnh việc đưa ra quy trình đúc như
trên, Kempers cịn lí giải cho việc xuất hiện
đường gờ (ridge) dọc thân trống. Theo ông,
nhiều khả năng đây là dấu vết để lại của việc
sử dụng khuôn in (printing mould). Những
phần khuôn in này để lại đường gờ khi in
hoa văn trên sáp, và hệ quả là sẽ xuất hiện
trên thân trống sau khi đúc (Kempers 1988:
191). Ông cũng đưa ra giả thiết về cách đúc

quai trống và tượng cóc. Theo Kempers, có
hai phương án để thực hiện: Phương án thứ
nhất là quai và tượng cóc được tạo mẫu
bằng sáp trước, sau đó gắn lên lớp sáp trên
thân trống. Tuy nhiên, về phương diện kĩ
thuật, ơng cho rằng có một số khó khăn nhất
định. Đối với quai trống, vì làm bằng sáp
nên sẽ rất mỏng manh, dễ gãy vỡ khi đắp
khn ngồi. Cịn đối với tượng cóc thì có
vẻ khả thi hơn nhưng sẽ nảy sinh vấn đề
trong quá trình đúc bởi vị trí gắn trên mặt
của nó sẽ phải chống đỡ cho toàn bộ mặt
trống khi đặt sấp để rót đồng. Phương án thứ
hai là quai và tượng cóc sẽ được đúc trước,
sau đó sẽ được gắn vào phần khn sáp của
trống. Tiếp đó người ta sẽ phủ lên tồn bộ
khn trong lóp sét và đất để tạo khn
ngồi. Các cơng đoạn tiếp theo vẫn diễn như
quy trình đã nêu (Kempers 1988: 192).
Cùng quan điểm với Kempers, trong
công trình The Bronze Age of Southeast Asia
(Thời đại Đồ đồng ở Đông Nam Á), Charles
Higham (1996) cũng đưa ra quy trinh đúc
trống cơ bản như trên, chỉ có khác biệt ở
khâu tạo hoa văn.


16

Trương Đắc Chiến / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân vãn, Tập 8. số ỉ (2022) 13-28


Hình 2: Quy trình đúc trống bang phương pháp sáp cháy

A, B. Tạo phơi trong bằng đất sét; c, D. Đó sáp cháy vào khn đất sét có trang trí hoa văn; E.
Dán các phiến sáp lav từ khuôn lèn phôi trỏng; F. Ghép các mang khuôn lại với nhau, rôi phù tiép
đất sét lèn để tạo khn ngồi; G. Rót đồng (Higham 1996: 131).

Theo Higham, để tạo hoa văn, trước hết
người ta phải chuẩn bị một loạt khuôn bằng
đất sét, khuôn hình trịn dùng cho mặt trống,
khn hình chữ nhật dùng cho thân trống.
Trên bề mặt của các khuôn đất sét này,
người thợ sẽ dùng bút để khắc hoặc dùng
các mẫu có sằn in lên để tạo ra các mơ-típ
hoa văn theo ý muốn. Sau đó, sáp lỏng sẽ
được đổ vào các khuôn đất sét đã được tạo
hoa văn này để sao lại các họa tiết. Tiếp đó,
những phiến sáp này sẽ được gỡ ra và dán
lên trên phôi trống bằng đất đã được chuẩn
bị từ trước. Lúc này việc chỉnh sửa hoa văn
vần có thể được thực hiện nếu muốn. Sau
khi gắn con kê bằng đồng lên bề mặt sáp,
người ta phủ một lớp sét cực mịn lên toàn bộ
phần khuôn sáp, tiếp đến là lớp sét trộn phụ
gia để tạo khn ngồi. Bên cạnh đó, trong
quy trình này, Higham cũng thể hiện rõ là
trống được đặt ngửa và nước đồng được rót
từ chân trống xuống. Higham cũng cho ràng
việc đúc trống đòi hỏi đảm bảo yêu cầu về
thẩm mỹ và kỹ thuật ở mức độ rất cao, và

không ai khác ngoài những người thợ
chuyên nghiệp toàn thời gian (full-time
specialists) mới có thể thực hiện cơng việc
này (Higham 1996: 130-131).

Một trong những học giả ủng hộ quan
điểm trống đúc bằng phương pháp sáp chảy
nhiệt tình nhất là Anna Bennet. Trong bài
viết Lost-Wax or Piece-Mould Casting (Sáp
chảy hay ghép khuôn) đăng trên tập san Arts
& Cultures năm 2006, bà đã đưa ra những
lập luận chứng minh cho việc trống đồng
phài được đúc bằng khuôn sáp chứ không
phải khuôn ba mang. Trước hết, Bennet cho
ràng nếu trống đồng được đúc bằng khuôn
ba mang thi đường chi đúc trên thân trống
phải thắng và liên tục. Tuy nhiên, qua quan
sát dưới kính hiển vi, đường thẳng của vết
ráp khuôn đôi khi lại thiếu, nhất là chỗ
khơng có hoa văn. Theo Bennett, đường gờ
nổi ơ thân trống là do các phiến sáp ghép lại,
nhưng do phiến sáp có mặt phang (do được
in khn chữ nhật như Higham đà trình
bày), nên khi đắp lên phơi trống hình trụ thì
sẽ bị kênh ở chỗ nối. Do đó, muốn cho lớp
sáp khơng bị hở thì ở vị trí nối người ta
thường cho sáp chồng lên nhau. Bà cũng cho
rằng mặt trong của trống khơng có vết nối,
vì khi sáp chảy hết chỉ cịn lõi đất sét nên sẽ
khơng bao giờ có đường chỉ ở phía trong cả

(2006:268-271).


Trương Đắc Chiến / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân vãn, Tập 8, sổ 1 (2022) 13-28

Calo (2014), trong cơng trình tơng hợp
về trống đồng Đơng Nam A Trails of Bronze
Drums Across Early Southest Asia (Theo
dâu trống đỏng ở Đông Nam A), cũng
nghiêng về giả thuyết trống đồng được đúc
bằng phương pháp sáp chảy. Quy trình mà
Calo đưa ra về cơ bản gần như giống với
quy trình mà Higham đã nêu. Tuy nhiên, đối
với việc đúc quai trống và tượng cóc thì học
giả này lại có những kiến giải khác. Theo
Calo, phần quai trống được làm bằng khuôn
sáp và gắn trực tiếp vào thân trống rồi được
đúc binh thường. Cịn đối với tượng cóc, thì
bà cho rằng cũng được làm bằng khuôn sáp
nhưng được đúc riêng biệt và gắn vào mặt
trống sau khi đúc bàng kĩ thuật hàn (2014:
50).
Trên đây là ý kiến của một số học giả
nước ngoài ủng hộ quan điểm trống đồng
được đúc bằng phương pháp sáp chảy. Đối
với giới nghiên cứu trong nước, ngay từ năm
1974, khi nghiên cứu những dấu vết trên
trống Ngọc Lũ, Hồng Văn Khốn và Hà
Văn Tấn (1974) đã đưa ra giả thiết trổng
được đúc bằng phương pháp sáp chảy. Theo

các tác giả, vật mẫu nhiều khả năng được
làm bằng sáp ong, bởi đây là nguyên liệu có
nhiều ở Việt Nam, lại có thể dùng được
nhiều lần, trang trí trên sáp cũng dễ thực
hiện hơn, và việc tu sửa những chỗ bị hỏng
cũng khơng ảnh hưởng đến tồn vật mẫu. về
trang trí hoa văn, các tác giả cho rằng, đối
với trống Ngọc Lũ, người xưa đã khắc trực
tiếp cả hoa văn hình học và hoa văn tả thực
lên mẫu sáp. Tuy nhiên, các tác giả cũng lưu
ý rằng trên trống Viên, một số băng hoa văn
tả thực được tạo bằng cách dùng từng đoạn
con dấu ấn vào khuôn sáp. về quai trống,
Hà Văn Tấn và Hồng Văn Khốn cho rằng
chúng được gắn liền vào vật mẫu từ trước
khi trang trí hoa văn và được đúc liền thân,
về cách thức tạo khn ngồi và khn
trong, các tác giả cũng có chung quan điểm
với Kempers và Higham, chỉ có điều ở đây

17

các tác giả nhấn mạnh rằng khuôn đúc trống
không phải chỉ được hơ nóng trước khi đúc
mà thực sự đã được nung với nhiệt độ không
dưới 1 .ooo°c. về vấn đề ghép khn và rót
đồng, Hà Văn Tấn và Hồng Văn Khốn
cho rằng để giữ khoảng cách giữa khn
ngồi và khn trong, người xưa phải sử
dụng hệ thống con kê. Tuy nhiên trong khi

đa số các học giả cho rằng con kê được làm
bằng kim loại, thì ở đây hai tác giả cho rằng
con kê phải được làm bằng một loại đất chịu
lửa như đất làm khuôn. Các tác giả cũng cho
rằng khi đúc, trống được đặt ngửa và đồng
nóng chảy được rót từ chân xuống mặt trống
(Hà Văn Tấn, Hồng Văn Khốn 1974: 3743).
10 năm sau cơng trình này, trong bài viết
"Bàn về kĩ thuật đúc trống Đông Sơn" đăng
trên Thơng báo Khoa học của Viện Bảo tàng
Lịch sử, Hồng Văn Khốn một lần nữa
khẳng định quan điểm nói trên của mình và
Hà Văn Tấn (Hồng Văn Khốn 1985: 148153). Một nhà khảo cổ người Việt khác cũng
ủng hộ phương pháp sáp chảy là Nguyễn
Việt. Trong bài viết Bronze Situlas of Dong
Son (Thạp đồng Đông Sơn) đăng trên Tập
san Arts & Cultures năm 2006, Nguyễn Việt
một mặt không phủ nhận vai trị của phương
pháp đúc bằng khn ba mang, nhưng ông
cho rằng để đúc các bộ phận như quai trống
hay các tượng trang trí trên mặt trống thì
người xưa đã sử dụng kĩ thuật lõi sáp ong
(Nguyen Viet 2006: 234-263). Có cùng quan
điểm với các học giả nói trên, nhà dân tộc
học Tạ Đức (2017), trong chuyên khảo công
phu Nguồn gốc và sự phát trỉến của trống
đồng Đông Sơn, cũng cho rằng trống Đông
Sơn được đúc bằng phương pháp sáp chảy.
Trong cơng trình này, Tạ Đức có cách tiếp
cận khá mới lạ so với truyền thống. Trước

hết, ông cho rang những trống đồng Đơng
Sơn ở Bắc Bộ Việt Nam có niên đại từ thế kì
3 trước cơng ngun là do An Dương
Vương cho đúc để ban phát cho các thủ lĩnh


18

Trương Đắc Chiến / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân vãn, Tập 8, Sô 1 (2022) J3-28

địa phương, như một biểu tượng của vương
quyền Âu Lạc. Vì vậy, Tạ Đức tin rằng, về
mặt kĩ thuật, trống đồng Đông Sơn đã được
đúc theo phương pháp sáp chảy bởi Cao Lỗ,
người lo việc đúc trống đồng cho An Dương
Vương là người Dạ Lang gốc Sở, nơi thợ
đúc đồng dùng phương pháp sáp chảy sớm
và thạo hơn các nơi khác (Tạ Đức 2017:
171, 182).Trên đây là các ý kiến của những
học giả ủng hộ quan điểm trống đồng Đông
Sơn được đúc bằng phương pháp sáp chảy.
Trong các trống Đông Sơn đã phát hiện ở
Việt Nam cho tới nay, tuy cịn ít ỏi, nhưng
củng đã có một số trống mang dấu vết cho
thấy chúng đã thực sự được đúc bằng
phương pháp này.
Năm 2008, trong một cơng bố về sưu tập
trống đồng tìm thấy ở tỉnh Bình Định đăng
trên Journal of East Asian Cultural
Interaction Studies, các tác giả Nishimura và

Phạm Minh Huyền đã lưu ý về một chiếc
trống được đúc bằng phương pháp sáp chảy,
đó là trống Gị Rộng. Khi nghiên cứu trống
Gị Rộng, các tác giả Nishimura và Phạm

Minh Huyền nhận thấy chiếc trống này
khơng có đường chỉ đúc - dấu vết của việc
ghép khn - như các trống khác. Thay vào
đó, trên thân trống này có một đường chỉ
đúc giả (pseudo-fin), và trên tồn bộ mặt
trong của trống vẫn cịn dấu vết hoa văn
trang trí được in lại từ khn sáp (2008:
214). Tiếp đó, vào năm 2014, trong Kỷ yếu
Hội thảo 90 năm phát hiện và nghiên cứu
văn hóa Đơng Sơn, các tác giả Ngô Thế
Phong và Chu Mạnh Quyền đã có bài viết
cơng bố 23 chiếc trống mới được sưu tầm về
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam trong khoảng
thời gian từ 2004-2014. Đáng chú ý là trong
bài viết này, các tác giả cho rằng có hai
trống được đúc bằng phương pháp sáp chảy,
đó là trống ST.9196-2008 và ST.108182013. Điểm đặc biệt của hai chiếc trống này
là ở đường ghép khuôn dọc thân lại nổi lên
băng hoa văn vòng tròn chấm giữa tiếp
tuyến, điều đó khiến các tác giả nghĩ rằng
đây chính là vết "ghép khn giả", và hai
chiếc trống này đã được đúc bằng phương
pháp sáp chảy (2014: 196-197).

Hình 3: Dấu vết “ghép khuôn giả " trên trống ST.2008 cùa Bào tàng Lịch sử Quốc gia


(Anh: Trương Đắc Chiến)


Trương Đắc Chiến / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 13-28

2.2. Quan điếm trổng đồng Heger I được
đúc trực tiếp bằng cách ghép khuôn nhiều
mang

Đại diện cho quan điểm này, người đầu
tiên chúng ta cần nhắc tới, khơng ai khác
chính là Franz Heger, tác giả của cơng trình
kinh điên AIte MetalItrommenl aus StídostAsien (Trống đồng cổ ở Đơng Nam Á)
(1902). Khi bàn về kĩ thuật chế tác
(Technische
Herstellung/technical
manufacturing), Heger cho rằng điều thú vị
là những chiếc trống đồng này được chế tác
bởi hai kĩ thuật đúc khác nhau. Theo Heger,
tất cả các trống loại I, loại II, phần lớn trống
loại IV và loại trung gian đều được đúc bằng
phương pháp ghép khuôn nhiều mang.
Những trống có hai đường chỉ đúc ở thân thì
có ba mang khn, những trống có bốn
đường chỉ đúc ở thân thì có năm mang
khn. Heger cho rằng chỉ có trống loại III
là đúc bằng phương pháp sáp chảy, bởi trên
thân trống khơng có đường chỉ đúc và mặt


19

trong của các trống này thường có dấu vết
chỉnh sửa (1902: 134-144).
Sau Heger, nhiều học giả cũng cho rằng
trống đồng, nhất là trống loại I, được đúc
bằng phưcmg pháp ghép khuôn nhiều mang.
Pieter Meyers, một nhà kĩ thuật học, cũng
ủng hộ quan điểm trống Đông Sơn phải
được đúc bằng khuôn ba mang. Trong bài
nghiên cứu về kĩ thuật đúc đồng Đông Sơn
trên tạp chí Arts & Cultures năm 2006, ơng
cho rằng vì trống được đúc bằng khuôn ba
mang nên không thể nào tránh được vết nối
trên thân trống. Hơn nữa, nếu đúc trống
bằng khuôn sáp tại sao không chỉnh sửa để
bỏ vết nối trước khi đúc, bởi đây là việc quá
đơn giản như đã thấy khi đúc các tượng
khối. Và, nếu trống được đúc bằng khn
sáp thì tại sao chỉ có đường nối ở mặt ngồi
mà khơng có ở mặt trong. Ơng cũng lưu ý
rằng vì trống được đúc bằng khn ba mang
nên quai trống không thể đặt ở giữa thân mà
luôn đặt lệch sang một bên, nếu đúc bằng
phương pháp khuôn sáp thì sẽ khơng có hiện
tượng này (Meyers 2006: 264-267).

Hình 4: Dầu vết ghép khuôn ba mang trên trống đông Hoàng Hạ

(Anh: Trương Đăc Chiền)



20

Trương Đắc Chiến / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhản văn, Tập 8, Sô 1 (2022) 13-28

Murowchick (2001), trong một nghiên
cứu về đồ đồng ở Vân Nam, đã cho rằng hầu
hết các đồ đồng trong văn hóa Điền, từ đồ
nghi lễ, nhạc khí hay các vật dụng khác đều
được đúc bằng phương pháp ghép khuôn.
Theo ông, các trống đồng sớm thuộc loại
Pre-Heger I hay còn gọi là loại hình Vạn Gia
Bá, đều được đúc bằng phương pháp ghép
khn nhiều mang (2001: 148). Chiou-Peng,
khi nghiên cứu đồ đồng Vân Nam, cũng có
chung nhận định như Murowchick. Trong
bài nghiên cứu The Technical History of
Early Asian Kettledrums {Lịch sứ kĩ thuật
đúc trổng đồng sớm ở Châu Á), lịch sử
luyện kim Vân Nam đã được Chiou-Peng
phân chia ra 3 giai đoạn, với sự liên quan
mật thiết tới kĩ thuật đúc trống, (i) Giai đoạn
sơ khởi (Initial Phase), có niên đại thế kỉ
XIII - VIII trước công nguyên, là giai đoạn
mà kĩ thuật đúc bằng khuôn hở và khuôn hai
mang chiếm ưu thế. Sản phẩm đúc của giai
đoạn này chủ yếu là các vật dụng cỡ nhị và
đơn giản, (ii) Giai đoạn hình thành
(Formative Phase), có niên đại thế kỉ VII IV trước công nguyên, với sự tiến bộ của kĩ

thuật luyện kim và sự xuất hiện của kĩ thuật
ghép khuôn đất nung nhiều mang. Các hiện
vật cờ lớn bắt đầu được đúc, điển hình là
trống đồng Vạn Gia Bá. Đồ đồng nói chung
và trống đồng nói riêng trong giai đoạn này
hầu hết được đúc bằng phương pháp ghép
khuôn nhiều mang (piece-mould casting).
Chiou-Peng cũng lưu ý là để đúc trống
người xưa đã sử dụng những con kê (spacer)
bằng kim loại để giữ khoảng cách giữa
khn ngồi và khn trong, (iii) Giai đoạn
phát triển (Florescent Stage), có niên đại từ
350 trước cơng ngun tới 50 sau công
nguyên, phương pháp đúc bằng khuôn đất
nung nhiều mang vẫn thịnh hành, tuy nhiên
đã có sự xuất hiện của các kĩ thuật tạo hoa
văn mới, đặc biệt là kĩ thuật sáp chảy. Các
hiện vật lớn, như trống đồng chẳng hạn, vẫn
được đúc bằng khuôn ba mang, kĩ thuật sáp
chảy chỉ dùng để đúc những hiện vật nhỏ

hoặc những tấm phù điêu có hoa văn trơ
thủng. Tóm lại, theo TzeHuey Chiou-Peng,
kĩ thuật sáp cháy có mặt ở Vân Nam khơng
sớm hơn thế kì IV trước cơng ngun, và chỉ
được áp dụng vào việc đúc những hiện vật
nhỏ hoặc các bộ phận của một hiện vật nào
đó. Đồ đồng ở Vân Nam, trong đó có trống
đồng, về cơ bản được đúc bởi kĩ thuật ghép
khuôn đất nung ba mang (Chiou-Peng 2011:

17-26). Đa số các học giả Trung Quốc đều
ủng hộ quan điểm trống đồng được đúc bằng
phương pháp ghép khuôn. Gần đây, các tác
giả Wu Chongji, Luo Kunxin, Cai Rong
(2018), trong cơng trình Decoration Art of
Ancient Bronze Drums (Nghệ thuật trang trí
trên trống đồng cổ đại), đã khắng định lại
điều này. Các tác giả cho rằng người xưa đã
sửa dụng khuôn đất nung nhiều mang để đúc
trống, giống với phương pháp đúc chng
và đỉnh của giai đoạn sớm. Chỉ có loại trống
Tây Minh (Ximeng), tức trống loại III ở
Myanmar là đúc bàng phương pháp sáp chảy
(2018: 12).
Đối với các học giả trong nước, ngay từ
năm 1975, trong cuốn sách Những trống
đồng Đông Scm đã phát hiện ở Việt Nam,
các tác giả Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Vinh
đã đưa ra ý kiến rằng trống Đông Sơn được
đúc bằng cách ghép khuôn nhiều mang, và
dấu con kê ở rìa mặt trống là để thốt hơi
trên khn đúc (1975: 130). Sau đó, Trịnh
Sinh, một chuyên gia về thời đại Kim khí
Việt Nam, cũng cho rằng trống đồng được
đúc bằng khuôn đất nung nhiều mang. Theo
ơng, khn đất nung là hồn tồn phù hợp
để đúc các hiện vật có thế khối lớn, với hoa
văn trang trí phức tạp như trống đồng. Đe
đúc trống, người xưa sử dụng khuôn ba
mang với hệ thống con kê đe định vị trong

q trình rót đồng. Các con kê này làm bằng
kim loại, nhiều khả năng là đồng đỏ (1996:
50), được đặt cách đều nhau trên mặt, tang,
lưng và chân trống. Các hoa văn trang trí
được khắc trực tiếp lên khuôn đất trước khi


Trương Đắc Chiến / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhản văn, Tập 8, số 1 (2022) 13-28

nung, về vị trí rót đồng, dựa trên kinh
nghiệm quan sát một số trống loại II, Trịnh
Sinh đưa ra gợi ý rằng có thể đồng được rót
ở rìa mặt trống hoặc ở thân trống (2012:
161-162).
Gần đây, Kiều Quang Chẩn, một nhà
nghiên cứu và cũng là nhà sưu tập say mê
vãn hóa Đơng Son, đã công bố cuốn sách
Vang vọng từ trong Đông Sơn (2018). Trong
cuốn sách này, ông đã dành hẳn một chương
(chương III) để tìm hiểu về kỹ thuật đúc
trống Đơng Sơn. Sau khi điểm lại một
nghiên cứu có liên quan đến chủ đề này, ơng
đã trực tiếp đến các lị đúc thù cơng ở Thanh
Hóa, Nam Định để nghiên cứu kỹ thuật đúc
trống hiện nay. Tại các lò đúc này, ông đã
quan sát các kíp thợ đúc trống bằng cả hai
phương pháp ghép khuôn ba mang và khuôn
sáp. Từ những khảo chứng dân tộc học này
và cùng với tri thức của bản thân sau nhiều
năm nghiên cứu trống Đông Sơn, Kiều

Quang Chẩn cho rằng cách đúc trống bằng
khuôn ba mang đơn giàn hơn, sản phẩm
giong với trống cổ hơn, tuy mất thời gian
hơn so với đúc bằng khuôn sáp. Từ đó, ơng
cho rằng trống đồng Đơng Sơn cũng được
đúc bàng phương pháp ghép khuôn đất nung
nhiều mang, giống với những trống phát
hiện ở Hoa Nam (Kiều Quang Chẩn 2018:
27-35). Trên đây là ý kiến của các nhà
nghiên cứu ủng hộ phương pháp đúc trống
bàng cách ghép khuôn nhiều mang. Trên
thực tế, ngồi số ít những trống được đúc
bằng khn sáp như đã nói ở phần trên, hầu
hết trống đồng Đơng Sơn đã phát hiện đều
cho thấy chúng được đúc bằng phương pháp
ghép khuôn ba mang. Điều này sẽ được bàn
kĩ hơn ở phần sau, khi đề cập tới ý nghĩa của
sưu tập khuôn đúc trống Luy Lâu.
3. Thành phần hợp kim
Một vấn đề quan trọng khác trong nghiên
cứu kĩ thuật đúc trống là thành phần hợp
kim. Nhìn chung, hầu hết các nghiên cứu về

21

thành phần hợp kim của trống Đông Sơn
đều cho thấy, họp kim chủ yếu để đúc trống
gồm ba thành phần: đồng, chì, thiếc. Ngay
từ năm 1902, Heger đã công bố thành phần
họp kim của trống loại I là đồng - chì - thiếc,

trong đó đồng chiếm tỉ lệ 60,82-71,71%, chi
chiếm ti lệ 14,25-26,69%, thiếc chiếm tỉ lệ
4,9-10,88% (1902: 143). Năm 1954,
Malleret cũng đã công bố thành phần hợp
kim một số trổng Đông Sơn, cho thấy trống
Quảng Xương II, trống Đẳc Giao, trống
Đồng Văn I hợp kim chủ yếu vẫn là đồng chì - thiếc (dẫn theo Trịnh Sinh 1996: 47).
Năm 1981, Diệp Đình Hoa đã phân tích
thành phần hóa học của 6 trống Đơng Sơn.
Qua kết quả phân tích, cho thấy hợp kim là
đồng - chì, hoặc đồng - chì - thiếc, tuy nhiên
tỉ lệ thiếc khá thấp (0,4-8,77%) trong khi tỉ
lệ chì lại rất cao (1,35-25,6%). Diệp Đình
Hoa cũng lưu ý rằng những chiếc trống này
đều thuộc loại hợp kim đồng thau có kẽm,
và cho rằng đứng dưới góc độ kỹ thuật,
đồng thau có kẽm là loại đồng thau tốt nhất,
đặc biệt là đối với các loại nhạc khí (1981:
166-168). Kempers cũng cơng bo thành
phần hóa học của 33 mẫu trống loại I ở
Đông Nam Á, kết quả cho thấy hợp kim chủ
yếu gồm 3 thành phần: đồng (42,2084,04%), thiếc (4,40-26,09%), chì (1,2227,80%) (1988: 200-201). Trịnh Sinh, trong
chuyên khảo về kĩ thuật đúc trống đồng
đăng trên tạp chí Khảo cổ học năm 1996,
cũng cơng bố kết quả phân tích thành phần
hóa học của 6 trống Đơng Sơn. Dựa trên kết
quả phân tích này, ơng cho rằng hợp kim
đúc của hầu hết trống Đông Sơn cơ bản gồm
bốn thành phần là đồng, chì, thiếc và asen.
Hàm lượng chì tập trung trong khoảng 1030%, hàm lượng thiếc tập trung trong

khoảng dưới 10%, hàm lượng asen là từ 0,13,1%. Sự có mặt của chì khiến nhiệt độ nóng
chảy của họp kim được hạ thấp, và tính dẻo
của chì khiến nước đồng có thể điền đầy các
chi tiết của vật đúc. Sự có mặt của thiếc


22

Trương Đắc Chiến / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 13-28

cũng góp phần làm hạ thấp nhiệt độ nóng
chảy của họp kim. Đáng chú ý là sự có mặt
của asen. Theo Trịnh Sinh, đây khơng phải
là sự có mặt ngẫu nhiên, mà thực ra có vai
trị vơ cùng quan trọng. Asen góp phần hạ
thấp điêm nóng chảy của họp kim và làm
tăng độ sáng, đẹp của sản phẩm đúc. Ngồi
ra asen cịn là chất dẫn chảy rất tốt, chỉ cần
một lượng rất ít, chỉ vài phần trăm cũng làm
cho khả năng loang rộng và nhanh của nước
đồng, điền kín khn đúc (Trịnh Sinh 1996:
47-48).

4. Những hoạt động đúc thực nghiệm
Một trong những vấn đề rất quan trọng
khi nghiên cứu kĩ thuật đúc trống đồng, đó
là hoạt động thực nghiệm. Từ nãm 1964 đến
năm 1975, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
đã phối hợp với Viện Bảo tàng Mỹ thuật tiến
hành đúc thử trống Ngọc Lũ năm lần. Quy

trình, kết quả và kinh nghiệm của các lần
đúc thực nghiệm này đã được Tràn Khoa
Trinh (1977, 1985) và Trịnh Sinh (1996)
tống hợp khá kĩ. Dưới đây tơi xin điểm lại
một số nét chính.

Lần đúc thứ nhất: Khn trống đặt ngửa,
đậu rót mở ở chân trống. Khi rót đồng vào
khn thì khn bị vỡ. Ngun nhân là do
khn nung q chín, đất tơi bở, rạn nứt và
do chằng buộc khuôn chưa chắc (Trần Khoa
Trinh 1977: 74). Trịnh Sinh thì cho rằng vấn
đề nằm ở cấu tạo cùa đất khuôn và cách định
vị khuôn, khiến khuôn khơng chịu nổi áp lực
của đồng nóng chảy (1996: 43).
Lần đúc thứ hai: Khuôn trống cũng đặt
ngửa như lần một. Đồng rót vào khn
khơng bị vỡ, nhưng đồng lại khơng điền đầy
khn, do quanh mặt trống khơng có lỗ
thơng hơi, khiến giữa mặt trống bị khuyết
một mảng lớn (Trần Khoa Trinh 1977: 74).
Trịnh Sinh cho rằng có khả năng do "nước
đồng" có quá trinh dẫn chảy kém, chưa điền

đầy đã đơng đặc, do đó phải xem lại bản
thân thành phần hợp kim của đồng (1996:
43).
Lần đúc thứ ba: Khuôn được đặt
nghiêng, đậu rót đặt ở rìa thấp dưới tang và
quai. Khi rót đồng vào khn cũng khơng bị

vỡ, nhưng kết quả vẫn không như ý. Trống
bị thủng lớn ở tang và khuyết hai quai, vị trí
khn ruột bị xơ lệch, làm cho thân trống
dày mỏng không đều, hoa văn bị mờ (Trần
Khoa Trinh 1977: 74). Rõ ràng, nguyên
nhân của lần thất bại này vẫn nằm ở chỗ
người thợ đúc chưa tính được vấn đề áp lực
của nước đồng, vấn đề hợp kim và vị trí đặt
đậu rót (Trịnh Sinh 1996: 43).
Lần đúc thứ tư: Lần này làm thành hai
khuôn và đúc riêng từng bộ phận: thân trống
và mặt trống. Sau khi đúc xong thì hàn lại
thành chiếc trống. Tuy nhiên, vẫn do khn
nung q chín, đất tơi bở nên khơng chịu nổi
áp lực của nước đồng, kết quả là trống vẫn
dày hơn trổng gốc hai, ba lần, hoa văn bị
mờ, nhiều chỗ rạn nứt (Trần Khoa Trinh
1977: 43).
Lần đúc thứ năm: Rút kinh nghiệm của
những lần đúc thử trước đó, lần đúc thứ năm
(1975) đã có kết quả tốt hơn nhiều so với
bốn lần đúc trước. Khuôn được đặt sấp trong
một hố sâu 60cm, kê nghiêng khn một
góc khoảng 15°, đậu rót mở ở trên mặt
trống. Đồng rót vào khơng bị vỡ khuôn,
nước đồng cũng điền đầy khuôn. Tuy nhiên,
theo sự đánh giá của các nhà chun mơn thì
trống đúc thử mới chỉ đạt khoảng 80% so
với trống gốc. Độ dày của trống vẫn dày hơn
trống thật, hoa văn thân trống thì rõ, nhưng

hoa văn trên mặt thì khơng sắc nét, có chỗ
mờ. về khn đúc, các thợ đúc cũng gia cố
thêm 5 vành đai sắt để giúp khuôn chịu áp
lực của nước đồng - đây là điều mà người
xưa không thể thực hiện (Trần Khoa Trinh
1985: 158), (Trịnh Sinh 1996: 45).
Gần đây, Nguyễn Thơ Đình (Viện Khảo
cổ học) cũng đã tiến hành tìm hiểu quy trình


Trương Đắc Chiến / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân vãn, Tập 8, số 1 (2022) 13-28

đúc trống Đông Sơn theo hướng tiếp cận
thực nghiệm dân tộc - khảo cổ học. Nghiên
cứu của Nguyễn Thơ Đình được tiến hành ở
làng nghề Chè Đơng (xã Thiệu Trung,
huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa). Dưới đây là
một số nét chính trong báo cáo của Nguyễn
Thơ Đình (2017: 47-48):
Bộ khn đúc trống hồn chỉnh làm bằng
đất nung, gồm hai mang khuôn thân, một
mang khuôn mặt và khuôn lõi. Mặt trong
của khuôn mặt và hai mang thân được khắc
hoa văn trực tiếp bằng cách đục thủ cơng
sau đó cạo sửa lại. Khi đúc ra hoa văn rất
sắc nét. Trong khi đó, những thử nghiệm
khn sáp cho hoa văn bị mờ, vì vậy việc
khắc hoa văn trên khuôn đất tối ưu hơn.
Khuôn đúc được nung chín cho thốt hết hơi
nước trước khi rót đồng (khn được nung

hai lần, lần 1 khoảng 900°C, lần 2 khoảng
1.000°C-l.l()0oC. Đậu rót được mở ngay
chính tâm trống hoặc ở tang trống. Với sản
phẩm đúc lớn như trống đồng, việc mở đậu
rót ở chính tâm là phương pháp tối ưu. Để
định vị khuôn trống, người thợ dùng các con
kê bằng họp kim đồng (lấy từ những trống
đã đúc hỏng) và không đặt con kê trên mặt
trống. Họp kim dùng để đúc trống cũng là
đồng - thiếc - chì.

Trống thành phấm được đúc ra khá đẹp,
sáng bóng, hoa văn sắc nét. Tuy đây chỉ là
đúc thực nghiệm dưới dạng đặt hàng một
trống mới, và những gì mà Nguyễn Thơ
Đình ghi lại chỉ đơn thuần là mơ tả lại một
quy trình đúc trống đang được thực hiện tại
một làng nghề cụ thể, nhưng nó cũng đóng
góp phần nào cho nhận thức của chúng ta về
kĩ thuật đúc trống của người xưa. Tóm lại,
các lần đúc thực nghiệm trống Đông Sơn là
vô cùng quý giá, song bí mật của việc đúc
trống đồng xưa vần là câu hỏi khơng dễ gì
giải đáp được, đúng như Trần Khoa Trinh đã
nhận xét: "Ve mặt khoa học thì chúng ta
chưa thể nói đã ít nhiều trả lời được câu hỏi:
người thời các vua Hùng đã dùng phương

23


pháp nào để đúc nên những trống đồng to
đẹp như trống Ngọc Lũ?" (dẫn theo Trịnh
sinh 1996: 45).

5. Ý nghĩa của việc phát hiện khn đúc
trống Luy Lâu

Từ những gì vừa trinh bày trên đây, ta
thấy rằng câu hỏi trống đồng Đông Sơn
được đúc như thế nào vẫn là trăn trở của học
giới cả trong và ngoài nước. Cuộc tranh luận
trống được đúc bằng phương pháp ghép
khuôn (piece-mold method) hay sáp chảy
(lost-wax method) đã kéo dài cả thế kỉ, và
cho tới nay vẫn chưa ngã ngũ. Những lập
luận của cả hai trường phái đều tỏ ra có lí,
nhưng xét cho cùng, khơng đủ sức thuyết
phục phe đối diện với cơ sở khoa học mong
manh như thế. Lập luận của hai bên chủ yểu
dựa trên quan sát dân tộc học và suy đoán từ
dấu vết còn lại trên thân trống. Sự thiểu
vắng nguồn tư liệu trực tiếp liên quan đến
quy trình đúc trống chính là ngun nhân
của cuộc tranh luận khơng có hồi kết này.
Những phân tích về thành phần họp kim,
ngồi việc cho biết người xưa đã dùng họp
kim đồng thau gồm những thành phần nào,
tỉ lệ ra sao, cũng không cho chúng ta chút
manh mối nào về phương pháp đúc trống
của họ.

Hoạt động đúc thực nghiệm cũng đã
được đầu tư nhiều tâm sức, với hy vọng tìm
hiểu đơi điều về quy trình đúc trống của
người xưa. Những lần đúc thực nghiệm
trống đồng đều do tập thể cán bộ có kỹ thuật
đào tạo bài bản, có trình độ kỹ sư, phối họp
với những nghệ nhân có kinh nghiệm đúc
đồng lâu năm thực hiện. Tuy vậy, kết quả
đạt được qua mỗi lần đúc thử đều khơng
thành cơng, nếu khơng muốn nói là thất bại,
cho dù đó chỉ là đúc phục chế chứ khơng
phải sáng tạo ra vật mẫu. Sở dĩ như vậy là
vì, trong những lần đúc thực nghiệm trống


24

Trương Đắc Chiến / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân vãn, Tập 8, Sơ 1 (2022) 13-28

đồng đó, nhà nghiên cứu chủ yếu dựa trên
tài liệu dân tộc học, kết họp với suy đốn từ
những dấu vết cịn lại trên thân trống. Dù có
thể hình dung cơ bản ra các bước phải trải
qua của quy trình đúc trống, nhưng để đúc
được một chiếc trống Đơng Sơn hồn hảo
như các trống đã phát hiện, thì vẫn cịn một
khoảng cách khá xa. Sau mỗi lần đúc thừ,
các tác giả đều đã rút kinh nghiệm, và
nguyên nhân thất bại cơ bản là ở khâu làm
đất tạo khuôn, khâu nung khuôn, tư thế đặt

khn và thành phần họp kim. Có thể thấy,
trong các nguyên nhân cơ bản lí giải cho
việc thất bại của hoạt động đúc thực nghiệm,
thì có đến 3/4 ngun nhân là liên quan đến
khuôn trống. Neu như thông tin về thành
phần hợp kim hồn tồn có thể được thu
thập thơng qua các phân tích các trống Đơng
Sơn đê tìm hiêu tỉ lệ các kim loại được dùng
để đúc trống, thì thơng tin về mảnh khn
đúc trống lại hầu như vắng bóng. Trong các
cuộc khai quật khảo cơ học, nhà khảo cố vần
thường tìm được các di tích, di vật như lị
nấu, xi quặng, khn đúc của các loại rìu,
giáo, dao gàm, V.V., nhưng lại khơng hề tìm
thấy khn đúc trống. Rõ ràng, sự thiếu
vắng nguồn tư liệu trực tiếp này là một trở

ngại to lớn trong việc nghiên cứu quy trình
đúc trống của người xưa. Khơng có tài liệu
trực tiếp, việc nghiên cứu thực nghiệm chi
hoàn toàn dựa trên quan sát dân tộc học và
kinh nghiệm dân gian, cho nên dễ hiêu tại
sao việc đúc trống không thể thành cơng như
mong đợi.
Trong bối cảnh đó, việc phát hiện hàng
trăm mảnh khn đúc trống trong tầng văn
hóa ở thành cồ Luy Lâu vào năm 2014-2015
có ý nghĩa cực kì quan trọng. Những mảnh
khuôn này được phát hiện nằm nguyên vị
trong địa tầng khảo cổ học, khơng hề có sự

xáo trộn. Hiện vật đi kèm là vật liệu kiến
trúc và đồ gốm sứ có niên đại từ Đơng Hán
muộn đến Lục Triều. Sưu tập hiện vật này
gồm đủ cả các mảnh khn ngồi và khn
trong, với các vị trí mặt, tang, lưng và chân
trống (Bảng 1). Cùng với đó là các hiện vật
liên quan đến hoạt động đúc trống như:
mành nồi nấu/rót đồng, phễu rót đồng, ắc
bàn xoay, mảnh đáy lị, xỉ quặng, V.V.. Dựa
trên nguồn tư liệu trực tiếp này, các nhà
khảo cổ của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã
bước đầu giải đáp được những vấn đề liên
quan đến kĩ thuật đúc trống Đông Sơn
(Trương Đắc Chiến 2020: 49-52).

Bảng 1: Báng phán loại mành khuôn đúc trông Luy Lãu

Loại hình
Vị trí
Số lượng
Tổng

Mặt
37

Khn ngồi
Tang Lưng Chân
2
17
27

83

Mặt
47

Khn trong
Tang Lưng Chân
75
56
52
230

Hình 5: Mành khn ngồi, phán mặt trồng

Khơng
xác định
61Ỏ
610

'T’ ỉ



Tơng

923


Trương Đắc Chiến / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 13-28


25

(Anh: Trương Đăc Chiên)

Trước hết, về câu hỏi trống Đông Sơn
được đúc bằng phương pháp ghép khuôn
(piece-mould method) hay phương pháp sáp
chảy (lost-wax method), phát hiện khuôn
đúc trống ở Luy Lâu cho thấy chắc chắn
trống Đông Sơn được đúc bằng phương
pháp ghép khn nhiều mang bằng đất
nung.

sét mịn, lớp ngồi là sét trộn vỏ trấu hoặc bã
thực vật, phần mặt đúc phủ lớp áo mịn;
khn đúc có khả năng chỉ được sấy khơ,
nếu có được nung cũng khơng q 500°C.

về chất liệu và độ nung khn: Tuy chưa
có các phân tích thạch học và nhiệt vi sai,
nhưng bàng mắt thường có thể nhận thấy
khn đúc Luy Lâu có hai lóp, lớp trong là

về việc sừ dụng con kê: Người Việt cổ
sừ dụng con kê bằng đất chịu lừa tương tự
như đất làm khuôn.

về cách tạo hoa văn: Nghiên cứu sưu tập
khuôn đúc Luy Lâu cho thấy hoa văn được
tạo trực tiếp trên khn ngồi, bằng hai

phương pháp là khắc và in.

Hình 6: Mành khn ngồi, phẩn thán trống

(Anh: Tnrơng Đắc Chiến)


26

Trương Đắc Chiến / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 13-28

Hình 7: Mảnh khuôn trong: a. Phần mặt trống: b. Phần tang trổng: c. Phần tang trống có dính con kê
đát nung: d. Phân chán trơng

(Anh: Trương Đăc Chiên)

Vê vị trí rót đồng: Vị trí mở đậu rót ở
chính giữa ngơi sao trung tâm, và khn
được đặt sấp khi rót đồng.
về niên đại: Đã có hai mẫu than của hai
mành khn trong được gửi đi phân tích
C14 tại Cộng hịa Liên bang Đức, kết quả
như sau: mẫu 1 có niên đại 357-167 trước
cơng ngun, mẫu 2 có niên đại 1401-1268
trước cơng ngun. Như vậy, cả hai mẫu
than có niên đại rất khác nhau. Trong khi
mẫu 1 nằm trong khung niên đại của trống
Đơng Son, thì mầu 2 lại cho niên đại q
sớm, tưong đưong giai đoạn Phùng Nguyên
- Đồng Đậu, khi mà trống Đông Son chưa ra

đời. Đe định niên đại cho sưu tập khuôn đúc
nêu trên, bài viết phải dựa vào các hiện vật
đi kèm trong lớp 3b, nhất là vật liệu kiến
trúc và gốm sứ, vốn là vật chi thị niên đại.
Những gạch, ngói và gốm sứ trong lớp 3b
chủ yếu nằm trong khung niên đại Đông
Hán muộn - Lục Triều, tức là trong khoảng
thế ki III-VL Niên đại của lóp 3b cũng phù
hợp với địa tầng các hố khai quật khác và
địa tầng chung của Luy Lâu. Từ đó, có thê

n tâm khăng định niên đại của sưu tập
khn đúc là thế ki III-VI.

về loại trống và mối quan hệ: Trống đúc
từ khuôn Luy Lâu là trống Heger I - nhóm
c, thuộc dịng trống lưng thảng, đi kèm với
hoa văn răng lược và vòng tròn kép, giống
với các trống Đắc Giao (Kon Turn), Thơn
Mống (Ninh Bình), Thơn Bùi (Thanh Hóa)
và Phú Phưcmg I (Hà Nội). Trong hệ thống
phân loại ở Việt Nam, các trống nhóm c
được xếp trong khung niên đại từ thế kỷ III
trước công nguyên đến thế kỷ I. Tuy nhiên,
việc phát hiện khuôn đúc ở Luy Lâu trong
lóp đất thời Lục Triều khiến chúng ta phải
xem xét lại việc phân chia khung niên đại
cho các nhóm trống Đông Soti đã biết. Căn
cứ vào phát hiện ở Luy Lâu, có thê thấy
ràng, ít nhất là khung niên đại của trổng

nhóm c cịn kéo dài tới khoảng thế kỷ IIIVI.
Từ những gì vừa trình bày, có thể thấy
ràng, với sưu tập khn đúc Luy Làu, chúng
ta đã có thê giải đáp một cách cơ bản những
vấn đề liên quan đến phương pháp và kĩ


Trương Đắc Chiến / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 13-28

thuật đúc trống Đông Sơn. Dưới ánh sáng
của nguồn tài liệu mới, những câu hỏi hóc
búa tưởng như khơng có lời giải hàng thập
kỷ, đến nay đã có thể được trả lời một cách
thấu đáo. Bên cạnh ý nghĩa to lớn về mặt
khoa học - kĩ thuật đó, dưới góc độ lịch sử
và văn hóa, những mảnh khn đúc trống
đồng ở thành cổ Luy Lâu cịn là bằng chứng
cho thấy tính bản địa của trống Đông Sơn ở
miền Bắc Việt Nam cũng như sức sống
mạnh mẽ của văn hóa Đơng Sơn trong dịng
chảy lịch sử. Với ý nghĩa đó, hy vọng rằng,
trong tương lai không xa, sưu tập hiện vật
quý giá này sẽ được công nhận là Bảo vật
quốc gia, với tư cách là một phần quan trọng
của di sản văn hóa Đông Sơn - đỉnh cao của
văn minh Việt cổ.

Tài liệu dẫn
Bennett Anna. 2006. “Lost-Wax or Piece-Mould
Casting?”. Arts & Cultures: Antiquity, Africa,

Oceania, Asia, Americas, pp. 268-271.
Calo Ambra. 2014. Trails ofBronze Drums across
Early Southeast Asia. Singapore: ISEAS
Publishing.
Chiou-Peng TzeHuey. 2011. “The Technical
History of Early Asian Kettldrums”. Pp 17-26
in Khmer Bronzes: New Interpretations of the
Past, edited by Emma c.Bunker and Douglas
Latchford. Chicago: Art Media Resources.
Diệp Đình Hoa. 1981. “Qua thành phần hóa học
của những chiếc trống đồng cổ Việt Nam”.
Trang 166-168 trong Những phát hiện mới về
khảo cổ học 1981. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa
học Xã hội.
Diệp Đình Hoa. 1983. “Thử tìm hiểu thành phần
hóa học của một vài chiếc trống đồng cố”.
Trang 141-142 trong Những phát hiện mới về
khảo co học 1983. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa
học Xã hội.
Heger Franz. 1902. Alte Metalltromeỉn aus
Sudost-Asien, Leipzig.
Higham Charles. 1996. The Bronze Age of
Southeast Asia. UK: Cambridge University
Press.

27

Hồng Văn Khốn. 1985. “Bàn về kỹ thuật đúc
trống đồng Đông Son”. Thông báo Khoa học
ViệnBảo tàng Lịch sử Việt Nam'. 148-153.

Hồng Văn Khốn, Hà Văn Tấn. 1974. “Tìm hiểu
kỹ thuật đúc trống đồng Ngọc Lũ”. Tạp chí
Khảo cổ học số 14: 37-42.
Kempers Bemet. 1988. The Kettledrums of
Southeast Asia - A Bronze Age world and its
aftermath.
Rotterdam: A.A.Balkema
Publishers.
Kiểu Quang Chan. 2018. Vang vọng từ trống
Đông Sơn. Hà Nội: Nhà xuất bản Thế giới.
Lê Văn Chiến, Đinh Thị Lệ Huyền, Đinh Văn
Mạnh, Hồi Anh, Nguyễn Văn Thủy, Nguyễn
Hơng Tính. 2016. Báo cáo kết quả khai quật di
tích thành cơ Luy Lâu (Bắc Ninh) năm 2015,
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Hà Nội.

Meyers Pieter. 2006. “A Commentary on the
Technology of Dong Son Vessels”. Arts &
Cultures: Antiquity, Africa, Oceania, Asia,
Americas'. 264-267.
Murowchick Robert. 2001. “The Political and
Ritual Significance of Bronze Production and
Use in Ancient Yunnan”. Journal of East Asian
Archaeology, Volume 3, Issue 1: 133-192.
Ngô Thế Phong, Chu Mạnh Quyền. 2014. “Những
chiếc ưống đồng Đông Sơn (HI) sưu tầm gần
đây tại Bào tàng Lịch sứ Quốc gia”. Trang
192-205 trong Kỳ yếu Hội thảo 90 năm phát
hiện và nghiên cứu văn hóa Đơng Sơn. Hà Nội:
Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc.

Nguyễn Duy Hình. 2001. Trống đồng - Quốc báo
Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bàn Khoa học Xã
hội.
Nguyễn Thơ Đình. 2017. “Quy trình đúc trống
Đông Sơn từ cách tiếp cận thực nghiệm dân tộc
- khảo cổ học”. Tạp chí Khảo cổ học số 1: 4455.
Nguyễn Văn Hun, Hồng Vinh. 1975. Những
trống đỏng Đơng Sơn đã phát hiện ở Việt Nam.
Hà Nội: Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam xuất
bản.
Nguyen Viet. 2006. “Bronze Situlas of Dong
Son”. Arts & Cultures: Antiquity, Africa,
Oceania, Asia, Americas: 234-263.


28

Trương Đắc Chiến / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn. Tập 8. số 1 (2022) 13-28

Nishimura Masanari., Nishino Noriko., Phạm
Minh Huyền, Hán Văn Khẩn. 2002. Báo cáo
kết quả khai quật năm 2001 tại thành cô Lũng
Khê (tiếp theo). Trang 545-559 trong Những
phát hiện mới vé khao cỏ học 2001. Hà Nội:
Nhà xuất bán Khoa học Xă hội.
Nishimura Masanari., Pham Minh Huyen. 2008.
“Consideration of the bronze drums discovered
in Binh Dinh province of central Vietnam and
its cultural context”. Journal of East Asian
cultural interaction studies: 187-219. Kansai

University.
Parmentier Henri. 1918. “Anciens tambours de
bronze”. BEFEO, tome 18: 1-30.
Tạ Đức. 2017. Nguồn gôc và sự phát triên cua
trong đồng Đông Sơn. Hà Nội: Nhà xuất bán
Tri thức.
Trần Khoa Trinh. 1977. “Đúc lại trống đồng Ngọc
Lũ". Tạp chí Kháo cơ học sơ 2: 68-75.
Trần Khoa Trinh. 1985. “Trở lại việc đúc thừ
trống đồng Ngọc Lũ”. Thòng báo Khoa học
Viện Bao tàng Lịch sử Việt Nam: 154-158.

Trịnh Sinh. 1996. "Qua những lần thực nghiệm
đúc trong đơng”. Tạp chí Khao cị học sơ 2: 4252.
Trinh Sinh. 2012. “Casting of Ancient Drums in
North Vietnam". Pp. 154 - 163 in Scientific
Research on Ancient Asian Metallurgy.
London: Archetype Publications.
Trương Đắc Chiến. 2020. “Ve những mành khuôn
đúc trống đồng phát hiện tại thành cổ Luy Lâu
(Thuận Thành. Bắc Ninh)”. Tạp chí Khảo cô
học số 3: 42-55.
Trương Đắc Chiến. Đinh Thị Lệ Huyền, Chu
Mạnh Quyền, Hồi Anh, Nguyễn Hồng Tính.
2015. Báo cáo kết quả khai quật di tích thành
cố Luy Láu (Bấc Ninh) năm 2014, Bảo tàng
Lịch sừ Quốc gia, Hà Nội.

Wu Chongji, Luo Kunxin, Cai Rong. 2018.
Decoration Art of Ancient Bronze Drums.

Beijing: Guangxi Museum of Nationalities,
Chinese Ancient Bronze Drum Research
Association, Heritage Press.



×