Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Mác Lênin về con người và xây dựng con người Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.66 KB, 47 trang )

MUC LUC
••

A. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Mục đích và nhiệm vụ
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa của đề tài
6. Bố cục của đề tài
B. Phần nộỉ dung
Chương 1: Một số quan điểm trước Mác về con người
1. Quan điểm của triết học phương Đông về con người
2. Quan điểm của triết học phương Tây về con người Chương 2:
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người
1. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người
2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về giải phóng con người
Chương 3: Vấn đề xây dựng con người của nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay
1. Con người Việt Nam trong lịch sử
2. Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và vấn đề đặt ra
cho con người Việt Nam
3. Vấn đề xây dựng con người Việt Nam đáp ứng giai đoạn hiện
nay
C. Phần kết thúc
D. Danh mục tham khảo

1


A. PHẰN MỞ ĐẰU


1. Lý do chọn đề tài
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học
khác nhau như sinh vật học, tâm lý học, đạo đức học, y học. Nghiên
cứu về con người là một vấn đề khơng mới lạ nhưng lại xoay quanh
nhiều khía cạnh tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi ngành khoa học. Con
người cũng luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến
trung đại.
Từ thời xa xưa cho đến thời đại ngày nay con người được xem là
vị trí trung tâm và có vai trị quyết định đến sự tồn vong và phát triển
của xã hội. Con người được xem là chủ thể của lịch sử xã hội, con
người làm ra lịch sử xã hội. Vì vậy con người phải được tôn trọng,
được sống tự do hạnh phúc và được phát triển toàn diện. Song ngày
nay con người vẫn đang trong tình trạng bất cơng, địi hỏi xã hội phải
quan tâm đến sự phát triển của con người.
Con người cũng là mục tiêu cơ bản của sự phát triển xã hội. Để
đảm bào cho xã hội phát triển vấn đề xây dựng con người giữ một vai
trị hết sức quan trọng và ln thường trực. Đặc biệt là trong q trình
tồn cầu hố, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vai trò của con người
ngày càng được khẳng định rõ nét.
Ở Việt Nam vấn đề con người cũng luôn là một vấn đề thời đại
và đang được nhiều ngành khoa học, nhiều cá nhân đặc biệt quan tâm,
nhất là vấn đề xây dựng con người mới trong thịi đại mới.
Chính vì những lí do về mặt lí luận và thực tiễn trên cùng với
mối quan hệ riêng cá nhân mà tôi đã chọn đề tài: Quan điểm của
2


triết học Mác - LêNin về con người và vẩn đề xây dựng con người
Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề con người là một vấn đề không mới và đã được rất nhiều
ngành khoa học từ trước đến nay quan tâm tìm hiểu, nó cũng được nói
đến rất nhiều qua sách vở, báo chí, các phương tiện thông tin. Tuy là
vấn đề không mới nhưng đây là vấn đề mang tính thời đại và có ý
nghĩa lớn lao đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Ngồi ra nó cũng
là một nội dung có ý nghĩa quan trọng của chủ nghĩa Mác - LêNin và
của cách mạng XHCN, là vấn đề thực tiễn nóng bỏng đòi hỏi phải
được giải quyết một cách đúng đắn và thận trọng. Khi làm đề tài này,
bản thân tôi cũng mong muốn có một đóng góp nhỏ vào lĩnh vực trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ
Thứ nhất, tìm hiểu quan điểm của triết học phương Đông và
phương Tây vầ nguồn gốc và bản chất của con người.
Thứ hai, tìm hiểu quan điểm của triết học Mác - LêNin về con
người từ đó có những nhân thức đúng đắn về con người trong thịi đại
ngày nay và chính bản thân mình.
Thứ ba, tìm hiểu con người Việt Nam từ xưa đến nay và vấn đề
xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của thời đại mới.
4. Cơ sở ỉý luận và phương pháp nghiên cứu

3


Tiểu luận đuợc viết nhờ trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - LêNin với phương pháp logic lịch sử, hệ thống hố, phân
tích tổng hợp và liên hệ thực tiễn.
5. Ý nghĩa của đề tài
Tìn hiểu nguồn gốc và bản chất của con người trong quan điểm
của triết học Mác - LêNin để từ đó rút ra được kết luận cho bản thân
trong việc tự hoàn thiện mình.
Mong được trao đổi ý kiến với những nguời có chung mối quan

tâm, nhất là đối với thế hệ trẻ hiện nay trong việc hoàn thiện bản thân
đáp ứng yêu cầu của thời đại mới.
6. Bố cục của đề tài
Đề tài gồm có ba chương:
Chương 1: Một số quan điểm trước Mác về con người Chương 2:
Quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác - LêNin về con người
Chương 3: vấn đề xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.

4


B. PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNGI
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRƯỚC MÁC VỀ CON NGƯỜI
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan
trọng nhất của thế giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà ln được
các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc
nhất. Không những thế trong nhiều đề tài khoa học của xã hội xưa và
nay thì đề tài con người là một trung tâm được các nhà nghiên cứu cổ
đại đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học,
xã hội học V.V...TÙ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và
khơng ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý
nghĩa riêng đối với sự hiểu biết và làm lợi cho con người.
Hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều
mâu thuẫn trong quan điểm, nhận thức và nó đã gây nên sự đấu tranh
khơng biết khi nào dừng. Những lập trường chính trị trình độ nhận
thức và tâm lý của những người nghiên cứu khác nhau và do đó đã

đưa ra những tư tưởng hướng giải quyết khác nhau.
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học đều tự
hỏi: Thực chất con người là gì và để tìm cách trả lời câu
hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn trong chính con
người. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con
người là một tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế
giới rộng lớn, bản chất con người là bản chất vũ trụ. Con
người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể

5


của mn lồi, chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai
phần là phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tơn giáo thì cho
rằng: Phần hồn là do thượng đế sinh ra, quy định, chi phối mọi hoạt
động của phần xác, linh hồn con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy
vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác quyết định và chi phối phần
hồn, khơng có linh hồn nào là bất tử cả, và q trình nhận thức đó
khơng ngừng được phát hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra được
bản chất của con người và không ngừng khắc phục lý luận trước đó.
Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về
con người trên cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát
triển. Chủ nghĩa duy vật máy móc coi con người như một bộ máy vận
động theo một quy luật cổ. Học chủ nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết
không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm giác của cái tôi là trung tâm
sáng tạo ra cái không tôi, mặt khả cho rằng cái tơi khơng có khả năng
vượt q cảm giác của mình nên về bản chất là nhỏ bé yếu ớt, phụ
thuộc đấng tới cao. Các nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai trò
sáng tạo của lý tính người, mặt khác coi con người, mặt khác coi con
người là sản phẩm của tự nhiên và hoàn cảnh.

Các nhà triết học cổ điển Đức, từ Cartơ đến Heghen đã phát triển
quan điểm triêt học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm.
Đặc biệt Heghen quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt
đối là con người ý thức và do đó đời sống con người chỉ được xem xét
về mặt tinh thần song Heghen cũng là người đầu tiên thông qua việc
xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần mà phát hiện ra quy
luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá
6


nhân. Đồng thời Heghen cũng đã nghiên cứu bản chất quá trình tu
duy khái quát các quy luật cơ bản của q trình đó.
Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, Phơ bách đã
phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học
Heghen, ông quan niệm con nguời là sản phẩm của tự nhiên, có bản
năng tự nhiên, là con nguời sinh học trực quan, phụ thuộc vào hồn
cảnh, ơng đã sử dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để chứng minh
mối liên hệ không thể chia cắt của tu duy với những quá trình vật chất
diễn ra trong cơ thể con nguời, song khi giải thích con nguời trong
mối liên hệ cộng đồng thì Phơ bách lại rơi vào lập truờng của chủ
nghĩa duy tâm.
Tóm lại, các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những các
thức lý luận xem xét nguời một cách trừu tuợng. Đó là kết quả của
việc tuyệt đối hoá phần hồn thành con nguời trừu tuợng. Tự ý thức
cịn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt đối hoá phần xác thành con
nguời trừu tuợng tuy nhiên họ vẫn cịn nhiều hạn chế, các quan niệm
nói trên đều chua chú ý đầy đủ đến bản chất con nguời.
Sau này chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn
chế đó, đồng thời phát triển những quan niệm về con nguời đã có
trong các học thuyết triết học truớc đây để đi tới quan niệm về con

nguời thiện thực, con nguời thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tu
cách là con nguời hiện thực. Con nguời vừa là sản phẩm của tự nhiên
và xã hội đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên.
1. Quan điểm của triết học phương Đông về con người
Những vấn đề triết học về con nguời là một nội dung lớn trong lịch sử
triết học nhân loại. Đó là những vấn đề: Con nguời là
7


gì? Bản tính, bản chất con người? Mối quan hệ giữa con người và thế
giới? Con người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do?....
Đây cũng chính là nội dung cơ bản của nhân sinh quan - một nội dung
cấu thành thế giới quan triết học. Tuỳ theo điều kiện lịch sử của mỗi
thời đại mà nổi trội lên vấn đề này hay vấn đề kia. Đồng thời, tuỳ theo
giác độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết học, các nhà triết
học trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau trong việc
lý giải về con người. Mặt khác trong khi giải quyết những vấn đề trên,
mỗi nhà triết học, mỗi trường phái triết học có thể lại đứng trên lập
trường thế giới quan, phương pháp luận khác nhau: Duy vật hoặc duy
tâm, biện chứng hoặc siêu hình...
Trong nền triết học Trung Hoa suốt chiều dài lịch sử trên hai
ngàn năm cổ - trung đại, vấn đề bản tính con người là vấn đề được
quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này, các nhà tư tưởng của Nho
gia và Pháp gia đã tiếp cận từ giác độ hoạt động thực tiễn chính trị,
đạo đức của xã hội và đi đến kết luận bản tính người là Thiện (Nho
gia) và bản tính người là Bất Thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng của
Đạo gia, ngay từ Lão tử thời Xuân Thu, lại tiếp cận giải quyết vấn đề
bản tính người từ giác độ khác và đi tới kết luận bản tính Tự Nhiên
của con người. Sự khác nhau về giác độ tiếp cận và với những kết
luận khác nhau về bản tính con người đã là tiền đề xuất phát cho

những quan điểm khác nhau của các trường phái triết học này trong
việc giải quyết các vấn đề về quan điểm chính tri, đao đức và nhân
sinh của ho.
•7





Khác với nền triết học Trung Hoa, các nhà tư tưởng của các
trường phái triết học Ấn độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật
8


lại tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời người
ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình (siêu hình học) đối với những vấn đề
nhân sinh quan. Kết luận về bản tính Vơ ngã, Vơ thường và tính
hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ là
một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật.
Nhìn chung quan điểm về con người trong triết học phưong
Đông thể hiện rất phong phú nhưng mang nặng tính duy tâm. Các học
thuyết ấy lấy đạo đức làm nền tảng để giải quyết những vấn đề trong
cuộc sống.
Song các chuẩn mực đạo đức, các quan điểm về bản tính con
người, đạo làm người và hình mẫu con người lại rất đa dạng chứa
đựng những tư tưởng giống nhau, khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Những tư tưởng này tồn tại lâu dài trong lịch sử và giữ vai trò nền
tảng cho thế hệ sau tiếp tục hoàn thiện để thể hiện quan điểm của
mình.
2. Quan điểm của triết học phương Tây về con người

Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thể hiện ở
hai khuynh hướng duy vật và duy tâm qua thời đại cổ, thời trung cổ,
thời phục hưng và cận đại, thời hiện đại. Trong suốt chiều dài lịch sử
triết học phương Tây đến nay những vấn đề triết học về con người vẫn
là một đề tài tranh luận chưa chấm dứt. Thực tế lịch sử đã cho thấy
giác độ tiếp cận giải quyết các vấn đề triết học về con người trong nền
triết học phương Tây có nhiều điểm khác với nền triết học phương
Đơng. Nhìn chung, các nhà triết học theo lập

9


trường triết học duy vật đã lựa chọn giác độ khoa học tự nhiên để lý
giải về bản chất con người và các vấn đề khác có liên quan.
Thời cổ đại
các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về bản chất vật
chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong
giới tự nhiên khơng có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất.
Tiêu biểu cho quan điểm của con người ở phương Tây cổ đại là
những tư tưởng của người Hy Lạp.
Ở Hy Lạp các nhà duy vật đầu tiên đã coi con người như một bộ
phận cấu thành thế giới. Xuất phát từ quan điểm thế giới do một số
chất tạo nên, các nhà duy vật thời kì này cũng quan niệm con người
được bắt nguồn từ một hay một số chất đó. Ví dụ: TaLet xem chất đó
là nước, Heraclit xem chất đó là lửa, Anaximen xem chất đó là khơng
khí.
Empêđốclơ, Lơxíp, Đêmơcrít là những người tiêu biểu cho quan
điểm duy vật thời kì này.
Empêđốclơ cho rằng nguồn gốc của thế giới là lửa, khơng khí,
đất và nước. Những yếu tố này hoà họp với nhau, trải qua bốn thời kì

tiến hố đã sinh ra sự sống. Mọi sức sống đều có lí tính nhưng con
người là sự sống có lí tính cao nhất thơng minh nhất.
Lơxíp và Đêmơcrít cho rằng bản ngun của thế giới là nguyên
tử nên ông cũng khẳng định con người là sản phẩm của sự kết họp các
nguyên tử.
Con người có linh hồn, song linh hồn cũng do các nguyên tử tạo
nên và một số yếu tố của linh hồn ấy là nhu cầu và tưởng tượng đã
dạy bảo bàn tay con người hoạt động để đưa con người từ mông muội
đến văn minh.
10


Chủ nghĩa duy tâm lại truy tìm nguồn gốc và bản chất của con
người từ những lực lượng siêu tự nhiên. Tiêu biểu cho quan điểm này
là Xôcrat và Platôn.
Xôcrat cho rằng thế giói do thần tạo ra và đã an bài. Con người
khơng nên tìm hiểu thế giới vì như thế là xúc phạm thần mà con người
hãy tự hiểu về bản thân mình.
Platơn cho rằng ý niệm có trước tất cả, là nguồn gốc của tấ cả. Ý
niệm tồn tại vĩnh viễn và bất biến. Con người gồm hai phần độc lập
với nhau là thể xác và linh hồn. Thể xác được tạo thành từ đất, nước,
lửa, không khí nên có thể mất đi. Khi con người chết, linh hồn thoát
khỏi thể xác về với thế giới ý niệm của mình để đến một lúc nào đấy
linh hồn lại nhập vào một thể xác mới tạo ra một người mới. Nhân
thức của con người là sự hồi tưởng lại những gì mà ý niệm đã có.
Thời trung cể
Đây là thịi kì hệ tư tưởng cơ đốc giáo giữ vai trò thống trị nên
quan điểm về vái trò của Chúa Trời cũng là vai trị thống trị. Tơmát
Đacanh là người tiêu biểu cho tư tưởng ở thời kì này.
Tơmát Đacanh quan niệm thế giới do Chúa Trời sáng tạo ra

từ hư vơ và con người là hình ảnh của Chúa được Chúa đặt
sống ở trung tâm vũ trụ. Con người có thể xác và linh hồn
bất tử. Linh hồn này được Chúa tạo ra cùng sự tạo ra thể
xác con người. Chúa sắp xếp thế giới theo trật tự từ các
sự vật khơng có linh hồn đến con người, thần thánh và cao
nhất là Chúa. Đây là trật tự chặt chẽ và bất biến. Quan
điểm về con người nói riêng và triết học của Tơmát Đacanh
nói chung được Giáo hội Thiên Chúa giáo coi là hệ tư

1
1


tưởng duy nhất đúng và được Giáo hội sử dụng làm hệ tư tưởng chính
thống của mình.
Con người trong triết học thời trung cổ đã bị tước đoạt hết tính
tự nhiên, năng lực và sức mạnh. Hình ảnh con người trở nên nhỏ bé,
yếu đuối, vật vờ, tạm bợ trong thế giới hữu hình dưới quyền lực vơ
biên của đấng sáng tạo. Hệ tư tưởng này đã bóp chết ý muốn vưon
lên, tự khẳng định mình, tự giải phóng mình mà nhiều nhà tư tưởng
thời cổ đại đã đề cập đến.
Thời Phục Hưng và cận đại
Triết học thời kì phục hưng hiện đại đặc biệt đề cao vai trị trí
tuệ, lí tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ.
Đó là một trong những yếu tố quan trọng nhằm giải thoát cho con
người khỏi mọi gơng cùm chật hẹp mà chủ nghía thần học thời
trung cổ đã áp đặt cho con người. Tuy nhiên, để nhận thức đầy đủ
nhận thức của con người cả về mặt sinh học và về mặt xã hội thì
chưa có trường phái nào đạt được, mới chỉ nhấn mạnh về mặt cá
thể mà xem nhẹ mặt xã hội.

•••

Ở Anh, Bêcơn coi thể xác con ngưòi là sản phẩm tự nhiên, là
thực thể vật chất, con tinh thần là thứ vật chất chỉ tồn tại trong óc
người vận động theo thần kinh vào máu, song chính thứ vật chất ấy đã
đem lại cho con người sức mạh tiềm tàng là tri thức.
Ở Pháp, Rutxơ quan niệm bản tính con người là tự do và lịch sử
nhân loại không tuân theo ý muốn của bất kì thế lực nào mà là kết quả
hoạt động của con người mang bản tính tự do ấy. Điđrô coi con người
là đỉnh cao nhất trong quá trình tiến hố lâu dài của tự nhiên; coi trí
tuệ và đạo đức là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội và coi sức mạnh của
con người nằm trong tri thức khoa học.


12


Ở Hà Lan, xpinôda cho rằng giới tự nhiên là thực thể duy nhất,
tồn tại theo chính mình, con người là sản phẩm của giới tự nhiên. Triết
học có nhiệm vụ chính là giúp con người có học thức để nhận thức
giới tự nhiên, làm theo giới tự nhiên và làm theo lý tưởng đạo đức cao
đẹp.
Triết học thòi Phục Hưng và cận đại có nét nổi bật là phủ nhận
quyền lực của đấng sáng tạo, đề cao sức mạnh của con người, đề cao
vai trị của lí trí, đề cao các giá trị và đề cao tư tưởng vì con người.
Thòi hiện đại
Vấn đề con người trong triết học phưong Tây hiện đại thể hiện
rõ nét qua quan điểm của phân tâm học, chủ nghĩa nhân vị, chủ nghía
thực dụng, chủ nghĩa phê phán, chủ nghĩa hiện sinh. Tư tưởng của
những học thuyết này tạo nên trào lưu triết học nhân bản phi lí tính,

trong đó chủ nghĩa hiện sinh giữ vai trị trọng yếu.
Nhìn chung, các học thuyết thuộc trào lưu triết học nhân bản phi
lí tính cũng như các học thuyết khác ở phưong Tây hiện đại đều coi
những yếu tố về tinh thần như nhu cầu bản năng, vơ thức, tri thức,
tình cảm ... là bản chất của con người. Con người thường được tuyệt
đối hoá về mặt cá nhân. Mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá
nhân với cộng đồng, cá nhân với xã hội thường đề cập ở góc độ hồi
nghi, bi quan bế tắc. Tất cả những điều ấy phản ánh sự khủng hoảng
về mặt giá trị của con người trong giá trị phương Tây hiện đại. Các
quan điểm triết học trước Mác và ngồi mácxít cịn có một hạn chế cơ
bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết
học về con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài
quan niệm trừu tượng về bản chất
13


con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh,
xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con
người. Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan
niệm duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin về con người.

14
1
5


CHƯƠNG II
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ
CON NGƯỜI
1. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người

a) Con người ỉà một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật VĨI
_______w J________m 1 Ạ



mặt xã hội
Theo quan điểm duy vật lịch sử sự tồn tại và phát triển của con
người luôn luôn chịu sự chi phối tác động bởi 3 loại qui luật sau: các
qui luật sinh học, các qui luật tâm lý ý thức, các qui luật XH. Trong
tác phẩm những luận cưong về Phơbách, C.Mác đưa ra luận cương VI
khẳng định về bản chất con người năm 1845. Nói tới bản chất con
người phải dựa trên một nền tảng sinh học xác định, đó là cơ thể sống,
con người hiện thực. Bản chất con người khơng phải là cái bất biến
mà nó ln được phát triển theo sự tiến bộ của lịch sử vì vậy mồi thời
đại lịch sử khác nhau sẽ có những kiểu mẫu người khác nhau. Sự
đóng góp mới của triết học Mác về vấn đề con người là xem xét con
người mang tính lịch sử cụ thể; khẳng định bản chất con người là do
các quan hệ xã hội quyết định. Con người là sản phẩm của sự tiến hoá
lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật. Do vậy nhiều quy luật sinh
vật học cùng tồn tại và tác động đến con người. Để tồn tại với tư cách
là một con người trước hết con người cũng phải ăn, phải uống ... Điều
đó giải thích vì sao Mác cho rằng co người trước hết phải ăn, mặc ở
rồi mới làm chính trị.


Nhưng chỉ dừng lại ở một số thuộc tính sinh học của con người
thì khơng thể giải thích được bản chất của con người. Mác và
Ăngghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết học
đi trước rằng con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động
vật xã hội, nhưng khác với họ, Mác và Ănghen xem xét mặt tự nhiên

của con người, như ăn, ngủ, đi lại, u thích ... Khơng cịn hồn mang
tính tự nhiên như ở con vật mà đã được xã hội hố. Mác viết: “Bản
chất của con người khơng phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là
tổng hoà của những mối quan hệ xã hội” con người là sự kết họp giữa
mặt tự nhiên và mặt xã hội nên Mác nhiều lần đã so sánh con người
với con vật, so sánh con người với những con vật có bản năng gần
giống với con người ... Và để tìm ra sự khác biệt đó. Mác đã chỉ ra sự
khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người làm ra tư liệu sinh hoạt
của mình, con người biến đổi tự nhiên theo quy luật của tự nhiên, con
người là thước đo của vạn vật, con người sản xuất ra công cụ sản
xuất... Luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ
sản xuất được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con
người.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử
triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất
giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự
nhiên. Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó
tất cả bản tính sinh học, tính lồi của nó. Yếu tố sinh học trong con
người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy,
có thể nói: Giới tự nhiên là “thân thể vơ cơ của con
16


người”; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của q
trình phát triển và tiến hố lâu dài của môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là
yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự
khác biệt giữa con người với thế giới lồi vật là phưong diện xã hội

của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con
người với loài vật, như con người là động vật sử dụng cơng cụ lao
động, là “một động vật có tính xã hội”, hoặc con người động vật có tư
duy ... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một
khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên
được nguồn gốc của bản chất xã
r
1 A • Ạ___________

hội ây.
Với phưong pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức
vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện
thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật
chất. “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tơn
giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt
đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ
chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính địi
sống vật chất của mình.
Thơng qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay
đổi, cải biến giới tự nhiên: “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, cịn
con người thì tái sản xuất ra tồn bộ giới tự nhiên”.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật
chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản
17


tính xã hội của con người. Thơng qua hoạt động lao động sản xuất,
con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ địi sống

của mình; hình thành và phát triển ngơn ngữ và tư duy; xác lập quan
hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất
xã hội của con người, đồng thịi hình thành nhân cách cá nhân trong
cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và
phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy
luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự
nhiên như quy luật về sự phù họp cơ thể với môi trường, quy luật về
sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa ... quy định phương
diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình
thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình
thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã
hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất
hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt
xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ
thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con
người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu
tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng
quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học
và nhu cầu xã hội trong mồi con người là thống nhất. Mặt sinh học là
cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc


trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học
phải được “nhân hóa” để mang giá trị văn minh con người, và đến
lượt nó, nhu cầu xã hội khơng thể thốt ly khỏi tiền đề của nhu cầu
sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để
tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.

b) Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người ỉà tồng hồ
những quan hệ xã hội
Sự tổng hịa các quan hệ XH là trong cuộc sống hiện thực thông
qua các quan hệ XH cụ thể như quan hệ với gia đình với anh em, bè
bạn, tập thể, giai cấp, cộng đồng XH, các quan hệ này tác động vào
bản thân mỗi con người theo những chiều hướng khác nhau, ở những
mức độ khác nhau từ đó mà định hình phát triển nhân cách mỗi con
người.
Luận điểm của Mác coi “Bản chất của con người là tổng hoà các
quan hệ xã hội” Mác hồn tồn khơng có ý phủ nhận vai trị của các
yếu tố và đặc điểm sinh học của con người, ông chỉ đối lập luận điểm
coi con người đon thuần như một phần của giói tự nhiên cịn bỏ qua,
khơng nói gì đến mặt xã hội của con người. Khi xác định bản chất của
con người trước hết Mác nêu bật cái chung, cái khơng thể thiếu và có
tính chất quyết định làm cho con người trở thành một con người. Sau,
thì khi nói đến “Sự định hướng họp lý về mặt sinh học” Lênin cũng
chỉ bác bỏ các yếu tố xã hội thường xuyên tác động và ảnh hưởng to
lớn đối với bản chất và sự phát triển của con người. Chính Lênin cũng
đã khơng tán thành quan điểm cho rằng mọi người đều ngang nhau về
mặt sinh học. Ơng viết “thực hiện một sự bình đẳng về sức lực và tài
năng con người thì đó là một điều ngu xuẩn ... Nói tới bình đẳng thì
đó ln luôn là
19


sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị chỉ khơng phải là sự bình
đẳng về thể lực và trí lực của cá nhân”.
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con
người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phưong diện khác nhau:
quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản

thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính
xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản
chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong
chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã
nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phơ bách:
“Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hồ những quan hệ xã hội”.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng,
thốt ly mọi điều kiện, hồn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn
cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định,
một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động
thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần
để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong tồn bộ
các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại;
quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội ...) con
người mới bộc lộ tồn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội khơng
có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở
con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với


mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con
người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là
tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chứng ta nhận thức đứng
đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con
người.
c) Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Khơng có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng

tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự
tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể
của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật
chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và
của giáo dục ... cái học thuyết ấy qn rằng chính những con người
làm thay đổi hồn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được
giáo dục”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen
cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn
gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng
thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm
ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy
thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn
của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo
nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra
lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động
thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thòi thúc
đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật
21


dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại,
thơng qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế
giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong q trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử
của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể
sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động
sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phưong
thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt

quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và
tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù họp với mục
tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Khơng có hoạt động của con
người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, khơng có sự
tồn tại của tồn bộ lịch sử xã hội lồi người.
Khơng có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong
mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con
người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận
động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù họp. Bản chất con người
không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng
với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hồ các quan hệ
xã hội”, con người có vai trị tích cực trong tiến trình lịch sử với tư
cách là chủ thể sáng tạo. Thơng qua đó, bản chất con người cũng vận
động biến đổi cho phù họp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến
lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù khơng trùng khóp) với
sự vận động và biến đổi của bản chất con người.

22


Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực,
cần phải làm cho hồn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn.
Hồn cảnh đó chính là tồn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động
đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị
có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thơng qua
đó, con người tiếp nhận hồn cảnh một cách tích cực và tác động trở
lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn,
quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ
và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt
động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và

hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
2. Qua điểm của triết học Mác - LêNin về giải phóng con ngưịi
Triết học Mác - LêNin là triết học vì con người. Ngay từ năm
1835, trong những suy tư của một chàng trai trong việc lựa chọn nghề
nghiệp, C.Mác đã viết: “kim chỉ nam chủ yếu phải định hướng cho
chúng ta trong việc lựa chọn nghề nghiệp là phúc lợi của loài người,
là sự hoàn thiện của chúng ta; kinh nghiệm ca ngợi những ai đem lại
hạnh phúc cho một số lượng người nhiều nhất là người hạnh phúc
nhất; bản thân tôn giáo dạy chúng ta rằng cái lý tưởng mà mọi người
hướng tới đã hi sinh bản thân mình cho nhân loại, vậy ai dám bác bỏ
những lời dạy bảo đó?”
Khi viết tun ngơn của Đảng Cộng Sản, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã thể hiện tư tưởng cơ bản và chủ đạo của tun ngơn là “vĩnh viễn
giải phóng quan hệ xã hội khỏi ách bóc lột, ách

23


áp bức”. Song, “xã hội khơng thể nào giải phóng cho mình được, nếu
khơng giải phóng mỗi cá nhân riêng biệt”.
Như vậy cốt lõi của Mác - Lênin nói chung, của triết học về con
người trong triết học Mác - Lênin nói riêng là vấn đề giải phóng con
người, từ giải phóng con người cụ thể tiến đến giải phóng nhân loại.
Toàn bộ các nội dung trả lời của câu hỏi như: Con người là gì? Nguồn
gốc của con người? Bản chất con người? ... đều nhằm mục đích hiểu
đối tượng giải phóng để xác định đúng đắn những vấn đề liên quan
đến vấn đề giải phóng.
Triết học Mác - Lênin không phải là triết học đầu tiên đề cập đến
vấn đề giải phóng con người. Lịch sử đã ghi nhận nhiều học thuyết,
nhiều quan điểm về giải phóng con người, song do điều kiện lịch sử,

do sự ràng buộc về giai cấp, do cách hiểu về con người, nguồn gốc và
bản chất của con người khác nhau nên xác định giải phóng con người
là giải phóng đối tượng nào? Giải phóng bằng cách nào? Giải phóng
như thế nào cũng rất khác nhau.
Các học thuyết triết học duy tâm và quan niệm tơn giáo, quan
niệm giải phóng con người là giải thốt về mặt tâm linh để con người
có thể đạt được cuộc sống cực lạc vĩnh cửu ở kiếp sau trong một thế
giới khác ngoài thế giới tự nhiên. Với quan niệm như vậy thì khơng
thể đem lại sự giải phóng con người một cách hiện thực, mà chỉ giải
phóng hư ảo - “thuốc phiện của nhân dân”. Các nhà duy vật trước
Mác hoặc khơng thấy được tính xã hội của con người, không thấy các
quan hệ xã hội của con người, hoặc nhận thức về con người trừu
tượng nên vẫn xem những biểu hiện của bản chất con người trong
cuộc sống hiện thực như bản tính tự nhiên vốn có, bất biến của con
người. Khơng hiểu đúng bản chất
24


×