Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.46 KB, 8 trang )

Lương Thị Hạnh

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

172(12/2): 137-142

X

VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH BẮC KẠN
Lương Thị Hạnh*
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT
Do cư trú ở miền núi, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, lại chịu ảnh
hưởng sâu sắc của tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã khiến phụ nữ dân tộc thiểu số ở tỉnh Bắc Kạn
luôn sống trong tâm trạng cam chịu, ngại thay đổi và khó bắt nhịp với cái mới. Cùng với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, bên cạnh thiên chức làm dâu, làm vợ, làm mẹ, phụ nữ các dân
tộc thiểu số ngày càng thể hiện vai trò then chốt trong quán xuyến tổ chức cuộc sống gia đình, đến
việc tham gia các khâu trong trồng trọt, chăn nuôi, tạo thu nhập, nâng cao mức sống cho gia đình
(với hơn 70% lao động nữ trực tiếp sản xuất nông nghiệp). Điều đó cho thấy phụ nữ các dân tộc
thiểu số tỉnh Bắc Kạn chính là chủ thể quan trọng, là nhân tố tích cực góp phần hồn thành chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nơng thơn mới.
Từ khóa: Phụ nữ, dân tộc thiểu số, vai trị, nơng thơn mới, Bắc Kạn,…

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHỤ NỮ DÂN
TỘC THIỂU SỐ TỈNH BẮC KẠN *
Phụ nữ dân tộc thiểu số là thuật ngữ dùng để
chỉ cộng động phụ nữ thuộc các thành phần
dân tộc có số lượng dân cư ít hơn người Kinh
(tộc người đa số) sinh sống ở các khu vực của


nước ta. Là một bộ phận của phụ nữ Việt
Nam, phụ nữ các dân tộc thiểu số mang trong
mình cả đặc điểm, phẩm chất, tiềm năng nổi
bật của phụ nữ Việt Nam, cả đặc điểm, tiềm
năng của phụ nữ dân tộc thiểu số do sống
trong môi trường tự nhiên - niềm núi, và môi
trường xã hội – dân tộc thiểu số tạo nên, đó
là: đức tính cần cù, phẩm chất thật thà, khéo
léo và sáng tạo trong mọi cơng việc, có sức
khỏe dẻo dai được rèn luyện trong mơi trường
tự nhiên khắc nghiệt, hết lịng vun vén cho
cuộc sống gia đình, tạo nên sự yên ổn, êm ấm
trật tự trên dưới cho gia đình và cho xã hội.
Tuy nhiên, do sống trong điều kiện tự nhiên
khắc nghiệt, hồn cảnh kinh tế khó khăn, lại
chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng “tam
tòng, tứ đức” đã khiến phụ nữ dân tộc thiểu số
luôn sống trong tâm trạng cam chịu, ngại thay
đổi và khó bắt nhịp với cái mới. Những vấn
đề bất cập của phụ nữ dân tộc thiểu số hiện
nay cũng là những vấn đề lớn và đòi hỏi phải
*

Tel: 0914892999, Email:

có biện pháp khắc phục. Đó là những hạn chế
về trình độ học vấn, trình độ chun mơn, nghề
nghiệp, điều kiện chăm sóc sức khỏe và đặc
biệt là tâm lí tự ti với những thói quen truyền
thống, những hủ tục lạc hậu, trọng nam khinh

nữ là rào cản lớn nhất đối với phụ nữ các dân
tộc thiểu số ở tỉnh Bắc Kạn trong việc phát huy
những thế mạnh của mình vào quá trình phát
triển kinh tế cho gia đình và cho xã hội [4].
So với phụ nữ miền xuôi (người Kinh), phụ
nữ các dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế:
chưa mạnh dạn, chưa năng động và gặp nhiều
khó khăn trong giao tiếp xã hội, nhất là giao
tiếp bằng tiếng phổ thơng (tiếng Việt). Ngồi
thời gian lao động sản xuất, phụ nữ các dân
tộc thiểu số hầu như khơng có thời gian dành
cho nghỉ ngơi hoặc hưởng thụ văn hóa tinh
thần, học hỏi nâng cao hiểu biết kiến thức xã
hội mà họ phải dành phần lớn thời gian cịn
lại cho cơng việc gia đình. Chính vì vậy, phụ
nữ bị hạn chế về kỹ thuật chuyên môn và
trình độ học vấn.
Trình độ học vấn của phụ nữ các dân tộc thiểu
số ở Việt Nam nói chung, ở tỉnh Bắc Kạn nói
riêng là thấp, bởi cha mẹ thường ưu tiên để
con trai được đến lớp học, còn con gái phải ở
nhà phụ giúp việc nương rẫy, do đó có sự
khác nhau giữa nam và nữ, nam bao giờ cũng
có trình độ học vấn cao hơn và tỷ lệ mù chữ
137


Lương Thị Hạnh

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ


thấp hơn, nhiều chị em dân tộc Mông, Dao,
Nùng không biết đọc và ký tên mình. Bên
cạnh sự khác biệt về giới, thì điều kiện kinh tế
của mỗi gia đình cũng tác động lớn đến trình
độ học vấn, người nghèo ít có cơ hội đến
trường nên trình độ học vấn thấp và khả năng
áp dựng những tiến bộ khoa học vào sản xuất
lại càng khó khăn hơn. Qua khảo sát sơ bộ
dân tộc Mông ở Bản Quá, Phiêng Rằm, Nộc
Chắp (huyện Chợ Đồn); Đán Mẩy, Cốc Lùng
(huyện Ba Bể); Thuần Mang (Ngân Sơn) cho
thấy trình độ học vấn của phụ nữ Mơng so với
các tộc người khác trong vùng cư trú là thấp
nhất. Các bản kể trên khơng có một người
phụ nữ nào học đến cấp 3. Vì mù chữ nên phụ
nữ khơng có khả năng hướng dẫn, định hướng
hay quan tâm con cái trong học tập, điều này
thể hiện ở tỉ lệ con của các bà mẹ mù chữ
hoặc trình độ thấp được đến trường thấp hơn
so với các bà mẹ có trình độ tiểu học, thấp
hơn so với các bà mẹ có trình độ trung học cơ
sở (các bà mẹ mù chữ thường có độ tuổi từ 45
trở lên).

172(12/2): 137-142

tinh thần của các dân tộc đã được cải thiện rõ
rệt, cơng việc nội trợ cũng có sự chia sẻ, giúp
đỡ từ người chồng, song vai trò nội trợ của

người vợ khơng vì thế mà mất đi, ngược lại
nó được quan tâm nhiều hơn, yêu cầu cao hơn
để tạo ra những bữa cơm ngon, thân mật cho
các thành viên trong gia đình [4].
Khơng chỉ vậy, phụ nữ cịn là người giữ vai
trò trọng yếu trong việc điều hòa các mối
quan hệ gia đình; là người vun đắp hạnh
phúc, người duy trì và phát triển những giá trị
văn hóa gia đình, giữ gìn bản sắc dân tộc [1].

Như vậy, học vấn của phụ nữ không chỉ ảnh
hưởng đến tương lai con cái mà còn ảnh
hưởng trực tiếp đến cơ hội nâng cao năng lực
của phụ nữ trong việc nắm bắt và tiếp cận các
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất [1].

Do nhận được sự dạy bảo kỹ lưỡng về đạo
“Tam tòng”, “Tứ đức” từ khi còn bé, nên
những người phụ nữ dân tộc Tày, Nùng,
Dao,…trong sinh hoạt hàng ngày rất ý tứ, từ
cách ăn, uống; đi lại trên nhà sàn ln có
bước chân nhẹ nhàng; lời nói nhỏ nhẹ, lễ
phép; hết lòng chăm lo vun vén cho chồng
con và gia đình nhà chồng. Trong quan hệ vợ
chồng, trước kia phụ nữ chỉ biết lắng nghe, thì
ngày nay cùng với sự phát triển của xã hội,
phụ nữ còn đưa ra chủ kiến riêng của mình,
chia sẻ với chồng những khó khăn vất vả
trong cơng việc, trong cuộc sống. Đó là nền
tảng cho một gia đình ổn định, nền nếp, êm

ấm và hạnh phúc.

VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU
SỐ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

Phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển
kinh tế nông thôn miền núi

Phụ nữ dân tộc thiểu số trong việc tổ chức
đời sống gia đình

Do điều kiện cư trú là miền núi, nên cơ cấu
kinh tế của các tộc người ở mỗi vùng có sự
khác nhau trong tập quán lao động, văn
hóa,…tương ứng với vùng rẻo cao, rẻo giữa
hay vùng thấp thì vai trị làm việc của phụ nữ
các dân tộc thiểu số ở mỗi vùng lại khác nhau.

Bên cạnh thiên chức làm mẹ, làm vợ, làm
dâu, phụ nữ các dân tộc thiểu số đã thể hiện
vai trò đảm đang trong quán xuyến tổ chức
cuộc sống gia đình, từ việc đi chợ, lo cơm
nước đảm bảo sức khỏe cho các thành viên
trong gia đình, may vá quần áo, đến việc sắp
xếp công việc trong gia đình hợp lý, hằng
ngày thu xếp, dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, ngăn
nắp. Đó là mảng cơng việc lặt vặt, tỉ mỉ,
chiếm nhiều thời gian nhưng khơng thể khơng
có. Người phụ nữ đã sắp xếp, tổ chức gia đình
theo suy nghĩ, nhận thức và tính năng động

của mình. Tuy ngày nay đời sống vật chất
138

Theo số liệu tổng điều tra dân số ngày 01
tháng 04 năm 1999 với 76,3 triệu dân, cơ cấu
giới tính nam/nữ là 49,2%. Số liệu nghiên cứu
cho thấy phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế
chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới, với 75% lao
động trong nông nghiệp nông thôn. Trong
nghiên cứu của chúng tôi tại hai xã cũng cho
thấy phụ nữ chiếm số đông trong độ tuổi lao
động tại các địa bàn được khảo sát, cụ thể: ở


Lương Thị Hạnh

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

172(12/2): 137-142

X

xã Nam Cường (huyện Chợ Đồn) và xã
Dương Phong (huyện Bạch Thông) tỷ lệ lao
động nữ trong các công việc chăn nuôi, trồng
trọt như sau: phụ nữ dân tộc Tày gieo mạ, nhổ
mạ 78% nữ (nam: 22%), cấy 84% nữ (nam:
16%). Phụ nữ dân tộc Dao thì cơng việc trồng
lúa ruộng là 56,3% (nam: 43,7%), làm nương
rẫy: nữ là 68,2% (nam: 31,8%); chăn nuôi lợn

gà: nữ: 72% (nam: 28%). Phụ nữ Mông chủ
yếu làm rẫy 52% (nam: 48%). Một vài lĩnh
vực trong trồng trọt do phụ nữ không đủ sức
khỏe nên nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn như:
cày, bừa, đắp bờ, lấy nước, đập lúa, làm
mương phai,… còn lại đều do phụ nữ đảm
nhận hoặc cùng hợp tác với chồng. Từ khảo
sát sơ bộ nêu trên, nếu xét theo khía cạnh tộc
người chúng ta dễ dàng nhận thấy trong
truyền thống cũng như hiện tại, phụ nữ các
dân tộc có vai trị trong hoạt động kinh tế gia
đình khơng hồn tồn giống nhau, điều đó
phản ánh mơi trường sống, mức độ nhận thức
của bản thân người phụ nữ, của cộng đồng về
giới trong lao động.
Hưởng ứng phong trào thi đua “Phụ nữ chung
sức xây dựng nông thôn mới”, bằng các giải
pháp cụ thể, Hội phụ nữ các cấp trong tỉnh đã
giúp cho các gia đình hội viên mạnh dạn đứng
ra vay vốn và sử dụng vốn vay để đổi mới kỹ
thuật trồng trọt, chăn ni. Nhờ sử dụng vốn
vay có hiệu quả, đến nay trên địa bàn toàn tỉnh
đã xuất hiện một số mơ hình kinh tế cho thu
nhập cao, góp phần cải thiện cuộc sống cho hội
viên phụ nữ như: Mơ hình chăn ni tổng hợp
của chị Nguyễn Thị Gái (tổ 5, thị trấn Chợ Mới,
huyện Chợ Mới); mơ hình trồng cây ăn quả
của chị Hồng Thị Kìa (xã Quang Thuận,
huyện Bạch Thơng) hay mơ hình sản xuất
miến dong sạch của Triệu Thị Tá dân tộc Dao

(thôn Nà Viến, xã Yến Dương, huyện Ba Bể);
tổ hợp tác chế biến chè tại xã Bằng Phúc (Chợ
Đồn); tổ liên kết trồng rau an tồn tại xã
Quang Thuận (Bạch Thơng)… Hiệu quả hoạt
động của các mơ hình này đã tạo cơ hội cho
phụ nữ giúp đỡ lẫn nhau vươn lên thoát nghèo
bền vững và làm giàu chính đáng.

Ngồi sản xuất nơng nghiệp - ngành sản xuất
chính, thủ cơng nghiệp cũng đóng vai trị hết
sức quan trọng trong cơ cấu kinh tế, trong đời
sống và văn hóa tộc người [2]. Trong thời
gian nơng nhàn phụ nữ các dân tộc thiểu số
thường: dệt vải, đan sọt, đan tẹm phơi thóc,...
phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt hàng
ngày của các tộc người. Có thể kể đến ở đây
là nghề dệt mà chu trình sản xuất đến chế biến
thành vải bao gồm nhiều khâu đều do người
phụ nữ đảm nhiệm và phải tốn nhiều công sức,
thời gian. Việc dệt vải được tiến hành hầu
như quanh năm trong những thời gian rảnh rỗi.
Do đó, người ta khơng thể tính được số ngày
cơng lao động của phụ nữ trong công việc này.
Hiện nay vải dệt chỉ tồn tại hạn chế nhằm đáp
ứng yêu cầu trong các nghi lễ tôn giáo mà
thôi. Trường hợp làng nghề dệt thổ cẩm của
người Tày thuộc dự án PAD bảo tồn làng văn
hóa thơn Pác Ngịi, xã Nam Mẫu, huyện Ba
Bể cũng đem lại lợi ích kinh tế gia đình của
một số hộ: những chiếc túi dệt thủ cơng có

thêu dịng chữ “Du lịch hồ Ba Bể” sẽ là
những món quà lưu niệm đặc biệt đầy ý nghĩa
đối với mỗi du khách khi đến với Bắc Kạn.
Xét dưới góc độ văn hóa, việc duy trì nghề
dệt với những sản phẩm thủ cơng tinh xảo là
thể hiện tiềm năng của phụ nữ thông qua hoạt
động kinh tế này được khẳng định như là
người giữ gìn các di sản văn hóa truyền thống
mà các thế hệ trước để lại.
Phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia hoạt
động cộng đồng, hoạt động quản lý
Hoạt động cộng đồng là hoạt động ngồi
phạm vi gia đình, song lại liên quan chặt chẽ
và ảnh hưởng tới đời sống gia đình. So với
phụ nữ miền xi, thì phụ nữ các dân tộc
thiểu số miền núi tham gia các hoạt động bên
ngồi phạm vi gia đình, như tham gia cơng
tác lãnh đạo quản lý cộng đồng, tham gia các
tổ chức xã hội, các lễ hội tại địa phương,…
chiếm tỷ lệ thấp. Điều này phản ánh mối quan
hệ về vị thế của phụ nữ và nam giới, vì thơng
thường trong gia đình các dân tộc thiểu số vị
thế ngồi xã hội là dành cho nam. Qua khảo
139


Lương Thị Hạnh

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ


sát sơ bộ so sánh vai trò của phụ nữ các dân
tộc thiếu số hiện nay với 10 năm trước ở
một số hoạt động cộng đồng hay tham gia
công tác xã hội thì phụ nữ dân tộc Tày
chiếm tỉ lệ cao nhất (10 năm trước chiếm
khoảng 6%; nay là 14,8%) so với phụ nữ
dân tộc Mông, Dao).
Hiện nay, trong các cuộc họp thơn bản, đi họp
phụ huynh thì chỉ số hai vợ chồng đều tham
gia như nhau (chủ yếu phụ nữ dân tộc Tày,
dân tộc Dao). Ở các cuộc họp việc tham gia
phát biểu, thảo luận của phụ nữ cũng thể hiện
một mức cao hơn (con số 11,7% phụ nữ
thường xuyên phát biểu ý kiến so với 35,3%
nam giới) thể hiện sự trưởng thành về mặt
nhận thức xã hội và khả năng giao tiếp xã hội
của phụ nữ các dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó
vẫn cịn nhiều chị em chưa bao giờ tham gia
phát biểu ý kiến trong các cuộc họp của thơn,
vì họ chưa vượt qua được những thói quen cũ
là ngại phát biểu trước đám đông, tâm lý tự ti.
Trong lĩnh vực quản lý xã hội, các tổ chức
đoàn thể nông thôn, sự tham gia của phụ nữ
rất hạn chế [2]. Những người tham gia chủ
yếu là phụ trách các ban ngành đoàn thể ở xã
như Hội phụ nữ, Mặt trận, trạm y tế,... Kết
quả điều tra cho thấy chỉ có khoảng 1,2% phụ
nữ dân tộc thiểu số tham gia công tác quản lý
xã hội, trong khi nam giới ở lĩnh vực này là
18%. Theo khảo sát của chúng tôi, tỷ lệ nữ

tham gia công tác lãnh đạo, quản lí có liên
quan chặt chẽ đến đặc điểm kinh tế, truyền
thống văn hóa của từng dân tộc và từng địa
phương, những người tham gia công tác lãnh
đạo chỉ tập trung ở một số tộc người có đơng
dân số (Tày, Dao). Có thể nói, số lượng cán
bộ nữ chiếm tỉ lệ thấp chủ yếu là xuất phát từ
nhận thức định kiến về giới đã tồn tại dai
dẳng trong nhận thức chung của cộng đồng.
Phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia các phong
trào góp phần xây dựng nơng thơn mới
Là tổ chức thành viên trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, phụ nữ các dân tộc thiểu số tỉnh
Bắc Kạn cùng các cấp hội của mình tham gia
140

172(12/2): 137-142

là nịng cốt trong xây dựng nông thôn thông
qua việc thực hiện cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư”, với quan điểm: xây dựng gia đình
hạnh phúc là nền tảng để xây dựng một xã hội
văn minh, gắn với thực hiện 4 chuẩn mực xây
dựng gia đình “No ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc”, phối hợp chặt chẽ với ngành
công an thực hiện Nghị quyết liên tịch
01/2002/NQLT về “Quản lý, giáo dục con em
trong gia đình khơng phạm tội và tệ nạn xã
hội”. Các chương trình phối hợp đã góp phần

thiết thực nâng cao trách nhiệm của các bậc
cha mẹ trong nuôi dạy, giáo dục con cái [4].
Ðể hỗ trợ các gia đình thực hiện tốt các cuộc
vận động, Hội đã triển khai một số đề án,
chương trình hướng vào gia đình, lấy gia đình
là đối tượng để tác động như đề án “Giáo dục
5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt giai đoạn 20102015”; phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực
học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình
hạnh phúc” góp phần nâng cao vai trò, vị thế
của người phụ nữ trong gia đình và xã hội,
hướng đến mục tiêu bình đẳng giới, đồng thời
triển khai sâu rộng cuộc vận động “Xây dựng
gia đình 5 khơng, 3 sạch”. Nhiều mơ hình
hoạt động hiệu quả, như “Phụ nữ sản xuất,
chăn nuôi giỏi”; “Hộ gia đình khơng chăn
ni gia súc dưới gầm sàn”. Bên cạnh đó, các
cấp Hội Phụ nữ đã xây dựng nhiều loại hình
câu lạc bộ để tạo điều kiện cho hội viên tham
gia phát huy hiệu quả hệ thống thiết chế văn
hóa ở cơ sở như: Câu lạc bộ Phụ nữ với Pháp
luật; Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế; Câu
lạc bộ Nuôi con khỏe, dạy con ngoan,…nhiều
quy định về cưới xin, ma chay theo nếp sống
mới đã được người dân hưởng ứng [3, tr.6].
Để hồn thành tiêu chí giao thông trong xây
dựng nông thôn mới, phụ nữ các dân tộc thiểu
số tỉnh Bắc Kạn cịn tích cực phối hợp với các
ban ngành, đoàn thể tham gia tổng vệ sinh
đường làng, ngõ xóm; tích cực tham gia làm
đường giao thơng liên thôn, liên xã, đường

vào các khu kinh tế, giúp người dân đi lại
thuận tiện hơn.


Lương Thị Hạnh

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

172(12/2): 137-142

X

Sự chung tay góp sức của phụ nữ đã góp phần
quan trọng đưa Phong trào thi đua “Phụ nữ
chung sức xây dựng nông thôn mới” trên địa
bàn tỉnh ngày càng phát triển mạnh mẽ cả bề
rộng lẫn chiều sâu, từng bước thực hiện thắng
lợi công cuộc xây dựng nông thôn mới theo
tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XI nhiệm kỳ 2015-2020 đã đề ra.

thành chỗ dựa về mặt tinh thần cho đại bộ
phận dân chúng, giúp họ vượt qua những khó
khăn, biến cố của cuộc sống. Mặt khác cịn
góp phần bảo tồn, phát huy những giá trị văn
hóa dân gian các dân tộc, là 1 trong 19 tiêu
chí quan trọng trong cơng cuộc xây dựng
nơng thơn mới.

Phụ nữ dân tộc thiểu số trong việc giữ gìn

bản sắc văn hóa dân tộc

Với hơn 70% lao động nữ tham gia trực tiếp
vào các hoạt động nông nghiệp đã cho thấy
phụ nữ đóng vai trị quan trọng trong sản xuất
nơng nghiệp và xây dựng nơng thơn mới. Bởi
vì, phụ nữ vừa là chủ thể góp phần quan trọng
vào thành cơng của Chương trình, vừa là
người được trực tiếp thụ hưởng những thành
quả tốt đẹp do Chương trình xây dựng nông
thôn mới mang lại. Điều đáng chú ý, trong xu
hướng nam giới (dưới 45 tuổi) ngày càng
chuyển sang các công việc phi nông nghiệp
và di cư ra thành phố (hoặc xuất khẩu lao
đơng) tìm việc làm, thì phụ nữ đóng vai trị
quyết định trong các hoạt động kinh tế, văn
hóa, xã hội, cộng đồng. Hiện nay, trong mỗi
gia đình phụ nữ chính là người cùng chồng
quản lý các nguồn lực, quyết định các đầu tư,
chi tiêu lớn trong sản xuất, kinh doanh, xây
dựng nhà cửa và mua sắm các tiện nghi sinh
hoạt. Vì vậy, có thể khẳng định họ là một chủ
thể quan trọng và nhân tố tích cực thúc đẩy
q trình xây dựng nơng thơn mới.

Trong q trình phát triển xã hội, đặc biệt là
trong thời kỳ đổi mới, cùng với sự đổi thay về
đời sống kinh tế, sự giao lưu văn hóa ngày
càng được mở rộng kéo theo những thay đổi
đáng kể về văn hóa tộc người. Bên cạnh việc

bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống thì
văn hóa tộc người cũng đang tiếp thu và phát
huy những yếu tố văn hóa mới. Nhờ vậy mà
bản sắc văn hóa tộc người càng trở nên phong
phú, đa dạng. Bằng sự khéo léo của mình phụ
nữ các dân tộc thiếu số đã góp nên những sắc
thái rất riêng trong việc trao truyền, phổ biến
và sáng tạo ra các giá trị văn hóa tích cực của
mỗi cộng đồng tộc người.
Trong các sinh hoạt tín ngưỡng và các lễ hội
mang tính cộng đồng như Lồng tồng, lễ kỳ
yên (của người Tày, Nùng), lễ cấp sắc (người
Dao),… ln có sự tham gia của người phụ
nữ. Ngoài việc nấu nướng, lo chuẩn bị lễ vật,
lấy củi, mượn bát đũa,… chị em còn tham gia
các nghi thức khi có thể.
Số ít phụ nữ ở các dân tộc Tày, Nùng, Dao có
căn làm nghề cúng bái gọi là bà Then, bà Pựt.
Họ là người chủ trì các nghi lễ: Cầu an giải
hạn (kỳ yên), lễ hắt khoăn (lễ gọi hồn vía), lễ
đầy tháng (lẩu bươn), lễ bắc cầu xin hoa (lễ
xin con),… làm cầu nối liên lạc giữa người
trần gian với thế giới thần Phật. Với kinh
nghiệm và sự hiểu biết sâu rộng về phong tục
tập qn tộc người, một số bà Then cịn có thể
bốc thuốc chữa trị được một số bệnh nan y,
như: chữa hậu sản, vô sinh, tránh sẩy thai,
chữa vết thương trâu bị bị dịi (pền non),...
những hoạt động tín ngưỡng của họ đã trở


KẾT LUẬN

Trong quá trình phát triển của xã hội, vị trí,
vai trị của phụ nữ trong đời sống kinh tế,
chính trị thể hiện có lúc rất mờ nhạt; cịn
trong việc giữ gìn mái ấm gia đình thì vị trí,
vai trị của phụ nữ trong mọi thời kỳ lịch sử
luôn thể hiện đậm nét, xuyên suốt qua hàng
ngàn năm nay.
Để phụ nữ các dân tộc thiểu số ở nông thôn
miền núi phát huy tiềm năng sáng tạo to lớn
của mình ngày càng trở thành chủ nhân đích
thực của xã hội thì cần phát huy chính tài
năng, lịng nhiệt tình và sức sáng tạo của phụ
nữ. Do đó, các cấp Hội cần có những chính
141


Lương Thị Hạnh

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

sách tích cực nhằm tạo điều kiện và cơ hội
cho phụ nữ phát huy vai trị trong việc xây
dựng nơng thơn mới. Đặc biệt là đội ngũ chi
hội trưởng phụ nữ cấp xã, thơn ở vùng miền
núi có vai trị rất lớn trong việc tuyên truyền,
vận động và thu hút các chị em vào các hoạt
động nhằm bồi dưỡng kiến thức toàn diện về
kinh tế và xây dựng gia đình ấm no, hạnh

phúc. Bởi khi phụ nữ đã làm tốt vai trò của
mình sẽ có sức lan tỏa và lơi cuốn được
những lực lượng và nguồn lực khác trong xã
hội tạo ra sức mạnh tổng hợp để hồn thành
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới.

172(12/2): 137-142

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thi (1990), Việc làm, đời sống phụ nữ trong
chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
2. Lê Thi (1998), Phụ nữ nông thôn vàphát triển
ngành nghề phi nông nghiệp, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Ánh Tuyết (2015), “Phụ nữ trong
sản xuất và tham gia xã hội ở nông thôn; thực
trạng và khuyến nghị chính sách”, Tạp chí nơng
nghiệp và phát triển nông thôn, kỳ 2, tháng
9/2015, tr.3-9.
4. Vương Thị Vân (2009), Vai trị của phụ nữ
nơng thơn trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn
huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên, Luận văn
Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế và Quản
trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên.

SUMMARY
THE ROLE OF ETHNIC MINORITY WOMEN IN
BUILDING NEW RURAL AREAS IN BAC KAN PROVINCE

Luong Thi Hanh*
University of Sciences - TNU

Ethnic women living in Backan province where people’s economic condition is difficult are deeply
influenced by male-dominated thought. So ethnic women accept one's fate resignedly and remain
unchanged. Nowadays, ethnic women’s role is more and more developing. They not only are
wives and mothers, but also are main labour in family and society. More than 70 percent of female
workers directly engaged in agricultural production. This shows that ethnic minority women in
Bac Kan province are important subjects which contribute to complete building new rural areas.
Keywords: women, ethnic minorities, role, new rural areas, Backan…

Ngày nhận bài: 01/9/2017; Ngày phản biện: 05/10/2017; Ngày duyệt đăng: 16/10/2017
*

Tel: 0914892999, Email:

142


oà soT
172(12/2)
Năm

2017

Tạp chí Khoa học và Công nghệ

Journal of Science and Technology
SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS
Content


Page

Ha Xuan Huong - Women’s stituations in Thai and Tay’s folk songs

3

Ngo Thi Thu Trang - Some measures that need to be implemented to enhance students’ ability in terms of
using Sino – Vietnamese words

9

Nguyen Thi Ha, Vu Thi Hong Hoa - Enhancing the proportion of female in people’s elected bodies

15

Nguyen Thu Ha, Nguyen Thi Mai Huong, An Thi Thu, Nguyen Thi Hong - Developing vietnamese
accounting standards towards international accounting standards

21

Nguyen Thi Hoa - Using collection “Vietnam wartime letters” in historical education

27

Nguyen Thi Xuan Thu, Pham Ngoc Duy - Effects of using semantic mapping on ESP vocabulary retention of
the students at University of Technology – Thai Nguyen University

33


Vu Kieu Hanh, Hoang Thi Cuong - English reading skill of the second-year students at University of
Agriculture and Forestry – Thai Nguyen University: basis for enhancement activities

39

Nguyen Thi Thu Huong - Protection ofpersonal rights for juvenile labor in Vietnam law

45

Nguyen Thi Tham - The journey to search for happiness of female characters in the short stories Cœur brûle et autres
romances of Le Clézio

51

Le Thi Luu, Tran Bao Ngoc, Bui Thanh Thuy et al - The bachelor of nursing students’ perception of educational
environment at University of Medicine and Pharmacy - Thai Nguyen University by DREEM questionnare

57

Bui Thi Minh Ha, Nguyen Huu Tho - Awareness of household on climate change and its effectiveness on tea
cultivation: a case study in Tan Cuong tea area, Thai Nguyen city

63

Duong Thanh Tinh, Tran Van Quyet, Nguyen Ngoc Ly, Nguyen Viet Dung - Employment creation potential
for ethnic minorities through value chain development of cinnamon products in the northern mountainous region
of Vietnam - a case study of Van Yen district, Yen Bai province

69


Nguyen Thu Nga, Do Thi Tuyet Mai, Nguyen Thi Dieu Hong - Applying Cobb-Douglas linear function to
measure the efficiency of Vietnam commercial banks

75

Phung Thanh Hoa, Bui Thi Thanh Thuy - The impact of market economy on rural Viet Nam at present

81

Hoang Thi My Hanh, Sombath Kingbounkai - The migration process of Vietnamese to Laos and location in
Luangprabang province of Laos

87

Vi Thi Phuong - Using press to the new construction of building culture in Vietnam, look at the Tao Dan
magazine (1939)

93

Nguyen Thi Minh Loan - A proposed model for question generation instruction in reading comprehension

99

Nguyen Thi Bich Ngoc - English written proficiency – upper intermediate 2 (EWU241): students’ evaluation of
the course content and teaching activities at the School of Foreign Languages, Thai Nguyen University

105

Nguyen Mai Linh, Tran Minh Thanh, Duong Thi Hong An - Portfolio development and group presentation
for ESP courses toward postmethod


111

Tran Thi Kim Hoa - Developing the ability of using Vietnamese for ethnic minority elementary school pupils
through vocab excercises

117

Tran Tu Hoai - The main points of “lecturers development” policy that were taken in University of Education –
Thai Nguyen University

121

Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Training the working style manner of cadres following Ho Chi Minh’s style

127


Tong Thi Phuong Thao - Protect the rights of women workers during pregnancy, childbirth and child rearing
according to Vietnamese labor law

131

Luong Thi Hanh - The role of ethnic minority women in building new rural areas in Bac Kan province

137

Nguyen Thi Thanh Ha, Nguyen Thi Thu Hien - Some issues on building new ways of life for Vietnamese
students nowadays


143

Ho Luong Xinh, Nguyen Thi Yen, Nguyen Thi Giang, Luu Thi Thuy Linh, Bui Thi Thanh Tam, Nguyen
Manh Thang - Probability of improving farmer household income after agricultural land acquisition at
industrial zones in Thai Nguyen province

149

Dinh Ngoc Lan, Doan Thi Thanh Hien, Duong Tuan Viet - Analyzing factors effect to production and
consumption of canna in Nguyen Binh district - Cao Bang province

155

Do Thi Ha Phuong, Chu Thi Ha, Nguyen Thi Giang, Duong Xuan Lam - Investigating the effects of social
capital and information technology on knowledge sharing intention and knowledge sharing behavior among
employees in Thai Nguyen University

161

Nguyen Thi Hien Thuong, Duong Thị Thu Hoai, Cu Ngoc Bac, Kieu Thu Huong, Vu Thị Hai Anh Research the contribution of cityzens to implement the imfrastructure criteria for new rural program in Phu
Luong district, Thai Nguyen province

169

Vu Bach Diep, Mai Viet Anh - Some solutions for mobilizing capital for small and medium enterprises developing
Thai Nguyen city

175

Nguyen Thi Ngoc Anh, Hoang Huyen Trang - Designing and using learning games in order to increase the

effective teaching in oral advanced proficiency for chinese students at School of Foreign Languages, Thai
Nguyen University

181

Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Common sentence problems in academic writing committed by
Vietnamese students of English: situation, causes and solutions

187

Ha Thi Thanh Hoa, Chu Thi Kim Ngan, Duong Thi Thuy Huong - The satisfaction of customers on the
quality of Vinaphone mobile network service of Thai Nguyen province

193

Vu Thi Loan, Vu Thi Hau - The role of market stock price as a financial distress predictor: SVM model

199

Ho Thi Mai Phuong, Hoang Thi Tu, Tran Nguyet Anh - Design and organization of learning games in
elementary school mathematical symbols for elementary school children

205

Dong Thi Hong Ngoc, Nguyen Quynh Hoa, Nguyen Thi Thu Huong, Hoang Thanh Hai, Nguyen Thi Thu
Hang - Application of logistic models in rating credit of listed construction enterprices in Vietnam

211

Ha Thi Hoa, Ho Ngoc Son - Values chain analysis through consumption channels of Son tra in Yen Bai province


219



×