Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Chính sách kinh tế vĩ mô với nâng cao năng lực cạnh tranh pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.43 KB, 44 trang )

MỤC LỤC:
I. GIỚI THIỆU
II. NỘI DUNG
1. Năng lực cạnh tranh
2. Chính sách kinh tế vĩ mô
3. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
a. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
b. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong thời gian tới
III. Tổng hợp
1. So sánh sự thay đổi năng lực cạnh tranh với các nước trong khư vực
2. Đánh giá sự tác động của chính sách kinh tế vĩ mô đến nâng cao năng lực cạnh
tranh
3. Đánh giá mức độ hiệu quả trên thực tế của các chính sách kinh tế vĩ mô
IV. Kết luận
1
I. Giới thiệu
Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu hơn, trọn vẹn và toàn diện hơn trên thị
trường thế giới. Mỗi doanh nghiệp Việt Nam đứng trước thuận lợi và khó khăn, thời
cơ và thách thức đan xen nhau, họ phải chịu áp lực từ nhiều phía, cả thị trường trong
nước cũng như ngoài nước. Đặc biệt, sau khi ra nhập WTO doanh nghiệp nhỏ và vừa
càng khẳng định tầm quan trọng và chỗ đứng cho thị trường Việt Nam trên thị trường
thế giới.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của quá trình đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế thì nhìn chung doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém, kém
hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được
đặc biệt trong bối cảnh hiện nay. Những vấn đề trong các chính sách ổn định kinh tế vĩ
mô là một trong những nguyên nhân gây ra năng lực cạnh tranh còn thấp của các
doanh nghiệp. Vì vậy nhóm chúng tôi đã tìm hiểu đề tài: “Ảnh hưởng của chính sách
kinh tế vĩ mô đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong những
năm gần đây”.


II. Nội dung
1. Năng lực cạnh tranh:
a) Khái niệm:
Từ trước tới nay, khái niệm năng lực cạnh tranh được nhắc đến rất nhiều nhưng
đến nay khái niệm này vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất. Bởi lẽ năng lực cạnh
tranh cần phải đặt vào điều kiện, bối cảnh phát triển của đất nước trong từng thời kỳ.
Đồng thời năng lực cạnh tranh cũng cần thể hiện khả năng đua tranh, tranh giành
giữa các doanh nghiệp và cần được thể hiện ra bằng phương thức cạnh tranh phù
hợp. Trên cơ sở đó có thể đưa ra định nghĩa cụ thể về năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khă năng duy trì và nâng cao
lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ,
thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao
và bền vững.
b) Chỉ số cạnh tranh toàn cầu:
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một quốc gia, người ta thường dùng chỉ
số cạnh tranh toàn cầu. Dựa trên bốn yếu tố cơ bản hàng đầu được coi là ảnh hưởng
tới chỉ số cạnh tranh của quốc gia gồm lạm phát, cơ sở hạ tầng, lao động có trình độ
2
và mức độ tham nhũng. WEF sẽ xếp hạng khoảng 130 quốc gia trên toàn cầu trong Chỉ
số cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Index) và công bố số liệu đó trong
Global Competitiveness Report. Ổn định kinh tế vĩ mô từng là điểm cộng cho Việt Nam
trên bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu. Nhưng nay, chính những yếu tố như
lạm phát, tiền tệ, sức sản xuất kinh doanh sa sút đã khiến điểm số trung bình trên 12
tiêu chí (thang điểm 7) của Việt Nam giảm dần từ 4,3 (2010) xuống 4,2 rồi 4,1 trong
năm 2011 và 2012. Đồng thời thứ hạng cũng giảm tới 16 bậc trong 2 năm xuống vị trí
thứ 75 (tương đương năm 2009 và là mức thấp nhất kể từ khi Việt Nam được xếp
hạng). Trong 8 nước Đông Nam Á được lựa chọn khảo sát, Việt Nam hiện đứng áp
chót và chỉ trên Campuchia.
Ở giai đoạn 2008-2012, tổng hợp về năng lực cạnh tranh của Việt Nam có xu
hướng giảm do các chỉ tiêu về ổn định kinh tế vĩ mô giảm. Với mô hình kinh tế theo

chiều sâu, các nhà kinh tế và hoạch định chính sách đang kỳ vọng với sự tăng trưởng
GDP 2012 là 6,0-6,5% thì năng lực cạnh tranh của Việt Nam ngày càng được nâng cao.
Năng lực cạnh tranh Việt Nam giai đoạn 2008-2012
3
• Lạm phát
Năm 2011, lạm phát của Việt Nam ở mức 2 con số, tình hình vĩ mô chưa có nhiều
diễn biến tích cực…Tổng cục Thống kê công bố chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 12 và cả
năm 2011. Theo đó, tháng 12, CPI cả nước tăng 0,53% so với tháng trước đó kéo lạm
phát cả năm lên mức 18,58%.
Trong khi đó, những nền kinh tế có chất lượng lao động dưới 35 điểm đều có nguy
cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu Vấn đề lạm phát MHTT kinh tế theo
chiều sâu làm giảm tỷ lệ nhập siêu, giảm sức ép phá giá của đồng tiền, từ đó kiềm chế
lạm phát.
• Cơ sở hạ tầng:
Nếu như phát triển kinh tế theo chiều rộng, sự đầu tư mới cơ sở hạ tầng phân bố
không đều, tập trung chủ yếu ở thành thị nên cơ sở hạ tầng ở thành thị phát triển hơn
nông thôn. Do đó để tiếp cận dịch vụ thì người dân ở nông thôn sẽ dồn về đô thị làm cơ
sở hạ tầng ở đô thị quá tải và giảm chất lượng kéo theo đó giảm năng lực cạnh tranh.
Với mô hình phát triển mới theo chiều sâu, sự đầu tư cơ sỏ hạ tầng đồng đều không
chỉ ở thành thị mà còn ở nông thôn, cơ sở hạ tầng đc nâng cấp sẽ thúc đẩy hầu hết các
ngành kinh tế phát triển. Cơ sở hạ tầng của Việt Nam đã được cải thiện rất rõ rệt và
đạt được nhiều thành tựu trong những năm gần đây. Tuy vậy,cơ sở hạ tầng của Việt
Nam vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt cần phải sửa đổi và nâng cấp để đáp ứng được sự
phát triển của đất nước trong tương lai gần. Chẳng hạn như đường sá chật hẹp, kiến
trúc đô thị không hợp lý, các công ty xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng hầu hết là
cty nhà nước, khả năng quản lý kém.Một nghiên cứu của WB (3/2008) cho thấy: lao
động Việt Nam chỉ đạt 32/100 điểm.
• Chất lượng nguồn nhân lực
Nhân công rẻ là yếu tố thu hút đầu tư nước ngoài ồ ạt vào Việt nam.
VN có nguồn lao động dồi dào, nhưng đa số trình độ thấp. Các tiêu chí đánh giá

chất lượng lao động do WB đưa ra bao gồm những kết quả chung về hệ thống giáo
dục và đào tạo nhân lực; mức độ sẵn có của lao động chất lượng cao; mức độ sẵn có
4
của nhân lực quản lý hành chính chất lượng cao; sự thành thạo tiếng Anh và sự thành
thạo về kỹ thuật và công nghệ tiên tiến.
Nguồn lao động của nước ta có năng suất lao động quá thấp, đứng thứ 77/125
nước và vùng lãnh thổ, sau cả Indonesia, Philippine và Thái Lan. Trình độ lực lượng
lao động viên chức: Kết quả điều tra 195.422 cán bộ, công chức hành chính của 32 Bộ
ngành Trung ương, 64 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương (kể cả 671 quận, huyện
trong cả nước) và 192.438 cán bộ, công chức đang làm việc ở 10.848 xã, phường, thị
trấn trong cả nước cho thấy, trong tổng số 195.422 cán bộ công chức hành chính cả
nước có 56 người có trình độ tiến sĩ khoa học, 1.044 người có trình độ tiến sĩ, 4.775
thạc sĩ, 120.140 người có trình độ đại học. Về trình độ lý luận chính trị, 10,43% có
trình độ cao cấp, 30,21% có trình độ trung cấp. Về ngoại ngữ, trình độ D chiếm tỷ lệ
1,39% , trình độ C: 8,55% , trình độ B: 41,64%, người chưa học ngoại ngữ: 30,32%. Về
trình độ tin học, chỉ có 1,98% có trình độ C, 40,22% có trình độ B, 25,4% chưa học tin
học.
Kết quả đánh giá các chỉ số nhân lực ở Việt Nam cho thấy, tình trạng thiếu hụt lao
động trầm trọng vẫn tiếp tục diễn ra ở các ngành nghề dệt may, da giày, gỗ, du lịch.
Chỉ số cầu nguồn nhân lực của hầu hết ngành nghề tăng đáng kể và tập trung vào
các lĩnh vực đòi hỏi chuyên môn và trình độ cao Ngân hàng Thế giới đã tiến hành
một khảo sát ở Việt Nam và đưa ra kết luận: Khoảng 50% các công ty về may mặc, hóa
chất đánh giá lao động được đào tạo không đáp ứng nhu cầu của mình. Khoảng 60%
lao động trẻ tốt nghiệp từ các trường dạy nghề và trường cao đẳng cần được đào tạo
lại ngay sau khi tuyển dụng. Một số doanh nghiệp phần mềm cần đào tạo lại ít nhất 1
năm cho khoảng 80%-90% sinh viên tốt nghiệp vừa được tuyển dụng. Chất lượng
nguồn lao động là một trong những yếu tố quan trọng giúp chúng ta thắng thế trong
cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế.
• Tham nhũng
Tình hình tham nhũng của Việt Nam trong những năm trước rất nghiêm trọng.

Năm Chỉ số, điểm Hạng
2001 2.6 75/91
2002 2.4 85/102
2003 2.4 100/133
2004 2.6 102/145
2005 2.6 107/158
2006 2.6 111/163
5
2007 2.6 123/179
2008 2.7 121/180
2009 2.7 120/180
2010 2.7 116/178
2011 2.9 112/182
Chỉ số tham nhũng của Việt Nam
Có những vụ tham nhũng làm tổn hại rất nhiều tới nền kinh tế quốc gia. Tăng
trưởng kinh tế theo chiều sâu quan tâm tới hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào và
trình độ công nghệ, quản lý, ưu tiên về chất lượng hơn số lượng, góp phần giải quyết
vấn đề tham nhũng.
2. Chính sách kinh tế vĩ mô:
Chính sách kinh tế vĩ mô là các chính sách kinh tế nhằm mục đích ổn định kinh tế
vĩ mô và đạt trạng thái toàn dụng lao động. Hai chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng
là chính sách tài khóa (chính sách tài chính) và chính sách tiền tệ. Có thể có một
số chính sách kinh tế khác cũng có tác động tới kinh tế vĩ mô, như chính sách thương
mại song mục đích chính của chúng không phải là ổn định kinh tế vĩ mô, nên không
được coi là chính sách kinh tế vĩ mô.
a. Chính sách tài khóa (chính sách tài chính):
Chính sách tài khóa là chính sách thông qua chế độ thuế và đầu tư công cộng để tác
động tới nền kinh tế.
Khi nền kinh tế đang ở pha suy thoái, nhà nước có thể giảm thuế, tăng chi tiêu (đầu
tư công cộng) để chống lại. Chính sách tài khóa như thế gọi là chính sách tài khóa nới

lỏng.
Ngược lại, khi nền kinh tế ở pha bùng nổ và có hiện tượng nóng, thì nhà nước có
thể tăng thuế và giảm chi tiêu của mình để ngăn cho nền kinh tế khỏi rơi vào tình
trạng quá nóng dẫn tới đổ vỡ. Chính sách tài khóa như thế này gọi là chính sách tài
khóa thắt chặt.
• Hiệu quả của chính sách tài khóa qua phân tích IS-LM
Các trường phái kinh tế học Keynes cho rằng chính sác tài chính có hiệu quả to lớn
trong chống chu kỳ kinh tế. Họ sử dụng phân tích IS-LM để cho thấy chính sách tài
chính phát huy tác dụng thông qua sư dịch chuyển của đường IS thế nào. Bản thân
6
John Maynard Keynes đề cao chính sách tài chính thông qua công cụ chi tiêu chính
phủ.
Tuy nhiên, dựa vào phân tích IS-LM có thể thấy chính sách tài khóa phát huy tác
dụng hoàn toàn khi đường IS dốc xuống phía phải cắt đường LM ở đoạn nằm ngang,
và phát huy tác dụng không hoàn toàn khi đường IS cắt đường LM ở đoạn dốc lên phía
phải. Còn khi đường IS cắt đường LM ở đoạn thẳng đứng, chính sách tài chính không
hề có tác dụng. Giả dụ nhà nước thực hiện chính sách tài khóa nới lỏng, đường IS sẽ
dịch song song sang phía phải. Phân tích IS-LM cho thấy lãi suất thực tế sẽ tăng lên,
gây khó khăn cho các hãng đi vay để đầu tư mở rộng sản xuất. Hiện tượng chính sách
tài khóa không phát huy hiệu quả hay phát huy không đầy đủ như thế này gọi là hiện
tượng hất ra.
• Hiệu quả trong nền kinh tế mở
Trong nền kinh tế mở,hiệu quả của chính sách tài chính phụ thuộc vào chế độ tỷ giá
hối đoái cố định,tài chính sẽ phát huy hiệu quả.Còn nếu là chế độ tỷ giá hối đoái thr
nổi,chính sách tài khóa sẽ không có hiệu lực do những thay đổi tỷ giá gây ra bởi chính
sách tài khóa sẽ triệt tiêu hiệu quả của chính sách.
• Thuyết cân bằng Barro-Ricardo
Nguyên lý cân bằng Ricardo là một nguyên lý quan trọng trong chính sách tiền
tệ và chính sách tài khóa.
Cân bằng Ricardo (Ricardian equivalence) cũng còn được gọi là Định lý cân bằng

Barro-Ricardo (Barro-Ricardo equivalence theorem) là một lý thuyết kinh tế cho rằng
người tiêu dùng sẽ hiểu rõ giới hạn ngân sách của chính phủ, và như vậy thời điểm
thay đổi thuế suất sẽ không ảnh hưởng tới thay đổi trong tiêu dùng của họ. Theo đó,
Cân bằng Ricardo cho rằng việc chính phủ chi trả cho chi tiêu của mình thông qua đi
vay hay tăng thuế là không khác biệt, ảnh hưởng của hai biện pháp này lên mức cầu sẽ
giống hệt nhau
Nhà nước thực hiện chính sách tài chính nới lỏng bằng cách tăng chi tiêu chính
phủ. Nhưng để có nguồn tài chính cho các khoản chi tiêu đó, nhà nước lại phát
hành công tráivà trái phiếu. Robert Barro khẳng định: người ta, với kỳ vọng hợp
lý (rational expectations), sẽ hiểu rằng hôm nay nhà nước đi vay thì tương lai nhà
nước sẽ tăng thuế để có tiền trả nợ, nên sẽ giảm tiêu dùng và tăng tiết kiệm hôm nay
để tương lai có tiền nộp thuế. Như thế, tuy nhà nước tăng tiêu dùng của mình, nhưng
7
lại làm giảm tiêu dùng cá nhân, nên hiệu quả của chính sách tài chính sẽ không cao
như nhà nước mong đợi.
• Những trở ngại về chính trị
Ở nhiều nước, chính phủ muốn tiến hành đầu tư (chi tiêu chính phủ) thường phải
xin quốc hội phê duyệt. Khả năng bị quốc hội bác bỏ không phải là không có. Vì thế,
không phải cứ muốn thực hiện chính sách tài chính nới lỏng thông qua tăng chi tiêu
chính phủ là luôn có thể làm được. Mặt khác khi đã chi và tiến hành đầu tư rồi, mà lại
muốn thực hiện chính sách tài chính thắt chặt lại cũng khó khăn vì không thể bỏ dở
các công trình đầu tư đang triển khai được.
Thực hiện chính sách tài chính nới lỏng thông qua giảm thuế thì dễ. Nhưng khi
muốn thực hiện chính sách tài chính thắt chặt thông qua tăng thuế lại rất dễ bị người
dân phản đối.
• Độ trễ trong phát huy hiệu quả của chính sách tài khóa
Chính phủ muốn thực hiện chính sách tài khóa nới lỏng bằng cách tăng chi tiêu
chính phủ. Giả sử được quốc hội thông qua thì cũng đã mất thời gian chờ đợi quốc hội
xem xét thảo luận. Sau đó, để triển khai còn phải tiến hành các hoạt động như lập kế
hoạch dự án, khảo sát-thiết kế để triển khai đầu tư. Những việc này cũng mất không ít

thời gian. Chính vì vậy, có một độ trễ để chính sách tài chính nới lỏng bắt đầu phát huy
tác dụng.
b. Chính sách tiền tệ:
* Chính sách tiền tệ là quá trình kiểm soát lượng cung tiền của nền kinh tế để đạt
được những mục đích như kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái.
- Khi cần kích thích kinh tế tăng trưởng, ngân hàng trung ương sẽ làm tăng lượng
cung tiền. Chính sách tiền tệ thế này gọi là nới lỏng tiền tệ.
- Ngược lại, khi cần hạ nhiệt cho nền kinh tế, chống lạm phát, ngân hàng trung
ương sẽ làm giảm lượng cung tiền. Chính sách tiền tệ khi đó gọi là thắt chặt tiền tệ.
Trong năm 2011, chính sách tiền tệ có thể được coi là công cụ chủ đạo chi phối các
hoạt động kinh tế của cả nước. Trước diễn biến lạm phát tăng mạnh vào đầu năm,
NHNN đã chủ động thực hiện chính sách tiền tệ chắt chặt, bao gồm các biện pháp tiết
giảm cung tiền, nâng mạnh các mức lãi suất chính sách, và nhiều biện pháp hành
chính khác để kiềm chế tăng trưởng tín dụng, đặc biệt trong các lĩnh vực phi sản xuất
Chính sách tiền tệ có thể chia làm: chính sách mở rộng và chính sách thu hẹp.
8
Các dạng của chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền
tệ:
Biến số tác động: Mục tiêu dài hạn:
Mục tiêu lạm phát
Lãi suất của nợ qua
đêm
Cố định tỷ lệ lạm phát
Mục tiêu mức giá
Lãi suất của nợ qua
đêm
Cố định mức giá
Tổng cung tiền
Tốc độ tăng cung

tiền
Cố định tỷ lệ lạm phát
Cố định tỷ giá Tỷ giá Tỷ giá
Bàn vị vàng Giá vàng
Lạm phát thấp đo bằng giá
vàng
Chính sách tổng
hợp
Thường là lãi suất
Thường là tỷ lệ thất nghiệp +
Lạm phát
Chính sách tiền tệ nhắm vào hai mục tiêu là lãi suất và lượng cung tiền. Thông
thường, không thể thực hiện đồng thời hai mục tiêu này. Chỉ để điều tiết chu kỳ kinh tế
ở tình trạng bình thường, thì mục tiêu lãi suất được lựa chọn. Còn khi kinh tế quá
nóng hay kinh tế quá lạnh, chính sách tiền tệ sẽ nhằm vào mục tiêu trực tiếp hơn, đó là
lượng cung tiền.
• Các công cụ của chính sách tiền tệ
Gồm có 6 công cụ sau:
 Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối
với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại,
Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân
hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
 Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu
hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay)
của các Ngân hàng thương mại.
 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua
bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có
giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác
động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm
tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.

9
 Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện
chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm
bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là
1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ
trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi
suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
 Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành
chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các
tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương
buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
 Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng
ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu
ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động
mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ
giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình
trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất
nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không
làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các
nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính
sách tiền tệ.
Cơ quan hữu trách về tiền tệ sử dụng chính sách tiền tệ nhằm hai mục đích: ổn định
kinh tế và can thiệp tỷ giá hối đoái.
Về ổn định kinh tế vĩ mô, nguyên lý hoạt động chung của chính sách tiền tệ là cơ
quan hữu trách về tiền tệ (ngân hàng trung ương hay cục tiền tệ) sẽ thay đổi lượng
cung tiền tệ. Các công cụ để đạt được mục tiêu này gồm: thay đổi lãi suất chiết khẩu,
thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và các nghiệp vụ thị trường mở.
- Thay đổi lãi suất chiết khấu
Cơ quan hữu trách về tiền tệ có thể thay đổi lãi suất mà mình cho các ngân hàng
vay, thông qua đó điều chỉnh lượng tiền cơ sở. Khi lượng tiền cơ sở thay đổi, thì lượng

cung tiền cũng thay đổi theo. Vì MS= số nhân tiền* MB mà MB=C+R với C là lượng tiền
mặt và R là lượng tiền dự trữ trong các ngân hàng, khi lãi suất chiết khấu tăng sẽ làm
cho lượng tiền mà các ngân hàng thu được từ việc NHTW chiết khấu các chứng từ có
giá giảm xuống, khả năng cho vay của các ngân hàng giảm sút làm tổng cung tiền
giảm
- Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc
10
Các cơ quan hữu trách về tiền tệ thường quy định các ngân hàng phải gửi một
phần tài sản tại chỗ mình. Khi cần triển khai chính sách tiền tệ, cơ quan hữu trách về
tiền tệ có thể thay đổi quy định về mức gửi tài sản đó. Nếu mức gửi tăng lên như khi
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thì lượng tiền mà các ngân hàng còn nắm giữ sẽ
giảm đi. Do đó, tiền cơ sở giảm đi,và lượng cung tiền trên thị trường cũng giảm đi.
- Tiến hành các nghiệp vụ thị trường mở
Cơ quan hữu trách tiền tệ khi mua vào các loại công trái và giấy tờ có giá khác của
nhà nước đã làm tăng lượng tiền cơ sở. Hoặc khi bán ra các giấy tờ có giá đó sẽ làm
giảm lượng tiền cơ sở. Qua đó, cơ quan hữu trách tiền tệ có thể điều chỉnh được lượng
cung tiền.
3. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay:
a. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam:
• Về vốn của doanh nghiệp
- Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tính đến ngày 01/01/2004, cả nước có 72 012
doanh nghiệp thực tế hoạt động với tổng số vốn là 1 724 558 tỷ đồng. Trong đó doanh
nghiệp Nhà nước chiếm 59% tổng vốn của doanh nghiệp cả nước (1 018 615 tỷ đồng)
doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 19,55% (333 155 tỷ đồng), doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,44% tổng vốn các doanh nghiệp cả nước (868 788 tỷ
đồng)
- Xét riêng đối với mỗi doanh nghiệp, vốn của từng doanh nghiệp rất nhỏ (năm 2004,
bình quân mỗi doanh nghiệp là 23,95 tỷ đồng), trong đó số doanh nghiệp
11
+ Có quy mô vốn dưới 0,5 tỷ đồng có 18 790 doanh nghiệp (chiếm 26,09% tổng số

doanh nghiệp)
+ Có quy mô vốn từ 0,5 đến 1 tỷ đồng là 12 954 doanh nghiệp (chiếm 17,99%)
+ Có quy mô vốn từ 1 tỷ đến 5 tỷ đồng là 24 737 doanh nghiệp (chiếm 34,35%)
+ Có quy mô vốn từ 5 tỷ đến 10 tỷ đồng là 5 496 doanh nghiệp (chiếm 7,63%)
+ Có quy mô vốn từ 10 tỷ đến 50 tỷ đồng là 6 648 doanh nghiệp (chiếm 9,23%)
+ Có quy mô vốn từ 50 tỷ đến 200 tỷ đồng là 2 491 doanh nghiệp (chiếm 8,46%)
+ Có quy mô vốn từ 200 đến 500 tỷ đồng là 586 doanh nghiệp (chiếm 0,18%)
+ Có quy mô vốn trên 500 tỷ đồng là 310 doanh nghiệp (chiếm 0,48%)
• Như vậy, đại đa số các doanh nghiệp đang hoạt động trong tình trạng không đủ
vốn cần thiết, đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh cũng như năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ dễ dàng bị các tập đoàn lớn của các nước trong khu vực đánh bại.
• Những khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn của các doanh nghiệp là rất lớn,
trong khi vốn tồn đọng còn nhiều trong các nguồn và việc huy động vốn trong dân vào
đầu tư sản xuất, kinh doanh còn chưa được cải thiện. Các doanh nghiệp Nhà nước
được ưu đãi hơn về vốn trước hết là được cấp vố ban đầu từ ngân sách, cấp đất xây
dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh…Các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu dựa vào vốn tự có của cá nhân. Với khả năng tiếp cận
nguồn vốn hạn chế, các doanh nghiệp có tình trạng phổ biến là chiếm dụng vố lẫn
nhau, làm lây nhiễm rủi ro giữa các doanh nghiệp.
• Hoạt động nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu
12

- Về hoạt động nghiên cứu thị trường: Theo một điều tra với 175 doanh nghiệp, có 16%
số DN tiến hành nghiên cứu thị trường một cách thường xuyên, 84% còn lại cho rằng
việc đó không cần thiết phải làm thường xuyên. Một số liệu của Phòng Thương mại và
Công nghiệp VN cho thấy, chưa đầy 10& số DN thường xuyên thăm thị trường nước
ngoài, chủ yếu là DN lớn và DN của Nhà nước, 42% số DN thỉnh thoảng mới có việc
thăm thị trường nước ngoài, khoảng 20% không một lần đặt chân lên thị trường nước
ngoài. Các DN nhỏ và các DN tư nhân thì khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài

hầu như không có.
+ Hiệu quả của công tác ngiên cứu thị trường còn hạn chế và yếu kém, nhiều thị
trường tiềm năng còn chưa được khai thác, nhiều DN đã phải chịu thua lỗ lớn và mất
thị trường do không đi sâu vào nghiên cứu thị trường. Nhiều DN đã nhận thức được
tầm quan trọng của việc nghiên cứu thị trường song vì vốn ít, nên ngân sách hạn hẹp,
khả năng khảo sát rất hạn chế vì chi phí tốn kém, hiệu quả không cao.
+ Hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp chưa được tổ chức một
cách khoa học, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người nghiên cứu. Các DN còn rất
hạn chế trong việc sử dụng công nghẹ thông tin, công cụ thống kê trong nghiên cứu thị
trường, đa số là phân tích bằng cảm tính rồi đưa ra dự báo. Đa số các doanh nghiệp
kinh doanh thụ động, không chắc chắn.
13
- Về việc xác định thị trường mục tiêu: các doanh nghiệp thường lựa chọn thị trường
mục tiêu theo cách phản ứng lại với thị trường, thấy cơ hội của đoạn thị trường nào
hấp dẫn thì tập trung vào thị trường đó.
VD: như hạn hán mất mùa ở Indonexia làm xuất hiện nhu cầu nhập khẩu gạo thì họ
tập trung vào đó. Tình trạng phổ biến diễn ra là các doanh nghiệp không chủ động
tiếp cận với thị trường để chọn cho mình một thị trường mục tiêu, để từ đó có kế
hoạc thâm nhập, giữ vững hay mở rộng thị trường.
• Nhìn chung, công tác nghiên cứu thị trường của DN Việt Nam còn yếu kém.
Dịch vụ hỗ trợ hoạt động kinh doanh còn hạn chế. Trình độ khai thác và sử
dụng thông tin của cán bộ còn thấp, sự quan tâm chưa đúng mức của lãnh đạo
DN…Còn có những mặt hàng của DN Nhà nước đang được bảo hộ tuyệt đối, ưu
đãi độc quyền…
• Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
14
• Chiến lược sản phẩm của các DN:
Trước yêu cầu của thị trường ngày càng cao, các DN Việt Nam đã quan tâm đến
yếu tố chất lượng sản phẩm và xây dựng chiến lược sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của
khách hàng và thị trường. Tuy nhiên, các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam có đặc

điểm là: yếu tố tư bản vốn trong cấu thành sản phẩm thấp, hàm lượng tri thức và công
nghệ trong sản phẩm không cao, chủ yếu dựa vào yếu tố lao động (gạo, thủy sản) hoặc
điều kiện tự nhiên, chất lượng sản phẩm chưa thực sự có ưu thế rõ rệt trên thị trường
thế giới, năng suất lao động thấp. Tính độc đáo của sản phẩm không cao, nhiều sản
phẩm tiêu dùng và công nghiệp lạc hậu so với thế giới nhiều thế hệ, giá trị gia tăng
sản phẩm trong tổng giá trị sản phẩm còn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của
thế giới.
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho
sản xuất. Ngay cả các sản phẩm xuất khẩu và các sản phẩm có sự tăng trưởng cao
trong nhiều năm qua như: hàng dệt may, da giày, chế biến thực phẩm và đồ uống, ô tô,
xe máy, hàng điện tử…cũng phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, bán thành phần
nhập khẩu. Việc nhập khẩu với số lượng lớn nguyên vật liệu cũng sẽ gây tác động trực
tiếp tới tính chủ động của các doanh nghiệp trong việc lập kế hoạch kinh doanh và tới
giá thành do phụ thuộc vào biến động giá cả nguyên liệu nhập khẩu…Ngoài ra, nó còn
làm phát sinh thêm nhiều khoản chi phí khác như: chi phí vận chuyển, hải quan, bảo
hiểm…Chi phí dịch vụ hạ tầng phục vụ sản xuất CN như: điện, viễn thông, cảng biển,
15
vận tại ở Việt Nam cũng được đánh giá là cao hơn mức trung bình các nước trong khu
vực.
• Chiến lược phân phối
- Do các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu đã làm hạn chế tầm
hoạt động và mạng lưới phân phối. Nhiều DN vẫn áp dụng hình thức các kênh phân
phối qua trung gian thương mại nên chưa thiết lập được hệ thống phân phối hàng hóa
đến đại lý hoặc người tiêu dùng cuối cùng. Vì thế, các DN không thể kiểm soát được
quá trình phân phối và tiêu thụ sản phẩm, không nắm bắt những thông tin phản ánh
tình hình thị trường.
- Chiến lược truyền tin và xúc tiến hỗn hợp của các DN còn ở trình độ thấp, giản đơn và
không mang lại hiệu quả thiết thực. Có rất ít DN xây dựng được chương trình xúc tiến
hỗn hợp để giới thiệu sản phẩm cho khách hàng. Chi phí dành cho quảng cáo còn quá
thấp, chỉ dưới 1% doanh thu là quá nhỏ so với DN nước ngoài như Coca Cola là 20%,

Sony là 10%, chất lượng quảng cáo còn yếu do thiếu chuyên gia.
- Việc xây dựng và phát triển thương hiệu của các DN cũng gặp nhiều khó khăn. Nhiều
DN thường xem nhẹ vai trò của thương hiệu sản phẩm hoặc thương hiệu DN nên
không đăng lý thương hiệu tại nước nhập khẩu. Điều đó làm cho DN bị mất thương
hiệu trên thị trường thế giới đối với một số sản phẩm như: nước mắm Phú Quốc, bia
Sài Gòn, may Việt Tiến, cà phê Trung Nguyên…
16

- Tỷ lệ DN nối mạng Internet còn rất hạn chế (22,4% trong tổng các DN Việt Nam). Bên
cạnh đó, số DN áp dụng thương mại điện tử còn quá ít, chỉ có 2% DN có Website trong
khi công nghệ thông tin và thương mại điện tử là công cụ giúp cho chi phí gia nhập thị
trường quốc tế giảm.
• Năng lực quản lý và điều hành
- Theo kết quả điều tra, có 40,6% DN đã áp dụng thành tựu KH-KT trong quản lý, giảm
tối đa biên chế quản lý là 48,4%, tiết kiệm các chi phí gây lãng phí 73,7%, việc xây
dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO:9000 sẽ giúp cho
DN chủ động trong việc xây dựng quy trình công tác cho từng lao động và mối quan hệ
dây chuyền giữa các lao động và bộ phận công tác nhằm hợp lý hóa sản xuất và quản
lý, giảm biên chế hành chính, giảm chi phí quản lý, hạ giá thành sản phẩm.
17
- Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, mặc dù đã có chủ trương xóa bỏ chủ quan, nhưng
đang có quá nhiều cấp, nghành trực tiếp can thiệp công việc kinh doanh hàng ngày
của doanh nghiệp gây ra tình trạng DN chịu nhiều áp lực. Trong nội bộ mỗi DN Nhà
nước, tổ chức quản lý còn quá cồng kềnh so với DN ngoài Nhà nước, nhiều ban, nhiều
thủ tục hành chính rườm rà chưa được sửa đổi làm cho DN không thể năng động, linh
hoạt, đạp ứng kịp thời yêu cầu của thị trường. Trình độ cán bộ quản lý còn thấp, hạn
chế trong tiếp cận với những khiên thức quản lý hiện đại. Thiếu đội ngũ lao động có
trình độ chuyên môn cao, đây là một trong những tồn tại lớn đối với các DN hiện nay.
• Chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới (R&D)
- Đối với hầu hết các DN trên thế giới hiện nay, nhất là tại các nước đang phát triển, chi

phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi
phí nhằm đầu tư nghiên cứu các công nghệ kỹ thuật mới nâng cao chất lượng và năng
suất lao động hay tạo ra sản phẩm mới, độc đáo, hiện đạo, đáp ứng nhu cầu của khách
hàng, qua đó làm tăng hiệu quả kinh doanh và tạo vị trí vững chắc trên thị trường.
- Qua điều tra, có 69,1% DN đầu tư chi phí có R&D. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
có tỷ lệ cao nhất chiếm 84,6% cuối cùng là khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Tuy
nhiên, các DN chỉ dành 0,2% đến 0,3% doanh thu cho nghiên cứu phát triển sản phẩm
mới.
• Thực tế là nhiều DN Việt Nam chưa có chiến lược kinh doanh, trong điều hành
chủ yếu vẫn là “xử lý tình huống” với công việc hàng ngày, chưa thấy được yêu
cầu của quản lý hiện đại nên chưa chú ý đến công tác nghiên cứu và phát triển.
• Trình độ công nghệ
18
- Trong những năm qua, nhiều DN đã có những đổi mới, nhiều máy móc thiết bị và công
nghệ mới được chuyển giao từ các nước công nghiệp phát triển. Song tốc độ đổi mới
công nghệ và trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều và chưa theo một định hướng
phát triển rõ rệt. Hiện vẫn còn tồn tại đan xen trong nhiều DN các loại thiết bị công
nghệ từ lạc hậu, trung bình đến tiên tiến, do vậy đã làm hạn chế hiệu quả vận hành
thiết bị và giảm mức độ tương thích, đồng nhất giữa các sản phẩm đầu vào, đầu ra.

- Phần lớn các DN nước ra đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình thế
giới 2 - 3 thế hệ. 80% - 90% công nghệ nước ta đang sử dụng là công nghệ ngoại nhập.
Có 76% máy móc, dây chuyền công nghệp nhập thuộc thế hệ 1950 – 1960, 75% số thiết
bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang. Rất nhiều DN ngoài quốc doanh đang sử dụng
máy móc do các DN nước ngoài đã thải bỏ. Mức độ hiện đại chỉ có 10%, trung bình
38% lạc hậu và rất lạc hậu 52%. Đặc biệt khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu
và rất lạc hậu chiếm 75%. Trong khi đó, các DN Việt Nam đầu tư đổ mới công nghệ ở
mức thấp, chi phí chỉ khoảng 0,2 – 0,3% doanh thu. Theo đánh giá của Bộ KH&CN thì
đổi mới công nghệ thuộc loại năng lực yếu nhất của các DN Việt Nam.
• Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật sẽ tạo ra chất lượng sản phẩm thấp và

không ổn định làm cho DN khó khăn trong việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh,
hạn chế khả năng cạnh tranh bằng giá. (giá thành các sản phẩm trong nước
cao hơn nhập khẩu 20% - 40%)
• Nhân lực trong các doanh nghiệp
- Nhiều ý kiến cho rằng, lao động là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam bởi chi phí lao
động rẻ, trình độ dân trí của lao động Việt Nam cao, có truyền thống lao động cần cù,
19
ham học hỏi, khéo tay….Nhưng chúng ta phải nhìn nhận rằng chi phí lao động tuy rẻ
những năng suất lao động chỉ ở mức trung bình và thấp (trên 60%), chủ yếu lại là lao
động thủ công, tác phong lao động công nghiệp còn kém. Do đó nếu so sánh lao động
Việt Nam với lao động các nước trong khu vực thì có thể nói đây là điểm yêu của Việt
Nam.
- Nếu xét chi phí lao động thì của Việt Nam cao hơn nhiều so với Indonexia, nếu xét tới
lao động có trình độ kỹ thuật và có năng suất cao thì lao động Việt Nam lại không thể
so sánh với Thái Lan, Malaysia, Singapo. Thêm nữa, các DN lớn phải tự đào tạo tay
nghề cho người lao động (chiếm 85,06%), điều này dẫn đến chi phí đào tạo cho lao
động cao, nhưng trình độ hiểu biết KHKT của lao động thấp.
b. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong thời gian tới
• Về phía nhà nước:
 Hoàn thành chính sách thương mại và công nghệ:
- Có chính sách ưu đãi hợp lí và công bằng đối với mọi hình thức DN thuộc mọi thành
phần kinh tế.
- Có chính sách trợ giá xuất khẩu cho các DNVN để ổn định sản xuất trong thời gian đầu
tìm kiếm thâm nhậm thị trường mới.
- Chính sách bảo hộ sản xuất trong nước cần bảo đảm tính hợp lí, tạo điều kiện cho các
DNVN góp phần tích cực vào việc chiếm lĩnh thị trường trong nước, thay thế nhập
khẩu tiến tới xuất khẩu.
- Khuyến khích các hình thức hợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu giữa các DN trong nước
với các DN trong các nước khu vực APEC, ASEAN và các khu vực khác trên thế giới.

 Hoàn thiện chính sách tài chính tín dụng:
- Nhà nước cần đảm bảo các DN khu vực tư nhân được thực sự bình đẳng như các DN
nhà nước trong vay vốn ngân hàng.
- Mở rộng hình thức tín dụng thuê mua và cung cấp các khoản tín dụng trung và dài
hạn với lãi suất ưu đãi với các DN mới khởi sự hoặc đầu tư đổi mới công nghệ kĩ thuật
tiên tiến.
- Đơn giản hoá thủ tục ngân hàng trong việc cho vay tín dụng, đặc biệt các khoản vay
trung và dài hạn bị qui định bởi các thủ tục rườm rà, phức tạp làm cho chi phí giao
dịch tăng cao.
 Hoàn thiện chính sách thuế:
20
- Tránh sự trùng lặp về thuế, các văn bản về thuế cần làm rõ ràng, nhất quán và ổn
định, giải quyết sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các loại hình DN.
- Những ưu đãi về thuế cần phải nhằm các tiêu thức như: theo qui mô DN, theo ngành
nghề, theo vùng, theo quá trình tổ chức kinh doanh, theo sự tác động tới việc giải
quyết các vấn đề kinh tế xã hội,… Như vậy sự ưu đãi về thuế hoàn toàn không được xác
định theo thành phần kinh tế và theo nguồn gốc đầu tư.
 Hoàn thiện chính sách công nghệ, đào tạo:
- Chính phủ cần có các biện pháp khuyến khích để hỗ trợ đổi mới công nghệ cho các DN.
Cân tăng thời hạn được xét giảm, miễn thuế cho các dự án đổi mới công nghệ. Về lâu
dài cần có chương trình trợ giúp chi phí cho các DN có dự án khả thi về đổi mới công
nghệ tiên tiến.
- Chính sách cần tích cực đầu tư thêm, mở rộng các trung tâm đào tạo đội ngũ quản lí
và người lao động có sự liên kết chặt chẽ với các trường đại học và các DN nước ta.
- Về lâu dài cần phải cải tổ lại hệ thống giáo dục sẵn có nhằm mục đích đào tạo, đáp
ứng được các nhu cầu của các DN trong quá trình tham gia vào thị trường thế giới.
 Hoàn thiện chính sách đầu tư:
Về khuyến khích đầu tư phát triển, nhà nước cần đầu tư xây dưng cơ sở hạ tầng
ban đầu: đường, điện, cấp thoát nước,…đặc biệt là hỗ trợ đầu tư vào thiết bị xử lí chất
thải bảo vệ môi trường sinh thái mà các DN do hạn chế về vốn không thể đầu tư.

• Về phía doanh nghiệp:
 Tăng cường hoạt động marketing hỗn hợp
21
Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường
+ Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đầu tiên đối với bất cứ doanh nghiệp
nào trong quá trình kinh doanh. Một DN không thể khai thác hết tiềm năng của mình
cũng như không thỏa mãn tất cả được nhu cầu của khách hàng nếu không có được
đầy đủ thông thin về thị trường.
+ Thông qua việc nghiên cứu thị trường, DN sẽ nắm được thông tin cần thiết về giá
cả, cung cầu hàng hóa dịch vụ mà DN đang kinh doanh hoặc sẽ kinh doanh đề để ra
phương án, chiên lược phù hợp. Để công tác nghiên cứu thị trường đạt hiệu quả cao,
các DN cần kết hợp cả 2 phương pháp nghiên cứu tại bàn và tại hiện trường.
+ DN nên tiến hành nghiên cứu thị trường theo trình tự: xác định mục tiêu nghiên
cứu, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu, xác định và lựa chọn phương pháp,
xây dựng kế hoạch, thực hiện, điều chỉnh kế hoạc và viết báo cáo.
 Hoàn thiện chiến lược sản phẩm của doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp cần chọn những sản phẩm có thế mạnh, không ngừng cải tiến nâng
cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa
dạng và nâng cao của xã hội. Khai thác có hiệu quả lợi thế của quốc gia trong lựa chọn
sản phẩm kinh doanh, hiện đại hóa khâu thiết kế sản phẩm, lựa chọn hệ thống quản lý
chất lượng tiên tiến trên thế giới phù hợp với doanh nghiệp để nâng cao chiến lược
sản phẩm.
22
- Doanh nghiệp cần quan tâm đến chiến lược thích ứng hóa sản phẩm nhằm thỏa mãn
đến mức cao nhất nhu cầu thị trường. Trong chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp còn
phải tính đến việc phát triển các sản phẩm mới, phải xem xét thái độ đối với sản phẩm
của người tiêu dùng để kịp thời đưa ra các giải pháp cần thiết. Doanh nghiệp cần
quán triệt sâu sắc việc coi trọng chiến lược sản phẩm gắn với việc đổi mới sản phẩm,
gắn với chiến lược nhãn hiệu và các chiến lược dịch vụ gắn với sản phẩm.
- Sản phẩm phải đảm bảo thích nghi và đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng, kiểu

dáng, mẫu mã và bao gói. Sự thích ứng của sản phẩm với một thị trường phụ thuộc
vào 2 yếu tố cơ bản: mức độ chấp nhận người tiêu dùng cuối cùng và mức độ sẵn sàng
chấp nhận của các nhà sản xuất, của các khách hàng trung gian (nhà bán buôn, nhà
bán lẻ)
 Hoàn thiện chiến lược phân phối và tổ chức mạng lưới bán hàng
- Nhiệm vụ phát triển hệ thống kênh phân phối cần được xác lập và điều khiển bởi cấp
quản lý cao nhất của doanh nghiệp. Kênh phân phối cần được đầu tư về vật chất tiền
bạc và nhân lực tương xứng với mục tiêu mà nó phải theo đuổi.
- Cần kiên quyết loại trừ những cách thức tổ chức và quản lý kênh đã quá lạc hậu và lỗi
thời. Doanh nghiệp nên chọn kiểu kênh phân phối dọc (đây là kiểu tổ chức kênh rất
hiệu quả và đang được áp dụng phổ biến). Tư tưởng cơ bản hệ thống kênh phân phối
dọc là:
+ Trong kênh gồm có nhiều thành viên khác nhau (nhà sản xuất, nhà bán buôn, bán
lẻ). Các thành viên liên kết với nhau thành một hệ thống thống nhất, chặt chẽ, bền
vững để không bị phá vỡ bởi bất kì xung lực nào từ môi trường bên ngoài.
+ Trong kênh phải có một tổ chức giữ vai trò người chỉ huy kênh (thường là nhà
sản xuất). Quản lý giữa các tổ chức hay thành viên kênh phải đảm bảo chặt chẽ đến
mức tạo ra một sự lưu thông thông suốt của hàng hóa và các dòng chảy khác trong
kênh từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng và ngược lại.
- Tính thống nhất và sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên kênh được đảm bảo bằng
sự hợp tác toàn diện và dựa trên nền tảng thống nhất lợi ích của toàn bộ hệ thống
kênh và của từng thành viên kênh. Để tạo lập một hệ thống kênh phân phối dọc, các
doanh nghiệp cần quan tâm đến một số hoạt động cụ thể sau:
+ Đầu tư xứng đáng cho việc thiết kế (hay xây dựng hệ thống kênh hoàn hảo, tạo ra
một cơ cấu kênh phân phối tối ưu về chiều dài – số cấp độ trung gian của kênh, chiều
rộng – sản lượng thành viên ở cùng một cấp độ của kênh, số lượng kênh được sử dụng
23
và tỷ trọng hàng hóa được phân bổ vào mỗi kênh. Muốn vậy phải tiến hành phân tích
toàn diện các yếu tối nội tại của Công ty, các yếu tố thuộc về trung gian phân phối, thị
trường khách hàng và các yếu tố khác thuộc môi trường vĩ mô của kinh doanh.

- Sau khi thiết kế được một cơ cấu kênh phân phối tối ưu, các DN phải biến các mô hình
này thành hiện thực, nghĩa là phát triển mạng lưới phân phối và thực hiện các biện
pháp để điều khiển, quản lý nó. Trong quá trình phát triển mạng lưới, tuyển chọn, thu
hút các thành viên kênh cũng như quá trình quản lý kênh, các DN không chỉ đơn thuần
đầu tư tiền bạc mà phải có những kế sách khôn ngoan, kiên trì, mềm dẻo, khai thác
những khía cạnh văn hóa, tập quán truyền thống của người Việt Nam.
- Doanh nghiệp cũng cần thường xuyên đánh giá hoạt động của các thành viên kênh để
có sự quản lý và điều chỉnh hệ thống kênh một cách có căn cứ và kịp thời.
- Tăng cường công tác quảng cáo, xúc tiến bán hàng và các loại dịch vụ để kích thích
sức mua của thị trường.
- Quảng cáo và tuyên truyền trong truyền tin và xúc tiến hỗn hợp phải hướng đồng thời
tới 3 mục tiêu là: thông tin, thuyết phục và gợi nhớ. Tư tưởng chủ đạo của các thông
điệp đưa ra phải dựa vào ngồi gốc sản phẩm, gây chú ý đến điều gì đó của sản phẩm
đối với khách hàng. Bên cạnh đó, các DN cần quảng cáo uy tín của DN để tính nổi trội
của các dịch vụ đi theo. Trong quá trình thực hiện chiến lược quảng cáo và tuyên
truyền, DN có thể thực hiện theo quy định 6 bước sau”
+ Xác định rõ đối tượng tác động mục tiêu là ai, là người mua tiềm năng, người sử
dụng hiện đại, người quyết định mua hàng hay người có tác động ảnh hưởng, các
nhân hay tổ chức.
+ Xác định các mục tiêu cần phải đạt được. Mục tiêu cần phải đạt được có thể chỉ là
thông báo (khi bắt đầu quảng cáo và tuyên truyền) hoặc mục tiêu thuyết phục khách
hàng cps sự nhận thức đầy đủ và lòng tin và sản phẩm và sự phục vụ của DN, hặc chỉ
là mục tiêu nhắc nhở khách hàng để họ có thể nhớ đến sản phẩm và DN.
+ Lựa chọn các phương án phân bố ngân sách cho hoạt động truyền tin và xúc tiến
hỗ hợp. Có nhiều phương pháp xác định ngân sách như: tùy theo khả năng, phần trăm
trên dân số, phương pháp ngang bằng cạnh tranh, theo mục tiêu, phân tích, so sánh.
+ Quyết định các công cụ truyền tin và xúc tiến hỗn hợp. Nội dung chủ yếu là lựa
chọn công cụ có tính khả thi cao, phù hợp với khả năng tài chính và đáp ứng được mục
tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong chiến lược truyền tin và xúc tiến hỗn hợp.
24

+ Tổ chức thực hiện các hoạt động truyền tin và xúc tiến hỗn hợp. Trong quá trình
tổ chức phải chú ý tới luật pháp và quy định của Nhà nước về ngôn ngữ, biểu tượng,
nội dung và các hình thức được phép và không được phép.
+ Kiểm soát, đánh giá hiệu quả và hiệu chỉnh chiến lược khi cần thiết. Các DN để
phái triển thị trường và tăng doanh thu cần tăng cường hoạt động dịch vụ trước,
trong và sau bán hàng như: dịch vụ chào hàng, bảo hành sửa chữa, miễn phí, cung ứng
đồng bộ có đảm baorm vận chuyển nhanh chóng, chính xác, chu đáo, theo yêu cầu của
khách hàng với chất lượng cao hơn so với đối thủ cạnh tranh.
• Các DN cần có ban dịch vụ khách hàng để xử lý các khiếu nại và điều chỉnh,
cung ứng các dịch vụ khách hàng một cách tốt nhất.
 Hoàn thiện chiến lược vốn của doanh nghiệp:
Trên cơ sở chiến lược kinh doanh dài hạn và các mục tiêu trước mắt, DN cần phải
xây dựng chiến lược huy động vốn. Một trong những điểm yếu của DNVN hiện nay là
thiếu vốn, trong khi một số ngân hàng thương mại lại thừa vốn. Các DN cần xây dựng
phương án kinh doanh khả thi. Bên cạnh nguồn vốn từ ngân hàng, các công ti cổ phần,
DN nhà nước cổ phần hoá, công ti có thể huy động vốn từ thị trường chứng khoán
thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Đây là nguồn vốn rẻ và ổn định, giúp DN
thực hiện những dự án kinh doanh lớn đòi hỏi thời gian dài.
 Xây dựng chiến lược văn hoá DN:
Các DNVN muốn đứng vững và phát triển cạnh tranh phải xây dựng cho mình một
mô hình văn hoá doanh nghiệp, đó là: xây dựng chế độ lương bổng cao, chế độ làm việc
ổn định, xây dựng mối quan hệ giữa các thành viên DN như một đại gia đình, hướng
tới một tinh thần đồng đội cao, đồng thời phải có qui định rõ ràng về thưởng phạt để
tạo ra động lực cạnh tranh, động lực phát triển của DN.
 Hoàn thiện chiến lược đổi mới công nghệ:
DN cần xây dựng kế hoạch từng bước đổi mới dây chuyền công nghệ, thay thế dần
công nghệ cũ bằng công nghệ mới để tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng
cao chất lượng hàng hoá. Trước tiên lựa chọn các khâu quan trọng trong dây chuyền
sản xuất coa ảnh hưởng đến chất lượng và giá thành sản phẩm đến tiến hành hiện đại
hoá trước.

 Nâng cao trình độ, năng lực con người:
25

×