Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

luận văn:Kế hoạch hoá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2001-2005 ở Việt Nam và các giải pháp thực hiện pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (777.03 KB, 71 trang )

-----

-----

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP

Đề tài: “Kế hoạch hoá chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế thời kỳ 2001-2005 ở Việt
Nam và các giải pháp thực hiện.”

-1-


-2-


Mục lục
Mở đầu

................................................................................................. 1

Chương I:

một số vấn đề lý luận về sự chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế ............................................................... 6

I.

Cơ cấu kinh tế và phân loại cơ cấu kinh tế ................................................................... 6

1. Khái niệm cơ cấu kinh tế ..................................................................................6


2. Phân loại cơ cấu kinh tế ...................................................................................7
II. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ................................................................................. 9

1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ..............................................................9
2. Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ..............................................10
3. Những lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ..........................10

Chương II:
I.

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ............................... 31

Những phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế trong thời kỳ 1996-2000.................................................................................... 31

1. Nơng nghiệp....................................................................................................31
2. Cơng nghiệp....................................................................................................33
3. Chương trình phát triển kinh tế dịch vụ .........................................................35
II. Thực trạng qúa trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế thời kỳ 1996-2000 .................................................................................. 36

1. Thực trạng qúa trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 1996-2000 ......36
2. Thực trạng cơ cấu ngành kinh tế năm 2001 ..................................................40
3. Những thuận lợi và khó khăn cho những năm tiếp theo.................................44
4. Nguồn lực chủ yếu cho qúa trình chuyển dịch cơ cấu ngành
trong thời kỳ 2001-2005 .................................................................................46

Chương III:

Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành

thời kỳ 2001-2005 .................................................................. 48

I.

Quan điểm: ..................................................................................................................... 48

II. Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế .......................................................... 53

1. Định dạng cơ cấu và lựa chọn một số ngành trọng điểm, mũi nhọn .............53
2. Định hướng chuyển dịch cơ cấu các ngành ..................................................56

-3-


3. Định hướng phát triển các ngành dịch vụ ......................................................62
III. Các giải pháp: ................................................................................................................ 63

1. Giải pháp nâng cao chất lượng các quy hoạch, chương trình dự án
phát triển ngành .............................................................................................63
2. Về vốn đầu tư:.................................................................................................64
3. Đào tạo nguồn nhân lực:................................................................................65
4. Giải pháp về thị trường: .................................................................................66
5. Chính sách thúc đẩy, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu ngành: ...............................67
6. Xác định các bước đi cho qúa trình chuyển dịch: ..........................................68

kết luận

............................................................................................... 70

Tài liệu tham khảo.......................................................................................... 71


-4-


Mở đầu

Xây dựng một các ngành kinh tế hợp lý, hiệu quả cao là vấn đề hết sức quan
trọng để nền kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố, phù
hợp với u cầu và bước đi trong tiến trình hội nhập của nền kinh tế khu vực và thế
giới là một trong những nội dung cơ bản của đường lối đổi mới nền kinh tế đất nước
do Đai hội lần thứ VII, VIII và IX của Đảng đề ra. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2005
ở nước ta có cơ cấu GDP theo ngành là: tỷ trọng nông nghiệp khoảng 20-21%, tỷ
trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 40-41%, tỷ trọng các ngành dịch vụ khoảng
41-42%. Để đạt được mục tiêu đề ra trên đây, góp phần thực hiện chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố; mỗi nhóm
ngành phải đạt tốc độ tăng trưởng: nông nghiệp khoảng 4,3%, công nghiệp và xây
dựng 10,8%, dịch vụ 6,2%; tăng trưởng GDP bình quân 7,5%. Trong những năm
qua cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, mang tính tự phát, chưa thật sự chủ động, còn
nhiều bấp bênh, rủi ro; hiệu quả sản xuất thấp dẫn đến không đạt được kế hoạch
tăng trưởng kinh tế đề ra. Nó là vấn đề bức xúc nhất hiện nay, đang là vấn đề trung
tâm trong các cuộc nghiên cứu,thảo luận của Quốc hội và Chính phủ.
Ngày nay, thế giới có những biến đổi sâu sắc, ngày càng nhiều những biến
động khó lường, nhiều yếi tố tác động đến sự phát triển kinh tế. Đề án nghiên cứu
theo phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành một cách chủ động, linh hoạt phù
hợp với những biến động của trong và ngoài nước. Đề án nghiên cứu "Kế hoạch
hoá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2001-2005 ở Việt Nam và các giải
pháp thực hiện".
Em xin chân thành cảm ơn đã nhiệt tình giúp đỡ em nghiên cứu hồn thành đề án
này. mặc dù đã hết sức cố gắng trong qúa trình nghiên cứu, nhưng do trình độ, kinh

nghiệm cịn hạn chế và thời gian ngắn chưa nghiên cứu được sâu sắc vấn đề nên bài
viết không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Mong được sự góp ý của các thầy,
các cơ và bạn bè để em có thể hiểu sâu sắc hơn vấn đề.

-5-


Chương I

Một số vấn đề lý luận về
sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

I.

Cơ cấu kinh tế và phân loại cơ cấu kinh tế

1.

Khái niệm cơ cấu kinh tế
Trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu

kinh tế. Các cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái niệm “cơ cấu”. Là một phạm trù
triết học, khái niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối
quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Cơ cấu được biểu hiện như là
những mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định.
Cơ cấu là thuộc tính của một hệ thống. Do đó, khi nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên
quan điểm hệ thống.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể hiểu: cơ
cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc
dân, giữa chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số

lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể,
chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm này, cơ cấu
kinh tế là một phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội.
Một cách tiếp cận khác thì cho rằng: cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy đủ là
một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau
trong những khơng gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định, được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng lẫn
chất lượng, phù hợp với mục tiêu được xác định của nền kinh tế.
Nhìn chung các cách tiếp cận trên đã phản ánh được mặt bản chất chủ yếu của
cơ cấu kinh tế. Đó là các vấn đề:

-6-


- Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố câú thành hệ thống kinh tế của một quốc
gia.
- Số lượng và tỷ trọng các nhóm ngành và các yếu tố cấu thành hệ thống kinh
tế trong tổng thể nền kinh tế đất nước.
- Các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu tố...hướng vào
các mục tiêu đã xác định. Cơ cấu kinh tế còn là một phạm trù trừu tượng; muốn nắm
vững bản chất của cơ cấu kinh tế và thực thi các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh
tế một cách có hiệu quả cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể của nền kinh tế quốc dân.

2.

Phân loại cơ cấu kinh tế
2.1. Cơ cấu ngành kinh tế
Trong bàI viết chú trọng nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành của nền kinh tế là tập hợp tất cả các ngành hình thành lên nền


kinh tế và các mối quan hệ tương đối ổn định giữa chúng.
Các chỉ tiêu đánh giá:
- Loại chỉ tiêu dịnh lượng thứ nhất:tỷ trọng các ngành so với tổng thể các
ngành của nền kinh tế.
- Chỉ tiêu định lượng thứ hai:Có thể mơ tả được phần nào mối quan hệ tác
động qua lại giữa các ngành kinh tế, đó là các hệ số trong bảng can đối liên ngành
(của hệ MPS) hay bảng Vào- Ra (I/O)(của hệ SNA).
Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung
của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thay đổi mạnh mẽ cơ
cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển. Khi phân tích cơ cấu ngành
của một quốc gia người ta thường phân tích theo 3 nhóm ngành (khu vực):
+ Nhóm ngành nơng nghiệp: bao gồm các ngành nơng, lâm, ngư nghiệp.
+ Nhóm ngành công nghiệp:bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng.
+ Nhóm ngành dịch vụ: bao gồm các ngành thương mại, bưu điện, du lịch...
Trong công nghiệp cần chú ý đến các hệ số liên hệ phía “thượng nguồn” và
các hệ số liên hệ phía “hạ nguồn”.

-7-


* Các ngành công nghiệp “thượng nguồn”:là những ngành công nghiệp tạo
nguyên liệu và sản phẩm trung gian, đòi hỏi vốn đầu tư cao và công nghệ cơ bản,
công nghệ cao.
* Các ngành công nghiệp “hạ nguồn”:là những ngành công nghiệp sản xuất ra
sản phẩm cuối cùng cho tiêu dùng, thường địi hỏi vốn đầu tư ít, sử dụng nhiều lao
động, có thể có quy mơ sản xuất vừa và nhỏ.
Những ngành công nghiệp thượng nguồn và hạ nguồn nêu trên có mối quan hệ
dọc rất chặt chẽ. Trong một chun ngành nhất định có thể có một hình thức tổ chức
khép kín từ cơng nghiệp thượng nguồn đến hạ nguồn của một quốc gia hay theo sự
phân công lao động quốc tế (theo thương mại hay hợp đồng gia công) giữa các quốc

gia.
2.2. Cơ cấu lãnh thổ
Nếu cơ cấu kinh tế hình thành từ sự phân cơng lao động xã hội và chun mơn
hố sản suất thì cơ cấu kinh tế lãnh thổ lại được hình thành chủ yếu từ việc bố trí
sản xuất theo khơng gian địa lý.
Cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu địa lý thực chất là hai mặt của một thể thống nhất và
đều là sự biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành
gắn liền với cơ cấu ngành và thống nhát trong vùng kinh tế. Trong cơ cấu lãnh thổ,
có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ.
Xu hướng phát triển kinh tế lãnh thổ thường là phát triển nhiều mặt, tổng hợp, có ưu
tiên một vài ngành và gắn liền sự hình thành phân bổ dân cư phù hựp với các đIều
kiện, tiềm năng phát triển kinh tế của lãnh thổ. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ
phải đảm bảo sự hình thành và phát triể có hiệu quả của các ngành kinh tế, các
thành phần kinh tế theo lãnh thổ và trên phạm vi cả nước, phù hợp với đặc đIểm tự
nhiên ngành kinh tế xã hội, phong tục tập quángành truyền thống của mỗi vùng,
nhằm khai thác triệt để thế mạnh của vùng đó.
2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế
Nếu như phân công lao động xã hội đã là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và cơ
cấu lãnh thổ, thì chế độ sở hữu là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Một
cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý pháI dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với

-8-


chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phats triển của lực lượng sản xuất, thúc đấy
phân công lao động xã hội...Theo nghĩa đó, cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một
nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một
biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loạI cơ cấu trong nền kinh tế.
Ba bộ phận cơ bản hợp thành cơ cấu kinh tế là cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ có quan hệ chặt chễ với nhau. Trong đó cơ cấu

ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ
có thể được chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi
cả nước. Mặt khác, việc phân bố không gian lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa
quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế trên lãnh thổ.
II.

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1.

Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Khái niệm: Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái

khác cho phù hợp với môi trường phát triển được coi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
* Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình chuyển cơ cấu ngành kinh tế từ
dạng này sang dạng khác phù hợp với trình độ phát triển của phân cơng lao động xã
hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất và các nhu cầu về kinh tế-xã hội của đất
nước.
Chuyển dịch cơ cấu đem tính khách quan thơng qua thơng qua những nhận
thức chủ quan của con người, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu đã hình thành các
khái niệm:
- Điều chỉnh cơ cấu:Đó là q trình chuyển dịch cơ cấu trên cơ sở thay đổi
một số mặt, một số u tố cơ cấu, làm cho nó thích ứng với điều kiện khách quan
từng thời kỳ không tạo ra sự thay đổi đột biến, tức thời.
- CảI tổ cơ cấu:Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu cơ cấu trên cơ sở thay đổi
một số mặt bản chất so với thực trạng cơ cấu ban đầu, nhanh chóng tạo ra sự đột
biến.


-9-


Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng ln thay đổi theo
từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành. Đó là sự thay đổi về số lượng các
ngành hoặc sự thay đổi tỷ lệ giữa các ngành do sự xuất hiện hoặc sự biến mất của
một số ngành và và sự tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành là không đồng đều.
Đây không chỉ đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà cịn là sự biến đổi cả về lượng và
chất trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ
cấu hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cảI tạo cơ cấu cũ lạc hậu
hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thhiện và bổ sung cơ cấu
cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.

2.

Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế luôn luôn biến đổi cùng với qúa trình phát triển của nền

kinh tế. Mỗi thời kỳ, với những điều kiện cụ thể các ngành kinh tế tăng trưởng với
tốc độ khác nhau dẫn đến cơ cấu ngành thay đổi. Các điều kiện này vừa có những
tác động tích cực vừa có tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần chủ động
chuyển dịch cơ cấu ngành phát huy những thuận lợi và hạn chế những khó khăn do
điều kiện hiện tại đặt ra để thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững là vấn đề
dặt ra đối với tất cả các quốc gia ở tất cả các giai đoạn phát triển.

3.

Những lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
3.1. Những yếu tố cơ bản có liên quan đến xu thế phát triển kinh tế của đất


nước
a. Quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel
Ngay từ đầu thế kỷ 19, nhà kinh tế học người Đức E.Engel đã nhận thấy rằng
khi thu nhập của gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực
phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nơng nghiệp là sản xuất lương
thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ tọng nơng nghiệp trong tồn bộ nền kinh tế
sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên.
Quy luật của E.Engel được phát hiện cho tiêu dùng lương thực, thực phẩm
nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu tiêu
dùng các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế học gọi lương thực, thực phẩm là các
sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền, và việc cung
- 10 -


cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua qúa trình nghiên cứu, họ phát hiện ra xu
hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền
tăng phù hợp với tăng thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu dùng cao cấp tăngnhanh hơn
tốc độ tăng thu nhập.
Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel đã làm rõ tính xu hướng của
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong qúa trình phát triển.
b. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher
Năm 1935, trong cuốn “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kỹ thuật”, A. Fisher
đã giới thiệu kháI niệm việc làm ở khu vực thứ nhất, thứ hai, thứ ba. A. Fisher quan
sát thấy rằng, các nước có thể phân theo tỷ lệ phân phối tổng lao động của từng
nước vào ba khu vực. Khu vực thứ nhất bao gồm sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp
và theo một số quan điểm còn bao gồm cả khai thác mỏ. Khu vực thứ hai bao gồm
công nghiệp chế biến và xây dựng. Khu vực thứ ba gồm có vận tải, thông tin,
thương nghiệp, dịch vụ nhà nước, dịch vụ tư nhân. Theo A.Fisher, tiến bộ kỹ thuật
đã có tác động đến sự phân bố lao động vào ba khu vực này. Trong qúa trình phát
triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo

điều kiện cho nông dân nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, để bảo đảm lượng
lương thực, thực phẩm cần thiết cho xã hội thì khơng cần đến lượng lao động như
cũ và do vậy, tỷ lệ của lực lượng lao động trong nông nghiệp giảm. Dựa vào số liệu
thống kê thu thập được, A. Fisher cho rằng tỷ lệ giảm này có thể giảm từ 80% đối
với các ngành chậm phát triển nhất xuóng 11-12 % ở các nước công nghiệp phát
triển và trong điều kiện đặc biệt có thể xuống tới 5%. Ngược lại, tỷ lệ lao động được
thu hút vào khu vực thứ hai và khu vực thứ ba ngày càng tăng do tính co giãn về
nhu cầu sản phẩm của hai khu vực này và khả năng hạn chế hơn của viẹc áp dụng
tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là đối với khu vực thứ ba.
c. Vai trò của khoa học vai trò nghệ trong thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
Khoa học và cơng nghệ có vai trị đặc biệt quan trọng trong qúa trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới đang
chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Sự phát triển của khoa
học và công nghệ không chỉ đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành mà cịn làm
phân cơng lao động xã hội trở nên sâu sắc và đưa đến sự phân chia các ngành thành
- 11 -


nhiều ngành nhỏ hơn, xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mới, từ đó làm
thay đổi cơ cấu, vị trí giữa các ngành, hay thúc đẩy các ngành chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng:
+ Các ngành sản xuất vật chất (nông nghiệp, công nghiệp)đều tăng lên về sản
lượng tuyệt đối, nhưng về tỷ trọng trong GDP so với các ngành sản xuất phi vật
chất (dịch vụ) lại giảm tương đối.
+ Cơ cấu kinh tế trong, nội bộ mỗi ngành cũng biến đổi theo hướng ngày càng
tăng mạnh quy mơ sản xuất ở các ngành có hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao.
d. Xu thế kinh tế thế giới
* Xu thế hồ bình hợp tác
Nhìn tổng qt, có thể dự báo xu thế hồ bình hợp tác phát triển trên thế giới
và khu vực tiếp tục gia tăng đi đôi với những cọ sát đấu tranh, cạnh tranh ngày càng

gay gắt, có thể có những bùng nổ khó lường. Các nước lớn, các trung tâm phát triển
lớn đang và sẽ giằng co, tranh giành ảnh hưởng, lấn át kinh tế đối với các nước
khác. Bên cạnh đó, trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất cũng
như kinh tế nói chung của thế giới đã tạo ra những cơ hội hợp tác, hội nhập để khai
thác các nguồn lực quốc tế phục vụ cho nhu cầu phát triển quốc gia. Mỗi nước với
trình độ phát triển khác nhau đều tìm thấy lợi thế của mình qua các quan hệ kinh tế
quốc tế và có thể tham gia opj tác phát triển dưói nhiều hình thức.
* Tác động của cách mạng khoa học và công nghệ
Trong thế kỷ XXI, với dự báo cách mạng khoa học và cơng nghệ sẽ có những
nhảy vọt khó lường, u cầu mới và cũng là khả năng mới trong điều kiện nhân loại
đang bứoc vào nền kinh tế tri thức. Trong điều kiện đó, cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước phải triển khai theo tư duy mới, phù hợp với giai đoạn mới. Việt Nam
có những lới thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và dồi dào về nguồn nhân lực,
nếu được phát huy sẽ là nhân tố tích cực để tiếp nhận khoa học và cơng nghệ gây
dựng năng lực nội sinh.
* Tồn cầu hố và khu vực hoá
Là xu thế khác quan ngày càng tác động mạnh, thậm chí chi phối phát triển
kinh tế của các nước. Trong bối cảnh đó, chúng ta cần thấy hết mặt tích cực, thuận
- 12 -


lợi, cả mặt tiêu cực, khó khăngành thách thức và có chiến lược thích ứng và lợi
dụng qúa trình này có hiệu quả nhất.
Dịng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) đến các nước đang phát triển: Từ
những năm đầu của thạp kỷ 90, tồn cầu hố và khu vực hố đã tạo điều kiện cho
các dịng vốn FDI đến với các nền kinh tế đang phát triển. Nguồn vốn này tăng liên
tục qua các năm, tuy có suy giảm do tác động của khủng hoảng kinh tế năm 97.
Dòng vốn hỗ trợ chính thức với các điều kiện ưu đãi (ODA) đến các nước
đang phát triển có xu hướng giảm dần.
Quốc tế hoá thương mại, vốn và sản xuất. Bốn mươi năm qua kim ngạch

thương mại hàng hoá của tồn thế giới đã tăng 6%/năm trong khi đó sản xuất hàng
hoá chỉ tăng 3,7%. Mức độ mở cửa của các nước tăng. Sau thương mại vốn đầu tư
cũng đã nhanh chóng được quốc tế hố. Cạnh tranh thương mại và thu hút đầu tư
trên thế giới diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
3.2. Các lý thuyết phát triển
Với tư các là loạI lý thuyết chủ yếu nghiên cứu các con đường hay các mơ
hình phát triển kinh tế của các nước chạm phát triển hiện đang nỗ lực tiến hành
công nghiệp hoá, các lý thuyết phát triển trực tiếp hoặc gián tiếp đều bàn tới một
trong những nội dung cơ bản nhất của cơng nghiệp hố là chuyển dịch cơ cấu
ngành. Song, do bản thân thế giới chậm phát triển bao gồm nhiều quốc gia với các
đặc đIểm đặc thù khác nhau, do xuất phát từ các quan điểm và các góc độ nghiên
cứu khác nhau nên cách giảI quyết vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành trong qúa trình
cơng nghiệp hoá của các loạI lý thuyết phát triển cũng rất khác nhau. Có thể thấy
đIều này qua một số lý thuyết phát triển chủ yếu sau.
a. Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế
Tư tưởng cơ bản của người chủ xưởng lý thuyết này Walt Rostow cho rằng,
qúa trình phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng đều trảI qua 5 giai đoạn
tuần tự như sau:
1/ Xã hội truyền thống: Với đặc trưng là nông nghiệp giữ vai trò thống trị
trong đời sống kinh tế, năng suất lao động thấp và xã hội kém linh hoạt.

- 13 -


2/ Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Với những thay đổi quan trọng là trong xã hội
đã xuất hiện tầng lớp chủ xí nghiệp có khả năng đổi mới, kết cấu hạ tầng sản xuất,
nhất là giao thông đã phát triển. Bắt đầu hình thành những khu vực đầu tầu có tác
động lơI kéo nền kinh tế phát triển.
3/ Giai đoạn cất cánh: với những dấu hiệu quan trọng như tỷ lệ đầu tư so với
thu nhập quốc dân đạt mức 10%, xuất hiện những ngành công nghiệp chế biến có

tốc độ tăng trưởng cao, có những chuyển biến mạnh mẽ trong thể chế xã hoọi, thuận
lợi cho sự phát triển của khu vực sản xuất hiện đai và kinh tế đối ngoại.
4/ Giai đoạn chuyển tới sự chín muồi kinh tế là giai đoạn mà tỷ lệ đầu tư trên
thu nhập quốc dân đạt mức cao(từ 10-20%) và xuất hiện nhiều cực tăng trưởng mới.
5/ Kỷ nguyên tiêu dùng hàng loạt:là giai đoạn kinh tế phát triển cao, sản xuất
đa dạng hố, thị trường linh hoạt và có hiện tượng suy giảm nhịp độ tăng trưởng.
Theo lý thuyết phân kỳ phát triển này hầu hết các nước đang phát triển đang
tiến hànhcơng nghiệp hố hiện nay nằm ở giai đoạn 2và 3, tuỳ theo mức độ phát
triển của từng nước. NgoàI những dấu hiệu kinh tế - xã hội khác, về mặt cơ cấu,phải
bắt đầu hình thành một số ngành cơng nghiệp chế biến có khả năng lơi kéo toàn bộ
nền kinh tế tăng trưởng. Đồng thời, cùng với sự chuyển tiếp từ giai đoạn 2 sang 3 là
sự thay đổi của những lĩnh vực đóng vai trị đầu tàu. Nghĩa là trong chính sách cơ
cấu cần xét đến trật tự ưu tiên phát triển những lĩnh vực có thể đảm trách vai trị đó
qua mỗi giai đoạn phát triển cụ thể.
Do tiếp cận vấn đề góc độ khái quát lịch sử của nhiều nước, lý thuyết phân kỳ
phát triển kinh tế khơng mơ tả sâu những khía cạnh đặc thù của từng nước hay từng
nhóm nước, song những nhận xét khái quát chung ấy có thể xem như những gợi ý
rất có ý nghĩa đối vấn đề chuyển dịch cơ cấu trong qúa trình cơng nghiệp hố của
từng nước đang phát triển hiện nay.
b. Lý thuyết nhị nguyên
Lý thuyết nhị nguyên do A. Lewis (giải thưởng Nobel năm 1979) khởi xướng,
tiếp cận vấn đề từ đời sống kinh tế của các nước đang phát triển. Ơng đã có những
kiến giải khá cụ thể về sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công
nghiệp háo hiện nay. Lý thuyết nhị nguyên cho rằng ở các nền kinh tế này có hai

- 14 -


khu vực kinh tế song song tồn tại: khu vực kinh tế truyền thống, chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp và khu vực kinh tế công nghiệp hiện đại, du nhập từ bên ngồi. Khu

vực truyền thống có đặc đIểm là trì trệ, năng suất lao động thấp và dư thừa lao
động. Vì thế, có thể chuyển một phần lao động từ khu vực này sang khu vực công
nghiệp hiện đạI mà không ảnh hưởng đến sản lượng nông nghiệp. Do có năng suất
cao nên khu vực cơng nghiệp hiện đạI có thể tự tích luỹ để mở rộng sản xuất một
cách độc lập mà không phụ thuộc vào những điều kiện chung của toàn bộ nền kinh
tế.
Kết luận đương nhiên rút ra từ những nhận định này là để thúc đẩy phát triển
kinh tế của những nước chậm phát triển, cần phải bằng mọi cách mở rộng khu vực
sản xuất công nghiệp hiện đại càng nhanh càng tốt mà không cần quan tâm tới khu
vực nông nghiệp truyền thống. Sự gia tăng của khu vực công nghiệp hiện đại tự nó
sẽ rút dần lao động từ khu vực nơng nghiệp sang và biến nền sản xuất nông nghiệp
xã hội từ trạng thaí nhị nguyên thành một nền kinh tế cơng nghiệp phát triển.
PhảI nói răng những kết luận của lý thuyết nhị nguyên đã gây được ấn tượng
mạnh mẽ đối với các quốc gia chậm phát triển đang mong muốn đẩy mạnh q trình
cơng nghiệp hố. Trên thực tế, chính sách cơng nghiệp hố và cơ cấu kinh tế ở
nhiều quốc gia chậm phát triển từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II đến thời gian
gần đây đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của lý thuyết này.
Lý thuyết kinh tế nhị nguyên còn được nhiều nhà kinh tế(J. Fei, G.Raní, Haris,
Todaro,...)tiếp tục nghiên cứu và phân tích. Luận đIểm phát triển của họ là khả năng
phát triểnvà thu nạp lao động của khu vực công nghiệp hiẹen đại. Khu vực này có
nhiều khả năng lựa chọn kỹ thuật, trong đó có những loạI kỹ thuật có hệ số sử dụng
lao động cao, nên về nguyên tắc, có thể thu hút được lao động dư thừa từ khu vực
nông nghiệp truyền thống. Nhưng việc di chuyển lao động được giả định là do sự
chênh lẹch về mức thu nhập của lao động từ hai khu vực kinh tế trên quyết định. Có
nghĩa là, khu vực cơng nghiệp hiện đại chỉ có thể thu hút lao động từ khu vực nơng
nghiệp trong trường hợp đang có nạn nhân mãn khi nó có mức lương cao hơn mức
thu nhập khi họ cịn ở nơng thơn. Nhưng khả năng duy trì sự chênh lệch này sẽ cạn
dần cho đến khi nguồn lao động dư thừa ở nơng thơn khơng cịn nữa. Đến lúc đó,
việc tiếp tục di chuyển lao động từ nơng nghiệp sang công nghiệp sẽ làm cho sản
lượng nông nghiệp giảm đi, khiến cho giá cả hành hố nơng phẩm tiêu dùng tăng

- 15 -


lên, kéo theo mức tăng lương tương ứng trong khu vực sản xt cơng nghiệp. Chính
sự tăng lương của khu vực sản xuất công nghiệp sẽđặt ra giới hạn về mức cầu tăng
thêm về lao động của bản thân nó. Như vậy mặc dù về mặt kỹ thuật- công nghệ khu
vực cơng nghiệp hiện đại có thể có khả năng thu dụng không hạn chế nhân lực,
nhưng về mặt thu nhập và độ co dãn cung cầu nhân lực của hai khu vực thì sức thu
nạp lao động từ khu vực nơng nghiệp của cơng nghiệp là có hạn.
Một hướng phát triển khác dựa trên lý thuyết nhị nguyên là phân tích khả năng
di chuyển lao động từ nơng thơn ra khu vực cơng nghiệp- thành thị. Q trình dịch
chuyển lao động chỉ trôi chảy khi “ tổng cung” về lao động từ nông nghiệp phù hợp
với “tổng cầu” ở khu vực công nghiệp. Sự di chuyển này không chỉ phụ thuộc vào
sự chênh lệch thu nhập mà còn phụ thuộc vào sác xuất tìm được việc làm đối với
những người lao động nông nghiệp. Khi đưa thêm yếu tố “ sác xuất tìm được việc
làm” vào phân tích, người ta thấy xuất hiện các tình huống làm yếu đi khả năng di
chuyển lao động giữa hai khu vực như sau:
- Sự năng động của bản thân khu vực công nghiệp:Về mặt này, so với nền
công nghiệp ở các nước phát triển, khu vực gọi là ” công nghiệp hiện đạ “ ở các
nước chậm phát triển yếu kém hơn rất nhiều. Vì vậy, để vừa có khả năng cạnh tranh
với nền cơng nghiệp nước ngồi khác, vừa làm đầu tàu lơi kéo sự tăng trưởng của
tồn bộ nền kinh tế thì khu vực cơng nghiệp phảI hướng tới những ngành kỹ thuật
cao. Nhưng những ngành này cần tăng hàm lượng vốn đầu tư hơn là tăng hàm
lượng lao động. Vì thế, khu vực “cơng nghiệp hiện đạI” ở các nước chậm phát triển
cũng có nguy cơ gặp phải vấn đề dư thừa lao động chứ khơng riêng gì khu vực nông
nghiệp.
- Khả năng đáp ứng nhu cầu về kỹ thuật của người lao động nông nghiệp khi
chuyển sang lĩnh vực công nghiệp. Về mặt này, một thực tế là lao động nơng thơn
có trình độ học vấn thấp hơn nhiều so với lao động thành thị, thậm chí chưa quen
với môi trường lao động công nghiệp. Việc đào tạo lao động cơng nghiệp kỹ năng

cao chẳng những địi hỏi nhiều thời gian mà phải có đầu tư lớn, đến mức người ta
xem như một trong những lĩnh vực đầu tư quan trọng nhất đối với một nền kinh tế.
Với những phân tích trên, người ta thấy rằng xác suất tìm được việc làm mới ở khu
vực cơng nghiệp đối với người nơng dân rời bỏ ruộng đồng là có giới hạn.

- 16 -


Tóm lại, khi phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hai lĩnh vực sản xuất
vật chất quan trọng nhất của các nền kinh tế chậm phát triển trong thời kỳ cơng
nghiệp hố, các lý thuyết nhị ngun đã đi từ chỗ cho rằng chỉ cần tập trung vào
phát triển công nghiệp mà không chú ý tới nông nghiệp đến chỗ chỉ ra những giới
hạn của chúng và vì thế, cần quan tâm thích đáng tới nơng nghiệp trong qúa trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế này
c. Lý thuyết phát triển cân đối liên ngành
Những người ủng hộ quan điểm này như R. Nurkse, P.Rosenstein-Rodan...,
cho rằng để nhanh chóng cơng nghiệp hố, cần thúc đẩy phát triển đồng đều ở tất cả
mọi ngành kinh tế quốc dân. Họ chủ yếu dựa trên những luận cứ sau:
- Trong qúa trình phát triển, tất cả các ngành kinh tế liên quan mật thiết với
nhau trong chhu trình “đầu ra” của ngành này là “đầu vào” của ngành kia. Vì thế sự
phát triển đồng đều và cân đối chính là địi hỏi sự cân bằng cung cầu trong sản xuất.
- Sự phát triển cân đối giữa các ngành như vạy giúp tránh được ảnh hưởng tiêu
cực của những biến động của thị trường thế giới và hạn chế mức độ phụ thuộc vào
các nền kinh tế khác, tiết kiệm nguồn ngoại tệ vốn rất khan hiếm và thiếu hụt.
- Một nền kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối hoàn chỉnh như vậy chính là nền
tảng vững chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nước thuộc thế giới thứ ba
chống lại chủ nghĩa thực dân.
Lý cuốicùng tỏ ra rất hấp dẫn đối với nhiều quốc gia chậm phát triển mới
giành được độc lập về chính trị những năm sau Đại chiến thế giới lần thứ hai. Vì
thế, mơ hình phát triển theo cơ cấu cân đối khép kín-mơ hình cơng nghiệp hố

“hướng nội” hay thay thế “nhập khẩu” đã trở thành trào lưu phổ biến thời kỳ đó.
Tuy nhiên, thực tế đã dần dần cho thấy những yếu đIểm rất lớn của mơ hình
lý thuyết này. ở đây có hai vấn đề cần đặc biệt cần được xem xét là:
- Thứ nhất, việc phát triển một cơ cấu kinh tế cân đối, hoàn chỉnh đã đưa nền
kinh tế đến chỗ khép kín và khu biệt với thế giới bên ngoài. Điều này chẳng những
ngược với xu hướng chung của tất thảy mọi nền kinh tế trong điều kiện hiện đại là
khu vực háo và tồn cầu hố, mà trong lúc ngăn ngừa những ứac động tieu cực cua
thị trường thế giới, đã bỏ qua những ảnh hưởng tích cực do bên ngoài đem lại.
- 17 -


- Thứ hai, các nền kinh tế chậm phát triển khơng đủ khả năng về nhân tài, vật
lực để có thể thực hiện được những mục tiêu cơ cấu đặt ra ban đầu.
Cả hai yếu tố này đều góp phần làm cho sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo
hướng công nghiệp hố gặp khó khăn, bởi lẽ cách tiếp cận trên đã làm phân tán các
nguồn lực phát triển rất có hạn của các quốc gia, khiến cho ngay cả việc sửa chữa
lại di sản cơ cấu kinh tế què quặt của thời kỳ thuộc địa cũ cũng bị trở ngại. Chính vì
thế, chỉ sau một thời kỳ tăng trưởng, các nền kinh tế theo đuổi mơ hình cơ cấu cân
đối này đã nhanh chóng rơi vào tình trạng thiểu năng.
d. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành cân đối hay các “cực tăng trưởng”
Ngược lại với quan điểm phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu cân đối khép
kín nêu trên, lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối (A.Hirschman,
F.Perrons, G.Destanne de Bernis...)cho rằng không thể và không nhất thiết phải
đảm bảo tăng trưởng bền vững cách duy trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với mọi
quốc gia, với những luận cứ chủ yếu sau:
- Việc phát triển cơ cấu không cân đối gây lên áp lực, tạo ra sự kích thích đầu
tư. Trong mối tương quan giữa các ngành, nếu cung bằng cầu thì sẽ triệt tiêu động
lực khuyến khích đầu tư nâng cao năng lực sản xuất. Do đó, nếu có những dự án
đầu tư lớn hơn vào một số lĩnh vực thì thì áp lực đầu tư sẽ xuất hiện bởi cầu lớn hơn
cung lúc đầu và sau đó thì cung lớn hơn cầu ở một số lĩnh vực. Chính những dự án

đó có tác dụng lơi kéo đầu tư theo kiểu lý thuyết số nhân.
- Trong mỗi giai đoạn phát triển của thời kỳ cơng nghiệp hố, vai trị “cực tăng
trưởng” của các ngành trong nền kinh tế là không giống nhau. Vì thế, cần tập trung
những nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực trong một thời điểm nhất định.
- Do trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá, các nước đang phát triển rất
thiếu vốn, lao động kỹ thuật, công nghệ và thị trường nên không đủ điều kiện để
cùng một lúc phát triển đồng bộ tất cả các ngành hiện đại. Vì thế, việc phát triển cơ
cấu không cân đối là một sự lựa chộn bắt buộc.
Lúc đầu lý thuyết này tỏ ra không hấp dẫn lắm vì dường như nó bỏ qua những
lỗ lực xây dựng một nền kinh tế độc lập có cơ cấu ngành cân đối để chống lạI chỉ
nghĩa thực dân. Mặt khác, đằng sau cách dặt vấn đề xây dựng một cơ cấu không cân

- 18 -


đối và mở cửa ra bên ngoài là chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh
tế-mà thường thì các nền kinh tế chậm phát triển gặp phải nhiều bất lợi hơn. Song,
do những hạn chế ngày càng trở nên rõ ràng của ý tưởng thực hiện mô hình cơng
nghiệp hố hướng nội có cơ cấu ngành cân đối hồn chỉnh và những thành cơng
“thần kỳ” của một số nước đi tiên phong, điển hình là nhóm NICs Đông á,lý thuyết
phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay các cực tăng trưởng ngày càng được thừa
nhận rộng rãi. Trên thực tế, mơ hình cơng nghiệp mở cửa, hướng ngoại đã trở thành
một xu hướng chính yếu ở các nước chậm phát triển từ thập niên 1980 trở lại đây.
e. Lý thuyết phát triển theo mơ hình “đàn nhạn bay”
Từ sự phân tích thực tế lịch sử phát triển kinh tế của các quốc gia và dựa trên
lý thuyết lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế, người khởi xướng lý thuyết
này, giáo sư Kaname Akamatsu đã đưa ra những kiến giảivề quá trình “đuổi kịp”
các nước tiên tiến nhất của các nước kém phát triển hơn. Trong những ý tưởng về
sự “đuổi kịp” này, vấn đề cơ cấu ngành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Xét trên góc
độ phát triển của tồn bộ nền cơng nghiệp, từng phân ngành hay thậm chí từng lọai

sản phẩm riêng biệt, qúa trình “đuổi kịp”về mặt kinh tế và kỹ thuật của chúng được
chia thành 4 giai đoạn sau:
Giai đoạn1:Các nước kém phát triển nhập hàng công nghiệp chế biến từ các
nước phát triển hơn và xuất khẩu một số sản phẩm thủ công đặc biệt.Giai doạn này
xảy ra sự phân biệt hay phân công lao động quốc tế ngay trong lòng các nước kém
phát triển-chuyên sản xuất một số sản phẩm thủ công đặc biệt để bán và nhập khẩu
hàng tiêu dùng công nghiệp khác từ các nước công nghiệp phát triển.
Giai đoạn 2:Các nước chậm phát triển nhập sản phẩm đầu tư từ các nước cơng
nghiệp phát triển để tự chế tạo lấy hàng hố công nghiệp tiêu dùng trước đây vẫn
phảI nhập. Đây là giai đoạn các nước kém phát triển bắt đầu tích luỹ tư bản (vốn) và
phỏng theo (bắt chước) công nghệ chế tạo từ các nước cơng nghiệp phát triển.
Ngồi việc nâng cấp và mở rộng một số ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu, nhìn tồn cục giai đoạn 2 mang dáng dấp của mơ hình cơng nghiệp hố “thay
thế nhập khẩu” đối với nhiều ngành sản xuất công nghiệp hàng tiêu dùng.Vì thế,
những ngành cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu phát triển
mạnh trong giai đoạn này. Song, những điều chỉnh cơ cấu kinh tế vĩ mô lại được

- 19 -


giành ưu tiên cho các ngành công nghiệp trợ giúp (kết cấu hạ tầng kinh tế)cho
những công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển như điện, nước và giao thông
vận tải.
Giai đoạn 3:là giai đoạn mà những sản phẩm cơng nghiệp thay thế nhập ở giai
đoạn 2 đã có thể trở thành sản phẩm xuất khẩu. Những sản phẩm đầu tư trước đây
phải nhập giờ đây đã có thể dần dần thay thế bằng nguồn khai thác và sản xuất ở
trong nước. Như vậy, khoảng cách kỹ thuật giữa các nước đi sau các nước công
nghiệp phát triển (trước hết là trong lĩnh vực chế tạo hàng tiêu dùng) khơng cịn xa
cách bao nhiêu. Vì vậy mà số lượng và quy mô mặt hàng xuất khẩu ngày càng mở
rộng. Cơ cấu công nghiệp đã trở nên đa dạng hơn cho chỗ có nhiều khả năng hơn về

kỹ thuật đế lựa chọn và lợi dụng các lợi thế so sánh so với trước đây.
Giai đoạn 4: Là giai đoạn việc xuất khẩu hàng công nghiệp tiêu dùng bắt đầu
giảm xuống, nhường chỗ cho việc xuất khẩu các loại hàng hoá đầu tư vốn đã bắt
đầu phát triển ở giai đoạn 3. Về mặt kỹ thuật, nền công nghiệp đã đạt mức ngang
bằng với các nước kém phát triển hơn.
Mơ hình “đàn nhạn bay” vẫn tiếp tục diễn ra theo phương thức này, mặc dù có
sử dụng sự thay đổi vị trí một số quốc gia nhất định.
Như vậy với việc phân chia qúa trình cơng nghiệp hố của các nước “đi
sau”thành 4 giai đoạn trong mối liên quan với nền kinh tế khác theo mơ hình “đàn
nhạn bay”, quan điểm chuyển dịch cơ cấu ngành của lý thuyết phát triển này có
nhiều điểm tương đồng với lý thuyết phát triển cơ cấu ngành “không cân đối” hay
các “cực tăng trưởng”. Cũng giống như trong lý thuyết phát triển “không cân đối”,
các “cực tăng trưởng” ở đây cũng thay đổi theo từng giai đoạn và nhân tố có ý nghĩa
quyết định sự thay đổi này là lợi thế so sánh trong quan hệ ngoại thương. Ngoài ra,
điều cần lưu ý nữa là việc “đuổi kịp” các nước công nghiệp phát triển diễn ra nhanh
hay chậm một phần rất lớn phụ thuộc vào việc lựa chọn các “cực tăng trưởng” trong
mỗi giai đoạn nhất định.
Mỗi loại lý thuyết trên đây đều có những mặt mạnh không thể chối cãi, song
cũng luôn tỏ ra khơng phải có thể áp dụng thành cơng ở mọi nơi mọi lúc. Tuy nhiên,
có thể tổng hợp lại thành những điều mà đã đề cập đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu
ngành trong qúa trình phát triển (hay cơng nghiệp hố) như sau:
- 20 -


1-Các lý thuyết phát triển đều quan tâm việc xác định các tiền đề cần thiết của
qúa trình cơng nghiệp hố.
2-Chúng khơng những chỉ coi chuyển dịch cơ cấu cơ cấu là một trong những
chỉ tiêu quan trọng của sự phát triển trong thời kỳ cơng nghiệp hố mà cịn chỉ ra
nội dung cụ thể của nó là tăng tỷ trọng của công nghiệp giảm tỷ trọng nông nghiệp
trong GDP, dân số thành thị lớn hơn dân số nông thôn. Cách xác định nội dung

chuyển dịch cơ cấu như vậy cho phép một mặt đánh giá mức độ thành công của
cơng nghiệp hố của một quốc gia; mặt khác, tìm hiểu những nguyen nhân quy định
tình trạng thốI triển hay khơng sao bắt kịp được vào qúa trình cơng nghiệp hoá đã
xảy ra ở một số nước trên thế giới.
3-Đánh giá sự thành bại của các nước đang công nghiệp hố, lý thuyết phát
triển đã khẳng định rằng có những nguyên nhân thuộc về cơ cấu. Người ta nhận
thấy rằng trong những nước khơng thành cơng, cơ cấu có tình trạng khơng liên kết
bên trong. G.Grellet nhận xét “ Tình trạng không liên kết bên trong ấy thê hiện một
ma trận về giao lưu liên ngành công nghiệp và một ma trận về giao lưu liên vùng
hầu như hoàn toàn trống rỗng”.
Như vậy, “kinh tế học của sự phát triển”đã đặt vấn đề cơ cấu và một trong
những vị trí cơ bản trong lý thuyết của mình để xem xét, đánh giá và phân loại các
dạng thức phát triển và thoái triển ở các nước thuộc thế giới thứ ba. Việc đề cao vấn
đề cơ cấu được xem là một trong những thành công trong lý thuyết phát triển kinh
tế hiện đại. Bởi nó khắc phục được sự phiến diện trong nhìn nhận vấn đề kinh tế của
các nước chậm phát triển khi chỉ xoay quanh chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế -tức là
mức độ tăng lên củ GNP và GNP đầu người.
Việc quan tâm đến vấn đề cơ cấu kinh tế thơng qua việc chỉ ra tính chất
“khơng liên kết bên trong” ở một số nền kinh tế chậm phát triển nào đó mang hàm ý
về một giải pháp mang tính nguyên tắc:phải xây dựng một cơ cấu kinh tế có sự liên
kết, thúc đẩy, lơi kéo lẫn nhau trong qúa trình phát triển. Một cơ cấu như vậy vừ là
điều kiện cho sự phát triển hay công nghiệp hoá, đồng thời lại vừa là kết quả, là một
chỉ số để xem xét mức độ thành công của công nghiệp hoá và phát triển.
4- Kinh tế học phát triển cho rằng hình thức chuyển dịch cơ cấu ngành của các
nước chậm phát triển trong thời kỳ cơng nghiệp hố diễn ra rất đa dạng. Việc
- 21 -


nghiên cứu trắc nghiệm kết hợp với so sánh lý thuyết đã cho phép mô tả một bức
tranh nhiều mầu sắc về về qúa trình chuyển dịch cơ cấu của các nước chậm phát

triển thuộc các khu vực khác nhau. Chính vì vậy, ngày càng có nhiều người cho
rằng khơng có một khn mẫu chung duy nhất nào có thể áp dụng thành công cho
mọ quốc gia. Việc công nghiệp hố bắt đầu từ đâu:cơng nghiệp, nơng nghiệp hay
dịch vụ vẫn đang còn là vấn đề tranh cãi.
5- Việc thừa nhận tính đa dạng của các hình thức chuyển dịch cơ cấu trong
qúa trình cơng nghiệp hố của các nước đang phát triển hiện đang để lại một khoảng
trống mà người ta cho rằng sứ mệnh đặc biệt trong việc giải quyết vấn đề đó trao
vào tay các chính phủ. Trong các lý thuyết kinh tế, vai trò can thiệp của nhà nước
được xem là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế.
Khái niệm về mức độ “hợp lý”trong cơ cấu ngành kinh tế giữa các quốc gia là
một kháI niệm có tính co giãn lớn, phụ thuộc trước hết vào những đặc đIểm đặc thù
của mỗi quốc gia như cư dân, cơ cấu và trình độ kinh tế kỹ thuật hiện có, tài nguyên
thiên nhiên, văn hoá và các mối quan hệ kinh tế quốc tế v.v...Rõ ràng là cần có sự
giải thích cụ thể hơn trong mỗi trường hợp cụ thể cũng như những ngành cụ thể.
6- Để có cơ cấu ngành hợp lý, các chính phủ phải đánh giá được các nguồn lực
bên trong, đồng thời phải được với các nguồn lực bên ngồI trong điều kiện quốc tế
hố đời sống kinh tế thế giới. Về điểm này, “Kinh tế học phát triển” cho rằng đối
với một số quốc gia dân số ít, nhỏ bé, chính điều kiện bên ngồi mới là yếu tố quyết
định cơ cấu ngành của họ.
3.3. Lý thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm
Lý thuyết “chu kỳ sống sản phẩm”, xét trong khuôn khổ một hệ thống kinh tế
mở, (tức là trong đó, ngoại thương là một yếu tố được giả định), cho rằng sự tồn tại
về mặt kinh tế của một sản phẩm (hay một ngành, cũng như vạy) trải qua 5 thời kỳ.
Thời kỳ thứ nhất là du nhập sản phẩm.Đây là giai đoạn sản phẩm mới sản xuất trên
thị trường nội địa. Sự xuất hịên này có thể du nhập sản phẩm mới từ nước ngồI, có
thể là phát minh nhưng điều quan trọng là sự xuất hiện này một mật giả định có tồn
tại sẵn cơng nghệ và kỹ thuật chế tạo nó, mặt khác tạo ra nhu cầu về nó.

- 22 -



Thời kỳ thứ hai, thay thế nhập khẩu là giai đoạn tiếp theo, khi nhu cầu về sản
phẩm mới đã tăng mạnh trên thị trường trong nước. Bắt đầu qúa trình triển khai
cơng nghệ và kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong nước để thay thế hàng nhập khẩu.
Thời kỳ thứ ba, bành trướng xuất khẩu, trong thời kỳ này, nhu cầu nội địa với
sản phẩm được đáp ứng về căn bản, đồng thời, kỹ thuật-công nghệ sản xuất sản
phẩm được cải tiến và hoàn thiện. Sản phẩm được xuất khẩu ra nước ngoài, cạnh
tranh trên thị trường quốc tế với khơí lượng ngày càng tăng.
Thời kỳ thứ tư là thời kỳ mà cả nhu cầu nội địa lẫn nhu cầu xuất khẩu đối với
sản phẩm dều giảm xuống chậm. Điều đó cản trở việc mở rộng sản xuất hơn nữa.
Bắt đầu xuất hiện dấu hiệu giảm sút năng lực cạnh tranh so với những nước xuất
phát muộn hơn.
Thời kỳ thứ năm, nhập khẩu đảo đây là thời kỳ cuối cùng trong chu kỳ sản
phẩm nội dung của thời kỳ này là sản xuất trong nước bắt đầu đối mặt với cạnh
tranh từ nước ngoài như là hệ quả tất nhiên của qúa trình bành trướng xuất khẩu sản
phẩm (đối với nước ngoài là du nhập sản phẩm, sản xuất thay thế nhập khẩu và bắt
dầu xuất khẩu). Cuộc cạnh tranh này tạo ra một số bất lợi thế cho qúa trình sản xuất
trong nước.Đó là bất lợi thế về thị trường về chi phí sản xuất. Việc tiếp tục sản xuất
sản phẩm (mở rộng cơng suất hay duy trì mức cũ, thậm chí thu hẹp) trở nên kém
hiệu quả. Trong một quãng thời gian dài, sự lựa chọn không thể tránh khỏi là
chuyển sang một loại sản phẩm mới khác. Để bảo đảm hiệu qua và ưu thế cạnh
tranh, đất nước phảI thực hiện bước chuyển đó và vì thế không thể không nhập khẩu
trở lại loại sản phẩm trước đây nó đã từng xuất khẩu.
Năm giai đoạn trên hình thành nên chu kỳ sống của sản phẩm. Nó xác định
tính chất yếu về kinh tế và kỹ thuật cho sự tồn tại của một ngành, một sản phẩm.
Đây chính là khn khổ lý thuyết tổng qt về qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trên phạm vi thế giới. Trong phạm vi một nước đIều này cũng đúng khi xét trong
quan hệ giữa các ngành và công ty. Khi quan sát qúa trình này, người ta thấy qúa
trình di chuyển cơ cấu là liên tục và mang tính khách quan. Khái niệm liên tục ở đây
hàm nghĩa một sự dượt đuổi thật sự về sản phẩm và công nghệ-kỹ thuật giữa các

nước. Trong cuộc dượt đuổi này xuất hiện hai khả năng cho những nước đi sau. Đó

- 23 -


là:Thứ nhất, rút ngắn khoảng thời gian của mỗi thời kỳ trong tồn bộ chu kỳ. Thứ
hai, có thể bỏ qua nhiều loại sản phẩm để chuyển nhanh sang loại sản phẩm mới.
3.4. Các mơ hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới
a. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mơ hình hướng nội
Với mục tiêu là phát huy tính chủ động của chính phủ trong quản lý kinh tế,
bảo đảm và duy trì sự phát triển của các ngành sản xuất truyền thống của dân tộc,
nhiều nước trên thế giới đã thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu cơ cấu kinh tế
theo mơ hình hướng nội.
Mơ hình hướng nội là chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế có xu hướng
hướng nội, có chiến lược đóng cửa nhiều hơn. Nó khuyến khích theo hướng sản
xuất cho thị trường trong nước, nhấn mạnh việc thay thế nhập khẩu, tự túc về lương
thực, có thể cả các mặt hàng phi mậu dịch.
Ban đầu chính phủ các nước đang phát triển nhiều khi cũng lựa chọn các chính
sách chuyển dịch cơ cấu nhằm thúc đảy tự lực quốc gia, đặc biệt là tăng cường sản
xuất lương thực, các nông sản và khống sản mà chúng khơng được nhập khẩu. Các
biểu thuế nhập khẩu hoặc quota nhập khẩu lương thực được thực hiện, đồng thời
chính phủ cũng đánh thuế vào hàng hoá xuất khẩu nhằm nâng cao nguồn thu, và
làm giảm sức thu hút của nền nm định hướng xuất khẩu tương đối so với nền nơng
nghiệp hướng nội.
Các chính sách trên sẽ đem tới sự mở rộng cho các ngành cơng nghiệp nhỏ với
sự trợ cấp thích hợp và dần dần khuyến khích nền cơng nghiệp hố thay thế nhập
khẩu. Bên cạnh chính sách bảo hộ chhung, họ cịn có thể thực hiện sự hỗ trợ có lựa
chọn cho nền cơng nghiệp hố thay thế nhập khẩu có tên là nền cơng nghiệp non
trẻ.
Chiến lược đóng cửa là thực hiện cơng nghiệp hố theo hướng thay thế nhập

khẩu núp đằng sau bức tường bảo hộ mậu dịch. Do vậy ít tạo ra sức ép về cạnh
tranh hơn, làm cho cơ cấu ít nhạy bén hơn, đơng cứng hơn Ngồi ra chiến lược dựa
trên cơ sở bảo hộ mậu dịch và thay thế nhập khẩu có xu hướng kèm theo sự hối lộ
và độc đốn, gây trì trệ cho q trình phát triển, ảnh hưởng khơng nhỏ đến tăng
trưởng.

- 24 -


b. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mơ hình hướng ngoại
Mơ hình hướng ngoại là mơ hình với chính sách chuyển dịch cơ cấu đưa nền
kinh tế phát triển theo hướng mở cửa nhiều hơn, có thể thúc đẩy thương mại và các
luồng tư bản đổ vào, khuyến khích lợi nhuận giữa việc sản xuất cho thị trường trong
nước hay thị trường ngoài nước, tạo ra khả năng sinh lãi cao hơn trong việc sản xuất
hàng hố xuất khẩu.
Có hai loại hình chiến lược kinh tế mở cửa đó là:
Thứ nhất, tạo các khuyến khích về giá cả một cách tực theo hướng có lợi cho
xuất khẩu (chẳng hạn thông qua trợ cấp xuất khẩu).
Thứ hai, tạo ra sự trung lập thích hợp về giá cả giữa sản xuất trong nước và thị
trường nước ngoài. Tức là chuyển các khuyến khích theo hướng có lợi cho sự mở
cửa.
Đặc đIểm của các chính sách hướng ngoại ban đầu ở nhiều nước đang phát
triển là hướng vào xuất khẩu vừa phải để tăng nguồn thu cho chính phủ, nhằm nâng
cao cơ sở hạ tầng để hàng hoá hỗ trợ cho xuất khẩu. Mơ hìn này được thực hiện với
các chính sách thương mại thiên về ủng hộ sự thay thế nhập khẩu, tạo ra một biểu
thuế nhập khẩu đem lại nguồn thu thích hợp mà khơng cần tới sự bảo hộ mạnh mẽ.
Sau khi hoàn thành những giai đoạn ban đầu của việc thay thế nhập khẩu, các
nước đang phát triển thường chuyển sang các chính sách hướng ngoại đối với các
ngành chế tạo máy. Cách tốt nhất là quan tâm đến việc cung cấp các đầu vào cho
nhà xuất khẩu trong khi cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng đầy đủ. Tài quản lý của chính

phủ ở đây là sự lựa chọn sáng suốt sự thay thế nhập khẩu có hiệu quả và đẩy mạnh
xuất khẩu. Xây dựng một chính sách thương mại quốc tế cho phù hợp với nền kinh
tế đang phát triển, nhằm phục vụ tốt nhất các mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội củ
mỗi quốc gia.
Chuyển dịch cơ cấu theo mơ hình hướng ngoại rất có ý nghĩa đối với thuế
quan và các hình thức khác của chính sách bảo hộ mậu dịch, chính sách tỷ giá hối
đối và quản lý vĩ mơ trong nước. Vấn đề mở cửa có liên quan đến nhập khẩu và
xuất khẩu hoặc tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán. Việc quyết định hướng
ngoại cho dù ở mức độ nào thì cũng có nhiều tác động quan trọng đến các mặt của

- 25 -


×