Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm giấy của công ty cổ phần sản xuất và thương mại P.P

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.87 KB, 66 trang )

Mục lục
Lời nói đầu ....................................................................................................3
Chương I: Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu giấy ở Việt
Nam: ..................................................................................................................5
1.1. Tầm quan trọng của xuất khẩu giấy ở Việt Nam: ..............................5
1.1.1. Khái niệm và các phương thức xuất khẩu hàng hóa ............................5
1.1.2. Vai trò của xuất khẩu giấy của Việt Nam ..........................................10
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu giấy của Việt Nam ........13
1.2.1. Những nhân tố thuộc ngành giấy Việt Nam: .....................................13
1.2.2. Những nhân tố ngoài ngành giấy Việt Nam: .....................................19
1.3. Thực trạng xuất khẩu của ngành giấy Việt Nam .............................23
Chương II: Thực trạng xuất khẩu sản phẩm giấy của công
ty cổ phần sản xuất và thương mại P.P: ......................................30
2.1. Đặc điểm của công ty cổ phần sản xuất và thương mại P.P: .........30
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty ..................................30
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của công ty .......................30
2.1.3. Đặc điểm các nguồn lực của công ty .................................................35
2.1.4. Kết quả SXKD của công ty những năm qua .....................................36
2.2. Phân tích thực trạng xuất khẩu sản phẩm giấy của công ty cổ phần
sản xuất và thương mại P.P: .........................................................................48
2.2.1. Phân tích thực trạng kết quả xuất khẩu sản phẩm giấy của công ty...48
2.2.2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu sản phẩm giấy của công ty .............53
2.2.3. Phân tích hiệu quả xuất khẩu sản phẩm giấy của công ty ..................54
1
2.3. Đánh giá thực trạng xuất khẩu sản phẩm giấy của công ty cổ phần
sản xuất và thương mại P.P:..........................................................................58
2.3.1. Những thành tựu đã đạt được: ...........................................................58
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân: ........................................................59
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên: .................................................60
Chương III: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất
khẩu sản phẩm giấy của công ty cổ phần sản xuất và


thương mại P.P:..........................................................................................63
3.1. Phương hướng hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần P.P:...63
3.2. Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm giấy của công ty cổ phần
sản xuất và thương mại P.P:..........................................................................64
3.2.1. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động: ................................................64
3.2.2. Biện pháp tăng cường nghiên cứu thị trường xuất khẩu:...........................66
3.2.3. Đẩy mạnh công tác phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu:..............67
3.2.4. Đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu:.......................................................68
3.2.5. Nâng cao trình độ nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu cho đội ngũ cán bộ
quản lý và các nhân viên trong toàn công ty: ......................................................68
3.2.6. Xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm giấy của công ty trên thị
trường quốc tế: ....................................................................................................69
Kết luận ..........................................................................................................71
Danh mục tài liệu tham khảo ..............................................................................73
2
Lời nói đầu
Ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là đặc trưng và xu
hướng phát triển phổ biến của nền kinh tế thế giới, bất luận đó là nền kinh tế có
quy mô và trình độ phát triển ra sao và thuộc chế độ chình trị - xã hội thế nào.
Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế phát triển chung đó. Trong những năm
gần đây, số lượng các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào hoạt động xuất nhập
khẩu ngày càng tăng với rất nhiều các loại mặt hàng khác nhau như thủy sản, dệt
may, giầy dép, mây tre đan, giấy vở…
Xuất khẩu là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân, có vai trò
trọng yếu đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy thúc đẩy sự phát triển
và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng hóa là đòi hỏi cần thiết trong
điều kiện hội nhập hiện nay.
Hiện nay, ngành giấy đang là một ngành có nhiều cơ hội cùng với các ưu đãi
của Nhà nước để phát triển. Đặc biệt, sau khi một loạt các nhà máy gia công giấy
vở của Trung Quốc khi cung cấp vào thị trường Mỹ bị áp thuế chống bán phá

giá, những công ty bán lẻ tại Mỹ đã đổ xô đến thị trường Việt Nam để tìm đối tác
cho ngành hàng này. Đây là một cơ hội tốt cho toàn bộ ngành công nghiệp giấy
vở Việt Nam được thể hiện và khẳng định chất lượng sản phẩm của mình trên thị
trường quốc tế. Tuy nhiên, trên con đường phát triển, ngành giấy nước ta vẫn
còn vấp phải rất nhiều những khó khăn như thiếu vốn, trang thiết bị chưa đồng
bộ, trình độ công nghệ hiện đang ở mức dưới trung bình của thế giới, trình độ
quản lý còn yếu kém…
Công ty cổ phần sản xuất và thương mại P.P là một danh nghiệp chuyên nhập
khẩu, kinh doanh các nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành giấy và công ty còn
mở rộng sản xuất và gia công các mặt hàng giấy vở xuất khẩu. Hoạt động xuất
khẩu của công ty tuy còn mới mẻ nhưng đã đạt được những thành tựu nhất định.
3
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những khó khăn và hạn chế. Vì vậy trong quá
trình thực tập ở công ty tôi đã quyết định chọn đề tài “Thúc đẩy xuất khẩu sản
phẩm giấy của công ty cổ phần sản xuất và thương mại P.P” làm chuyên đề
thực tập tốt nghiệp. Mục đích của đề tài là đánh giá thực trạng của hoạt động
xuất khẩu giấy của công ty cổ phần P.P, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp thúc
đẩy sản phẩm giấy của công ty.
Qua một thời gian ngắn thực tập tại công ty cổ phần sản xuất và thương mại
P.P, với sự giúp đỡ và hướng dẫn của GS.TS Hoàng Đức Thân và các cán bộ,
nhân viên công ty tôi đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. Tôi xin
chân thành cảm ơn GS.TS Hoàng Đức Thân và công ty cổ phần sản xuất và
thương mại P.P đã tận tình hướng dẫn và cung cấp những tài liệu quý báu giúp
tôi hoàn thành chuyên đề này.
Chương I: Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu giấy ở Việt
Nam
1.1. Tầm quan trọng của xuất khẩu giấy ở Việt Nam:
4
1.1.1. Khái niệm và các phương thức xuất khẩu hàng hóa:
1.1.1.1. Khái niệm xuất khẩu hàng hóa:

Xuất khẩu hàng hóa là hoạt động kinh doanh thu doanh lợi bằng cách bán
hàng hóa ra thị trường nước ngoài và hàng hóa ấy phải di chuyển ra khỏi biên
giới của một quốc gia. Hàng hóa xuất khẩu rất đa dạng: hàng công nghiệp, hàng
nông nghiệp, hàng tiêu dùng, kiến thức khoa học kỹ thuật (phát minh sáng chế,
bí mật sản xuất...), các dịch vụ (tư vấn kỹ thuật, sửa chữa, dịch vụ vận tải, giao
nhận, bảo hiểm, ngân hàng, dịch vụ du lịch, thông tin quảng cáo...
• Các đặc điểm cơ bản của hoạt động xuất khẩu:
+ Các bên chủ thể có quốc tịch khác nhau: khách hàng nước ngoài có sự
khác biệt với khách hàng trong nước về ngôn ngữ, lối sống, thói quen tiêu dùng,
điều kiện sống, phong tục tập quán... Vì vậy, hàng hóa xuất khẩu có sự khác biệt
so với hàng tiêu dùng ở trong nước. Những hàng hóa xuất khẩu phải đáp ứng
được nhu cầu của người tiêu dùng ở nước nhập khẩu, chất lượng của hàng hóa
phải đáp ứng được các thông số về tiêu dùng, kỹ thuật và môi trường và đạt được
tính cạnh tranh cao ở nước nhập khẩu.
+ Hàng hoá - đối tượng của xuất khẩu thường được lưu chuyển qua biên
giới quốc gia: quãng đường hàng hoá được vận chuyển đến tay người tiêu dùng
thường rất xa và phải sử dụng đường biển hoặc đường không, phải nộp thuế xuất
nhập khẩu và các thủ tục khác... Nên giá thành hàng hoá xuất khẩu ở thị trường
nước ngoài thường cao hơn giá thành ở trong nước.
+ Thị trường xuất khẩu là tập hợp người mua và người bán có quốc tịch
khác nhau tác động với nhau để xác định giá cả, số lượng hàng hóa mua bán,
chất lượng hàng hóa và các điều kiện mua bán khác theo hợp đồng. Thị trường
xuất khẩu hàng hóa bao hàm cả thị trường xuất khẩu hàng hóa trực tiếp (nước
5
tiêu thụ cuối cùng) và thị trường xuất khẩu hàng hóa gián tiếp (xuất khẩu qua
trung gian). Chẳng hạn một nước nào đó tạm nhập tái xuất hàng hóa của Việt
Nam hoặc nhập hàng hóa của Việt Nam rồi đem xuất khẩu sang thị trường khác
cũng được coi là thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Cần nhấn mạnh
rằng thị trường xuất khẩu hàng hóa không chỉ giới hạn ở những thị trường nước
ngoài, thị trường trong nước trong nhiều trường hợp là thị trường xuất khẩu hàng

hóa tại chỗ.
+ Đồng tiền thanh toán là ngoại tệ với một hoặc cả hai bên: Trong hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu, khi ký kết các hợp đồng thì các bên cần phải
thoả thuận rõ sẽ dùng đồng tiền của nước nào để thanh toán nhằm tránh các tranh
chấp có thể xảy ra khi tỷ giá hối đoái của các đồng tiền thay đổi. Trong kinh
doanh xuất nhập khẩu chủ yếu là thanh toán bằng ngoại tệ mạnh.
+ Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh mua bán ở phạm vi quốc tế, không
phải những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả 1 hệ thống quan hệ mua bán trong
2 nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài.
+ Xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại có thể đem lại hiệu quả kinh tế
cao, nhiều mặt hàng ở thị trường trong nước có thể đang dư thừa, giá rẻ nhưng ở
thị trường nước ngoài lại khan hiếm và giá cao. Do đó, khi xuất khẩu các mặt
hàng đó doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận rất cao. Nhưng bên cạnh đó,
doanh nghiệp cũng có thể phải gánh chịu nhiều thiệt hại nặng nề do hoạt động
xuất khẩu mang lại như nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên
ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không thể dễ dàng khống
chế được.
+ Các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu như: Thanh toán, ký kết
hợp đồng, thủ tục hải quan, vận chuyển... đều rất phức tạp và chứa đựng nhiều
rủi ro.
6
1.1.1.2. Các phương thức xuất khẩu hàng hóa:
a. Xuất khẩu trực tiếp:
Xuất khẩu trực tiếp là một phương thức giao dịch thương mại, trong đó người
bán (người xuất khẩu) và người mua (người nhập khẩu) quan hệ trực tiếp với
nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thỏa thuận về hàng
hóa, giá cả và các điều kiện giao dịch khác.
Ưu điểm của xuất khẩu trực tiếp là:
- Cho phép người xuất khẩu nắm bắt được nhu cầu của thị trường về số
lượng, chất lượng, giá cả để người bán thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của thị

trường.
- Giúp cho người bán không bị chia sẻ lợi nhuận.
- Giúp xây dựng chiến lược tiếp thị quốc tế phù hợp.
Nhược điểm của xuất khẩu trực tiếp:
- Chi phí tiếp thị thị trường nước ngoài cao cho nên những doanh nghiệp có
quy mô nhỏ, vốn ít thì nên xuất nhập khẩu ủy thác có lợi hơn.
- Kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp đòi hỏi có những cán bộ nghiệp vụ
kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi: Giỏi về giao dịch đàm phán, am hiểu và
có kinh nghiệm buôn bán quốc tế đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán quốc tế
thông thạo, có như vậy mới bảo đảm kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp
có hiệu quả. Đây vừa là yêu cầu để đảm bảo hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu trực tiếp, vừa thể hiện điểm yếu của đa số các doanh nghiệp
vừa và nhỏ của Việt Nam khi tiếp cận với thị trường thế giới.
Cách thức tiến hành xuất khẩu trực tiếp:
Để tiến hành, nhà kinh doanh cần phải thực hiện các công việc sau:
- Nghiên cứu thị trường và thương nhân.
7
- Đánh giá hiệu quả thương vụ kinh doanh thông qua việc xác định tỷ giá
xuất khẩu. Chỉ thực hiện kinh doanh khi tỷ giá xuất khẩu nhỏ hơn tỷ giá
hối đoái.
- Tổ chức giao địch đàm phán hoặc thông qua gởi các thư giao dịch thương
mại hỏi hàng, báo giá, hoàn giá, đặt hàng… hoặc hai bên mua bán trực
tiếp gặp mặt nhau đàm phán giao dịch.
- Ký kết hợp đồng kinh doanh xuất khẩu.
- Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu đã ký kết.
b. Xuất khẩu qua trung gian:
Xuất khẩu qua trung gian là hình thức xuất khẩu được thực hiện nhờ sự giúp
đỡ của trung gian thứ ba. Người thứ ba này được hưởng một khoản tiền nhất
định. Người trung gian phổ biến trong giao dịch quốc tế là các đại lý và người
môi giới:

- Đại lý: là thương nhân, họ tiến hành hoạt động xuất khẩu theo sự ủy thác
của người ủy thác, thù lao được hưởng là khoản tiền hoa hồng được tính trên
doanh số hoặc khối lượng công việc thực hiện được. Quan hệ giữa người ủy
thác với người đại lý thể hiện hợp đồng đại lý.
- Người môi giới: Là thương nhân trung gian giữa bên mua và bên bán, được
bên mua hoặc bên bán ủy thác tiến hành bán hoặc mua hàng hóa hay dịch vụ.
Khi tiến hành nghiệp vụ môi giới, người môi giới không đứng tên của chính
mình, mà đứng tên của người ủy thác, không chiếm hữu hàng hóa và không chịu
trách nhiệm cá nhân trước người ủy thác về việc khách hàng không thực hiện
hợp đồng. Quan hệ giữa người ủy thác với người môi giới dựa trên ủy thác từng
lần, chứ không dựa vào hợp đồng.
Ưu điểm của xuất khẩu qua trung gian:
8
- Người trung gian thường là những người am hiểu thị trường xâm nhập,
pháp luật và tập quán buôn bán của địa phương, họ có khả năng đẩy mạnh
buôn bán và tránh bớt rủi ro cho người ủy thác.
- Những người trung gian, nhất là các đại lý thường có cơ sở vật chất nhất
định, do đó khi sử dụng họ, người ủy thác đỡ phải đầu tư trực tiếp ra nước
tiêu thụ hàng.
- Nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn phân loại, đóng gói, người
ủy thác có thể giảm bớt chi phí vận tải.
Nhược điểm của xuất khẩu qua trung gian:
- Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu mất sự liên hệ trực tiếp với thị trường.
- Vốn hay bị bên nhận đại lý chiếm dụng.
- Công ty phải đáp ứng những yêu sách của đại lý và môi giới.
- Lợi nhuận bị chia sẻ.
- Do những lợi hại nêu trên, trung gian chỉ được sử dụng trong những
trường hợp thật cần thiết như:
- Khi thâm nhập vào thị trường mới.
- Khi mới đưa vào thị trường một mặt hàng mới.

- Khi tập quán đòi hỏi phải bán hàng qua trung gian.
- Khi mặt hàng đỏi hỏi sự chăm sóc đặc biệt. Ví dụ: Hàng tươi sống…
c. Xuất nhập khẩu đối lưu:
Buôn bán đối lưu (Counter – Trade) hay còn gọi là hình thức xuất khẩu liên
kết là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu,
người bán hàng đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi với nhau, có giá trị
tương đương. Ở đây mục đích của xuất khẩu không phải nhằm thu ngoại tệ, mà
thu về một hàng hóa khác có giá trị tương đương.
d. Kinh doanh tái xuất:
9
Tái xuất khẩu là hình thức thực hiện xuất khẩu trở lại sang các nước khác,
những hàng hóa đã mua ở nước ngoài nhưng chưa qua chế biến ở nước tái xuất.
Mục đích của thực hiện giao dịch tái xuất khẩu là mua rẻ hàng hóa ở nước
này bán đắt hàng hóa ở nước khác và thu số ngoại tệ lớn hơn số vốn bỏ ban đầu.
Giao dịch này luôn luôn thu hút ba nước tham gia: nước xuất khẩu, nước tái xuất
khẩu và nước nhập khẩu.
1.1.2. Vai trò của xuất khẩu giấy của Việt Nam:
Vai trò của xuất khẩu nói chung trong nền kinh tế hội nhập ngày càng được
khẳng định đối với Việt Nam:
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu: Để phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, cần phải có một nguồn vốn
lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại. Nguồn vốn ngoại
tệ chủ yếu từ các nguồn: xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, vay vốn, viện trợ,
thu từ hoạt động du lịch, các dịch vụ có thu ngoại tệ, xuất khẩu lao động...
Xuất khẩu là nguồn vốn chủ yếu để nhập khẩu.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển. Xuất
khẩu không chỉ tác động làm gia tăng nguồn thu ngoại tệ mà còn giúp cho
việc gia tăng nhu cầu sản xuất, kinh doanh ở những ngành liên quan khác.
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, giúp cho sản xuất

ổn định và kinh tế phát triển. Vì có nhiều thị trường nên có thể phân tán
rủi ro do cạnh tranh. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp
đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Thông qua
cạnh tranh trong xuất khẩu, buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cải
tiến sản xuất, tìm ra những cách thức kinh doanh sao cho có hiệu quả,
giảm chi phí và tăng năng suất.
10
- Xuất khẩu tích cực giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống người
dân. Xuất khẩu làm tăng GDP, làm gia tăng nguồn thu nhập quốc dân, từ
đó có tác động làm tăng tiêu dùng nội địa, đó là nhân tố kích thích nền
kinh tế tăng trưởng. Xuất khẩu gia tăng sẽ tạo thêm công ăn việc làm trong
nền kinh tế, nhất là trong ngành sản xuất cho hàng hoá xuất khẩu, xuất
khẩu làm gia tăng đầu tư trong ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu và đây
là nhân tố kích thích nền kinh tế tăng trưởng.
Theo ông Alain Chevalier, cố vấn cao cấp thương mại quốc tế, hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam khá năng động trong những năm qua. Từ một nước
nhập khẩu Việt Nam trở thành quốc gia đứng hàng đầu về xuất khẩu gạo, cà phê,
hạt tiêu, hạt điều... Kim ngạch xuất khẩu đạt 9,2 tỷ USD năm 1997 tăng lên hơn
39,6 tỷ USD năm 2006 (tăng 22,1% so với năm 2005).
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1997 - 2006
Kim ngạch xuất khẩu (tỷ USD)
0
5
10
15
20
25
30
35
40

45
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Kim ngạch xuất khẩu (tỷ
USD)
Các chuyên gia kinh tế lý giải mức tăng trưởng kinh tế trung bình 7-8%/năm
trong những năm qua ở Việt Nam có sự đóng góp quan trọng của xuất khẩu.
Xuất khẩu tăng mạnh còn trực tiếp tiếp sức cho sản xuất trong nước tăng trưởng,
11
mở rộng quy mô thị trường và tạo thêm nhiều việc làm mới. Hơn thế, thành tích
xuất khẩu còn là lực đẩy mạnh mẽ, có tính quyết định góp phần đẩy nhanh tốc độ
hội nhập của nền kinh tế nước ta. Trong 10 năm qua, Việt Nam đã tham gia các
thể chế kinh tế khu vực và quốc tế như AFTA, APEC, ký Hiệp định thương mại
với EU, Mỹ và mới đây là gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới, đó sẽ là tiền
đề quan trọng để tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong những năm tới.
Ngành công nghiệp giấy Việt Nam là một trong những ngành công nghiệp
chủ yếu của đất nước, có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân mặc
dù quy mô của nó vẫn còn nhỏ bé so với khu vực và thế giới. Tuy nhiên, xuất
khẩu các sản phẩm giấy của Việt Nam lại chưa thực sự hiệu quả, chưa đóng góp
được nhiều vào GDP do một số hạn chế về quy mô đầu tư, trình độ công nghệ,
không có vùng nguyên liệu ổn định và lâu dài v.v...
Ngành giấy Việt Nam trong 20 năm qua đã đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm

15%-16%, sản lượng từ 80.000 tấn/năm đã tăng lên tới 824.000 tấn/năm. Nhưng
chủng loại giấy sản xuất trong nước vẫn rất nghèo nàn, chỉ có giấy in báo, giấy
in và viết, giấy bao gói (không tráng), giấy lụa. Năm 2006 sản xuất bột giấy ở
Việt Nam mới đáp ứng được 37% nhu cầu, còn lại vẫn phải nhập khẩu. Trước
đây chỉ nhập bột tẩy trắng, nay bột giấy không tẩy trắng ngày càng nhập nhiều,
vì các cơ sở phải ngừng sản xuất do không có khả năng xử lý nước thải và quy
mô nhỏ, công nghệ lạc hậu. Trình độ công nghệ của ngành giấy Việt Nam hiện
đang ở mức dưới trung bình của thế giới, nên chất lượng chỉ ở mức trung bình
thấp. Do lệ thuộc vào bột nhập khẩu nên sức cạnh tranh của ngành giấy yếu.
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu giấy của Việt Nam:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, toàn bộ nền kinh tế nói chung và mỗi
doanh nghiệp nói riêng luôn luôn phải chịu sự tác động của rất nhiều các nhân tố
chủ quan và khách quan, các qui luật thị trường. Xuất khẩu giấy của Việt Nam
12
không phải là ngoại lệ, nó chịu tác động của các nhân tố thuộc ngành giấy Việt
Nam và cả các nhân tố ngoài ngành giấy.
1.2.1. Những nhân tố thuộc ngành giấy Việt Nam:
1.2.1.1. Đặc điểm của ngành công nghiệp giấy và mặt hàng giấy:
Ngoài những đặc điểm cơ bản thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp, ngành
công nghiệp giấy và các mặt hàng giấy có một số đặc điểm riêng nổi bật sau:
- Công nghiệp giấy là một ngành sản xuất công nghiệp mang tính tổng hợp.
Quá trình sản xuất giấy bao gồm một loạt các quá trình sản xuất hóa chất,
năng lượng từ công đoạn ban đầu – xử lý nguyên liệu, đến công đoạn cuối
cùng – gia công chế biến sản phẩm.
- Mỗi tấn sản phẩm giấy được sản xuất ra đòi hỏi phải thực hiện các quá
trình xử lý, chế biến khối lượng lớn nguyên liệu, tiêu tốn nhiều loại vật tư
hóa chất, năng lượng, điện, hơi nước... trên một hệ thống dây chuyền công
nghệ liên hoàn và đồng bộ, hoạt động theo phương pháp sản xuất liên tục
hoặc gián đoạn.
- Các sản phẩm giấy là những mặt hàng không thể thiếu được trong cuộc

sống hàng ngày và nhu cầu của xã hội đối với các mặt hàng này rất lớn
như giấy in báo, giấy vở, giấy photocopy, giấy ram văn phòng... Sản phẩm
ngành giấy vừa đáp ứng nhu cầu thị trường vừa phục vụ sự phát triển của
xã hội.
- Công nghệ giấy chỉ có thể phát triển trên cơ sở các định hướng chiến lược
phát triển dài hạn, đáp ứng được những nhu cầu lớn về vốn để đầu tư đổi
mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng khu nguyên liệu lâu
dài và ổn định... đồng thời, phải có các chính sách vĩ mô mở đường
khuyến khích và thúc đẩy thích ứng trong từng giai đoạn phát triển.
1.2.1.2. Công nghệ sản xuất:
13
Công nghệ mà doanh nghiệp sử dụng có tác động rất lớn đến sản phẩm mà
doanh nghiệp sản xuất ra, cũng như tác động đến chi phí và giá thành của sản
phẩm. Theo Hiệp Hội Giấy Việt Nam thì ngành giấy duy trì công nghệ lạc hậu,
cho ra những sản phẩm dưới mức trung bình so với các nước trong khu vực. Các
nhà máy chỉ làm ra được các loại giấy in báo, giấy in và viết, giấy lụa, giấy bao
bì không tráng. Còn giấy tráng thì hầu như phải nhập khẩu toàn bộ.
Đối với mặt hàng giấy in và giấy viết, trong những năm qua giấy Bãi Bằng,
Tân Mai, Đồng Nai đã chủ động được công nghệ sản xuất. Tuy nhiên, có nhiều
dự án đầu tư của tư nhân sản xuất mặt hàng này nhưng mới chỉ chú trọng thiết bị
mà chưa làm chủ được công nghệ, khiến cho sản phẩm làm ra không tiêu thụ
được. Đến nay, nhiều doanh nghiệp tư nhân trong số này đang có nguy cơ phá
sản vì không trả được nợ và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Tại Việt Nam, ngành giấy vở vẫn chủ yếu sử dụng các máy kẻ dòng bán thủ
công lạc hậu. Trước đây, đã có một vài máy in cuốn được nhập dưới dạng viện
trợ nhưng vì nhiều lý do chúng hoạt động không thường xuyên. Gần đây một số
doanh nghiệp nhập máy in cuốn nhưng với giá rất cao 2,5 tỷ đồng với máy qua
sử dụng và hơn 14 tỷ đồng nếu là máy mới. Năm 2004, lần đầu tiên một người
Việt Nam - anh Nguyễn Quốc Hòa - Giám đốc Công ty Cơ khí Quốc Hòa (Thái
Bình) đã chế tạo thành công máy in cuốn Flexo dùng cho ngành in, sản xuất giấy

vở học sinh, bao bì. Máy được thiết kế để có thể lắp lẫn hoặc thay đổi phụ tùng
là có thể sử dụng cho nhiều mục đích in khác nhau. Đặc biệt máy in cuốn Quốc
Hòa hoạt động ổn định với các loại giấy sản xuất trong nước. Giá bán máy in
cuốn Quốc Hòa chỉ bằng 1/3 giá thành của máy nhập khẩu từ Trung Quốc và chỉ
bằng 1/2 giá thành của máy đã qua sử dụng cùng kích thước tờ in. Tỷ lệ của phụ
tùng ngoại được lắp trên máy chỉ chiếm khoảng 10%.Qua thực tế sản xuất tại các
đơn vị sử dụng máy in cuốn Quốc Hòa thì cứ một tấn giấy, tiết kiệm được
600.000 đồng chi phí cho nguyên liệu giấy, nhân công, điện, mực in... Trung
14
bình mỗi năm chỉ riêng ngành sản xuất giấy vở học sinh đã sử dụng hết khoảng
40.000 tấn giấy cho in giấy vở học sinh thì ít nhất cũng tiết kiệm được vài chục
tỷ đồng. Công trình của anh giành giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ Việt
Nam và giải thưởng WIPO năm 2005.
1.2.1.3. Nguồn nguyên liệu sản xuất giấy:
Nguyên liệu (đối với các doanh nghiệp sản xuất) là một yếu tố thiết yếu để
tiến hành sản xuất kinh doanh do đó việc cung cấp nguyên vật liệu có ảnh hưởng
trực tiếp đến sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
Theo Tổng công ty Giấy Việt Nam những nguyên liệu thường sử dụng trong
sản xuất giấy bao gồm:
* Nguyên liệu thô là gỗ lá rộng, thực vật mọc nhanh thuộc họ tre, nứa và
một phần nhỏ gỗ lá kim. Ngoài ra còn một phần không nhỏ giấy loại. Đồng thời
còn sử dụng một khối lượng lớn nguyên phụ liệu phụ như hoá chất, đá vôi, than
nước…
* Tre nứa là nguyên liệu lâu đời và sản xuất giấy có chất lượng cao. Tre
nứa được sử dụng để sản xuất giấy viết, giấy in, giấy bao gói và bao bì công
nghiệp. Hiện nay trong cơ cấu nguyên liệu của Tổng công ty tre nứa chiếm tỷ
trọng 60-70%, có gần 50 loại tre nứa, nhưng loại tre nứa được sử dụng chủ yếu
là: luồng, lồ, nứa.
* Gỗ thông là nguyên liệu được sử dụng chủ yếu trong công nghiệp chế

biến Xenlulo và giấy trên thế giới. Nhưng ở nước ta do nguồn gỗ thông hạn chế,
nên nguyên liệu chủ yếu là tre nứa, gỗ lá rộng và phế liệu nông nghiệp. Gỗ lá
rộng được sử dụng nhiều hơn cả là: bồ đề, bạch đàn, keo tai tượng, kéo lá tràm.
* Phế liệu nông, công nghiệp là: rơm, rạ, bã mía, cây đay… Theo số liệu
của Tổng công ty, hàng năm có khoảng 7 triệu tấn rơm rạ. Nếu tổ chức khai thác
tốt, công nghệ chế biến phù hợp thì rơm, rạ sẽ là nguồn nguyên liệu dồi dào cho
15
sản xuất.
* Giấy loại: là nguyên liệu có giá trị kinh tế, sử dụng giấy loại tiết kiệm
được rất nhiều lượng tiêu hao năng lượng , điện nước ,hoá chất, do đó giảm được
giá thành và tăng lợi nhuận. Tỷ trọng sử dụng giấy loại trong sản xuất của Tổng
công ty giấy đạt 20-30%.
Hàng năm ngành giấy nước ta còn nhập khẩu một lượng lớn bột giấy để đáp
ứng nhu cầu sản xuất trong nước. Năm 2006 lượng bột giấy nhập khẩu là
131.884 tấn với giá trị 73.563.619 USD. Sang năm 2007, tổng lượng bột nhập
khẩu trong 5 tháng đầu năm là 40.297 tấn, trị giá 25.279.455 USD. Nước ta nhập
khẩu bột giấy chủ yếu từ các nước Canada, Brazil, Phần Lan, Thái Lan,
Indonesia, Mỹ, Nhật, Trung Quốc...
Giá nguyên liệu bột giấy tăng liên tục trong khi giá bán hầu như không tăng
đã gây khó khăn không ít cho các doanh nghiệp phải nhập khẩu bột giấy. Những
doanh nghiệp chủ động được bột giấy có khả năng sẽ thắng to, trong đó có thể kể
hàng đầu là Giấy Bãi Bằng. Hiện nay, đơn vị này gần như chủ động hoàn toàn
nguyên liệu sản xuất giấy in, giấy viết. Kế đến, Giấy Tân Mai có dây chuyền sản
xuất bột DIP (sản xuất bột giấy từ giấy in báo cũ có khử mực) nên chủ động
được nguồn bột giấy in báo. Thêm vào đó, Tân Mai cũng đã đưa nguyên liệu bột
cây keo tai tượng vào thay thế bột gỗ thông, góp phần giảm giá thành sản phẩm,
tăng khả năng cạnh tranh đối với mặt hàng giấy báo khi thuế nhập khẩu giấy in
báo từ các nước trong khu vực giảm từ 40% vào năm 2003 xuống còn 5% trong
năm 2006.Công ty Giấy Sài Gòn cũng có dây chuyền sản xuất bột giấy từ giấy
phế nên chủ động nguồn bột cho sản xuất giấy carton và giấy vệ sinh… Một số

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đang có những dây chuyền sản
xuất bột giấy từ giấy phế, có khả năng cạnh tranh tốt hơn. Tuy nhiên, năng lực
sản xuất bột giấy của các doanh nghiệp này cũng chưa đủ để cung ứng cho sản
xuất và vẫn còn phải nhập khẩu thêm bột giấy.
16
Trong khi đó, đa phần các nhà máy giấy khác mới đầu tư hoặc không chủ
động được nguồn bột giấy đều rơi vào tình trạng căng thẳng, sản phẩm làm ra có
giá thành cao, nếu bán với giá thị trường sẽ bị thua lỗ nặng. Do ngành giấy chưa
đầu tư được một nhà máy sản xuất bột giấy lớn nào đáng kể để cung cấp cho
toàn ngành, phần lớn các doanh nghiệp phải nhập khẩu nên phụ thuộc hoàn toàn
vào giá thế giới, mỗi năm phải nhập khẩu bình quân 130.000-150.000 tấn bột.
1.2.1.4. Trình độ quản lý của các doanh nghiệp:
Chi phí quản lý doanh nghiệp chiếm tỷ lệ % khá lớn trong tổng chi phí của
doanh nghiệp, trình độ quản lý của doanh nghiệp thể hiện ở việc xây dựng được
một cơ cấu tổ chức hợp lý và chi phí quản lý thấp. Nếu trình độ quản lý của
doanh nghiệp tốt sẽ tạo dựng lên được bộ máy quản lý gọn nhẹ, có hiệu lực, điều
này góp phần giảm chi phí quản lý trong giá thành sản phẩm.
Trình độ quản lý còn thể hiện ở việc doanh nghiệp biết sử dụng các phương
pháp và công cụ quản lý để kích thích khả năng sáng tạo của người lao động,
cống hiến nhiều hơn cho doanh nghiệp, góp phần làm tăng kết quả và giảm chi
phí kinh doanh một cách hợp lý, tức là nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
Người phát ngôn của Hiệp Hội Giấy cho rằng: trình độ quản lý của các doanh
nghiệp trong ngành còn hạn chế, cơ sở lớn thì vẫn mang dáng dấp kế hoạch hoá
của thời kỳ bao cấp, trong khi các cơ sở nhỏ thì nặng tính cách xí nghiệp gia
đình, sự hợp tác và liên kết trong ngành yếu, công nhân có giới hạn. Những gì
người phát ngôn của Hiệp Hội Giấy Việt Nam nói là một báo động đỏ cho các
doanh nghiệp ngành giấy Việt Nam, họ phải kịp thời đổi mới tư duy quản lý, kêu
gọi đầu tư liên kết, canh tân công nghệ, có kế hoạch đào tạo chuyên viên và thợ
lành nghề thì mới có thể tồn tại và phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế

quốc tế hiện nay. Nếu không có sự đầu tư liên kết, đổi mới kịp thời, những nhà
máy giấy nhỏ lẻ sẽ có nguy cơ bị xoá tên trên bản đồ ngành giấy.
17
1.2.2. Những nhân tố ngoài ngành giấy Việt Nam:
1.2.2.1. Môi trường kinh doanh:
Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh quốc gia ảnh hưởng tới xuất khẩu
giấy của Việt Nam bao gồm: môi trường văn hoá – xã hội, môi trường chính trị -
pháp luật, môi trường kinh tế, môi trường cạnh tranh...
- Yếu tố văn hóa – xã hội luôn bao quanh doanh nghiệp và khách hàng và
có ảnh hưởng lớn đến sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Môi
trường văn hoá của quốc gia phản ánh thẩm mỹ, giá trị và thái độ,
phong tục tập quán, cấu trúc xã hội, tôn giáo, giao tiếp cá nhân, giáo
dục...sự đa dạng về văn hoá có thể tạo điều kiện cho một số sản phẩm
này tăng doanh thu nhưng có thể lại làm cho một số sản phẩm khác
phải tăng chi phí để thích nghi hoá sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu
địa phương. Do đó việc hiểu biết về nền văn hoá quốc gia sẽ giúp cho
các nhà quản trị điều hành có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất và
bán hàng của mình.
- Những yếu tố thuộc lĩnh vực chính trị và luật pháp chi phối mạnh mẽ sự
hình thành cơ hội thương mại và khả năng thực hiện mục tiêu của bất
kỳ doanh nghiệp nào. Sự ổn định của môi trường chính trị đã được xác
định là một trong những điều kiện tiền đề quan trọng cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Sự thay đổi điều kiện chính trị có thể
ảnh hưởng có lợi cho nhóm doanh nghiệp này, kìm hãm sự phát triển
của doanh nghiệp khác hoặc ngược lại. Hệ thống pháp luật hoàn thiện,
không thiên vị là một trong những điều kiện tiền đề ngoài kinh tế của
kinh doanh.
Hệ thống luật pháp của một quốc gia nào đầy đủ, rõ ràng, nhất quán và mở
rộng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
18

đồng thời tiết kiệm được những chi phí do luật pháp không rõ ràng, không nhất
quán gây ra. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và thực thi pháp luật trong nền kinh
tế có ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều sử dụng các biện pháp khác
nhau để bảo hộ nền sản xuất của nước mình như đánh thuế cao đối với hàng hoá
nhập khẩu, hạn ngạch, các quy định về tiêu chuẩn kĩ thuật, quy định về bảo vệ
môi trường... đặc biệt là ở các nước phát triển như Mỹ, EU, Nhật, Hàn Quốc thì
các biện pháp này được sử dụng tối đa. Ngoài ra các nước này còn có rất nhiều
nguồn hàng thay thế khác nhau. Do đó rất có thể vì quan hệ chính trị với các
nước mà họ có thể ưu tiên hàng hoá của các nước đó, và như vậy nó sẽ cản trở
việc tăng doanh thu xuất khẩu của ngành giấy nước ta.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thì việc các nước nhập
khẩu sử dụng các công cụ bảo hộ như thuế quan, hạn ngạch gặp phải sự phản
ứng hết sức mạnh mẽ từ các quốc gia xuất khẩu. Do đó để bảo hộ sản xuất trong
nước thì các nước này chuyển sang sử dụng các biện pháp khác như tiêu chuẩn
kĩ thuật, chống bán phá giá, qui định về bảo vệ môi trường... mà đây là những
yếu tố mà doanh nghiệp hiện nay đang rất yếu do không được đầu tư nhiều dây
chuyền máy móc hiện đại, đó cũng là một trong những hạn chế của các doanh
nghiệp Việt Nam, nó làm hạn chế việc nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
của ngành giấy nước ta.
- Môi trường kinh tế: Những yếu tố kinh tế bao gồm các biến số về kinh
tế và tài chính như lãi suất, thuế suất, cơ cấu tiêu dùng, năng suất và
mức sản lượng. Các yếu tố đó còn bao gồm các chỉ số về hạ tầng cơ sở
như truyền thông, mạng lưới phân phối... mức độ sẵn có và mức phí
tổn về năng lượng.
19
Các yếu tố kinh tế và sự thay đổi của nó đều có tác động trực tiếp đến yếu tố
thị trường đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp. Do đó nó ảnh hưởng đến việc
tăng giảm các chỉ tiêu kết quả kinh doanh hoặc tăng giảm một số loại chi phí

kinh doanh. Sự biến động chung có thể là cùng chiều giữa các yếu trên nhưng
với tốc độ khác nhau cũng tạo ra sự biến động không đều của các chỉ tiêu kết quả
và chí phí do đó cũng tác động tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Thị trường xuất khẩu các mặt hàng của ngành giấy nước ta là các nước có
nền kinh tế phát triển, sức mua lớn nhưng cũng đòi hỏi cao về chất lượng sản
phẩm. Đây cũng chính là điều kiện thuận lợi giúp cho các doanh nghiệp giấy
Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường này, qua đó nâng cao
hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp.
Môi trường cạnh tranh: Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường như hiện nay, nhất là khi xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế đang trở thành xu thế chung của toàn cầu thì cạnh tranh trở nên mạnh mẽ
hơn bao giờ hết "thương trường là chiến trường". Cạnh tranh diễn ra ở mọi lĩnh
vực, mọi hoạt động, mọi thành phần kinh tế. Cạnh tranh có thể làm cho doanh
nghiệp ngày càng phát triển hoặc sẽ làm cho doanh nghiệp bị phá sản nhường
chỗ cho các doanh nghiệp khác mạnh hơn.
Đặc biệt với hoạt động kinh doanh xuất khẩu thì cạnh tranh diễn ra "khốc
liệt" hơn bất kỳ hoạt động kinh doanh nào khác. Vì trong lĩnh vực kinh doanh
xuất khẩu thì số lượng các đối thủ cạnh tranh là rất lớn, cạnh tranh không chỉ đơn
thuần diễn ra giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành, cùng lĩnh vực kinh
doanh, cùng mặt hàng kinh doanh, trong cùng một quốc gia mà nó còn diễn ra
giữa các doanh nghiệp hoạt động trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều mặt
hàng khác nhau, ở các thị trường khác nhau.
Trong hoạt động xuất khẩu các mặt hàng giấy, ngành giấy Việt Nam phải
cạnh tranh với rất nhiều đối thủ bao gồm cả đối thủ cạnh tranh trong nước và các
20
đối thủ cạnh tranh nước ngoài như: Đức, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc... hàng
hoá của các nước này có chất lượng cao, mẫu mã phong phú, có uy tín trên thị
trường, được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng, vì vậy ngành giấy
Việt Nam đã và đang phải đối mặt với rất nhiều áp lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp giấy nước ngoài và sự cạnh tranh này sẽ ngày càng mạnh mẽ trong điều

kiện mở cửa của nền kinh tế hiện nay.
1.2.2.2. Hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho Việt Nam rất nhiều cơ hội để phát
triển nền kinh tế, song bên cạnh đó là không ít những khó khăn, nhất là đối với
những ngành công nghiệp vốn được Nhà nước bảo hộ. Nhiều chuyên gia đã cảnh
báo: ngành giấy là một trong những ngành được bảo hộ đầu tiên chịu áp lực cạnh
tranh lớn khi bước vào hội nhập. Khi Việt Nam gia nhập WTO, những rào cản
về thương mại sẽ bị xóa bỏ, sản phẩm giấy của các nước có sức cạnh tranh cao
sẽ được đưa vào Việt Nam. Bên cạnh đó, môi trường đầu tư thông thoáng và cởi
mở hơn, sẽ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào sản xuất giấy. Những
sản phẩm giấy có chất lượng cao, giá cả phù hợp sẽ có cơ hội phát triển, một số
nhà máy giấy 100% vốn nước ngoài với quy mô trung bình 100.000 tấn/năm
cũng sắp đi vào hoạt động... Điều này sẽ tạo ra khó khăn cho các cơ sở sản xuất
giấy của Việt Nam. Nhất là với những cơ sở nhỏ, sản xuất manh mún, công nghệ
lạc hậu và đặc biệt là các cơ sở sản xuất giấy bao bì sẽ không thể tồn tại được bởi
chất lượng không đáp ứng được nhu cầu. Trước thực tế này, nếu các doanh
nghiệp không đổi mới tư duy, tìm chỗ đứng trên thị trường, hoàn thiện công
nghệ, quản lý, đào tạo và hiệp lực cùng nhau để phát triển... chắc chắn sẽ nhận
phần thất bại.
Tóm lại có rất nhiều nhân tố tác động trực tiếp hay gián tiếp tới hoạt động
xuất khẩu giấy của các doanh nghiệp nói riêng và của cả ngành giấy Việt Nam
nói chung. Việc phân tích tác động của các nhân tố đó một cách thường xuyên
21
giúp tìm ra các biện pháp phát huy những nhân tố tích cực và hạn chế những
nhân tố tiêu cực nhằm thúc đẩy xuất khẩu giấy của nước ta.
1.3. Thực trạng xuất khẩu của ngành giấy Việt Nam:
Phân tích tình hình xuất khẩu của ngành giấy Việt Nam giai đoạn 2001 –
2007:
 Khối lượng xuất khẩu: (Xem bảng 1)
BẢNG 1

KHỐI LƯỢNG XUẤT KHẨU CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2001 - 2007
(Đơn vị: Tấn)
Năm Khối lượng xuất khẩu
2001 76.177
2002 85.370
2003 110.982
2004 125.320
2005 146.625
22
2006 170.980
2007 191.500
Nhìn vào các số liệu trong bảng có thể thấy trước năm 2003 khối lượng xuất
khẩu của ngành giấy Việt Nam ở mức thấp, chỉ là 76.177 tấn vào năm 2001 và
85.370 tấn vào năm 2002. Sang năm 2003 ngành giấy Việt Nam đã đẩy mạnh
xuất khẩu sản phẩm và đạt khối lượng xuất khẩu 110.982 tấn, tăng 30% so với
năm 2002. Năm 2004 đạt 125.320 tấn, tăng 12% so với năm 2003, tuy khối
lượng xuất khẩu vẫn tăng nhưng tỷ lệ tăng lại giảm so với năm 2003. Năm 2005,
2006, 2007 khối lượng xuất khẩu là 146.625 tấn, 170.980 tấn, 191.500 tấn, tăng
khá đều đặn 11,7%, 16% và 12%.
 Kim ngạch xuất khẩu: (Xem bảng 2)
BẢNG 2
KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2001 – 2007
(Đơn vị: 1000 USD)
Năm Kim ngạch xuất khẩu
2001 6.267
2002 8.020
2003 17.530
2004 23.392

2005 31.073
2006 38.244
2007 47.805
23
Từ bảng số liệu ta nhận thấy rằng năm 2001, 2002 kim ngạch xuất khẩu của
ngành giấy Việt Nam không cao, chỉ đạt 6.267 nghìn USD và 8.020 nghìn USD,
và mức độ tăng cũng rất thấp (1.753 USD). Năm 2003 kim ngạch xuất khẩu của
ngành đột nhiên tăng cao, đạt 17.530 nghìn USD, tăng gấp đôi năm 2002. Kim
ngạch năm 2004 là 23.392, tăng 33,44% so với năm 2003. Năm 2005 kim ngạch
xuất khẩu đạt 31.073 nghìn USD, tăng 32,84%. Năm 2006 xuất khẩu đạt 38.244
nghìn USD, tăng 23,08% so với năm 2005. Năm 2007 đạt 47.805 nghìn USD,
tăng 25%. Tuy kim ngạch xuất khẩu đều tăng qua các năm nhưng tốc độ tăng lại
không đều.
 Thị trường xuất khẩu:
Những nỗ lực trong thời gian qua đã giúp ngành giấy Việt Nam tìm kiếm
được nhiều bạn hàng làm ăn tin cậy và thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng.
Ngoài Nhật Bản là thị trường truyền thống, ngay từ năm 2000, các doanh nghiệp
xuất khẩu các sản phẩm giấy của nước ta đã mở rộng thị trường sang nhiều nước
khác nhau. Kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với một số doanh nghiệp của
Malaysia, Đài Loan đã được thiết lập và có nhiều triển vọng. Xuất khẩu giấy
Việt Nam vẫn tiếp tục thực hiện đa phương hoá các quan hệ kinh tế và kỹ thuật
với nhiều nước trên thế giới, xây dựng các thị trường trọng điểm và bạn hàng
chủ yếu để việc xuất khẩu có hiệu quả hơn.
 Một số doanh nghiệp xuất khẩu giấy lớn của Việt Nam:
Công ty Giấy Bãi Bằng:
Tiền thân của công ty Giấy Bãi Bằng là nhà máy giấy Vĩnh Phú, được khởi
công xây dựng năm 1974. Đây là nhà máy liên hợp bột và giấy, công trình viện
trợ không hoàn lại của Chính phủ và nhân dân Thụy Điển gồm từ khâu thiết kế
đến xây dựng và giúp đỡ về mọi mặt, kể cả về nhân lực. Năm 1982, khánh thành
toàn bộ dây chuyền sản xuất đi vào hoạt động đồng bộ với tên gọi Nhà máy Giấy

Vĩnh Phú. Năm 1987 đổi tên thành Xí nghiệp liên hợp Giấy Vĩnh Phú. Từ 1992
24
đến nay, Công ty hoạt động sản xuất – kinh doanh và giao dịch với tên gọi Công
ty giấy Bãi Bằng.
Công ty Giấy Bãi Bằng thuộc Tổng công ty Giấy Việt Nam, thiết bị hiện đại,
dây chuyền sản xuất khép kín. Sản phẩm của công ty bao gồm: giấy in, giấy viết,
giấy Telex, giấy Photocopy, giấy tập kẻ ngang, vở học sinh và giấy ram văn
phòng. Sản phẩm của công ty đã có bán trên thị trường trong và ngoài nước.
Công ty cổ phần giấy Tân Mai:
Tiền thân là Công ty Kỹ nghệ Giấy Việt Nam (COGIVINA) được hình thành
cách đây 49 năm, theo thời gian đã có những bước phát triển vượt bậc về năng
lực sản xuất. Hiện đang là doanh nghiệp hàng đầu về sản xuất giấy báo, in,
viết tại Việt Nam. Có thương hiệu, có sản phẩm chiếm vị trí cao ở thị trường
trong nước. Năm 2006, sau khi sát nhập thêm Công ty Giấy Bình An, Công ty đã
được chuyển đổi từ hình thức sở hữu Nhà nước sang Công ty cổ phần Nhà nước
giữ 60%. Cuối năm 2006, Nhà nước bán 20% cổ phần, do đó hiện tại vốn Nhà
nước tại Công ty là 40%. Vốn điều lệ khi thành lập Công ty cổ phần là 348 tỷ
đồng.
Mặt hàng truyền thống của Tân Mai là giấy in báo. Ngoài ra, các mặt hàng
có uy tín cao về chất lượng là giấy photocopy, giấy màu, giấy bìa, bao gói Kraft.
Bắt đầu từ năm 2006, Công ty có sản phẩm mới là giấy in cao cấp có tráng phủ
(thường gọi là couché) dùng để in tạp chí, quảng cáo, lịch, tranh ảnh.
Mục tiêu của Giấy Tân Mai luôn củng cố giữ vững và mở rộng thị trường
giấy trong nước, mở rộng các hệ thống tiêu thụ sản phẩm giấy Ram văn phòng,
phát triển dòng sản phẩm mới Giấy Tráng Phấn (giấy Couché) lần đầu tiên được
sản xuất và tiêu thụ tại Việt Nam vào đầu quý 03 năm 2006. Bên cạnh đó, công
ty vẫn luôn đẩy mạnh việc thâm nhập và mở rộng các thị trường nước ngoài.
Công ty cổ phần Giấy Sài Gòn:
25

×