Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Xây dựng và thực hiện kế hoạch ở Công ty Cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.16 KB, 88 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Sự nghiệp đổi mới đất nước ta đã trải qua hơn 20 năm. Trong những năm
đổi mới ấy, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, nước ta cũng gặp không ít khó
khăn, thách thức do những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những
khó khăn vốn có của nền kinh tế đang ở trình độ kém phát triển và những yếu
kém chủ quan trong tổ chức và quản lý. Nhất là tình hình xây dựng và thực
hiện kế hoạch trong các tổ chức kinh tế mà đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh. Một vấn đề rất bức xúc hiện nay được nhiều doanh nghiệp
quan tâm là đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao chất lượng quản lý.
Trong công tác quản lý của ta, một hạn chế khá phổ biến trong các doanh
nghiệp là công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch chưa đóng vai trò quan
trọng đúng như vai trò của nó. Xây dựng và thực hiện kế hoạch có vai trò
quan trọng trong việc các doanh nghiệp có đi đúng hướng kinh doanh không,
có thành công hay không. Nhưng các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự đầu tư
và còn khá sơ sài nên dẫn đến một nguyên nhân là nhiều doanh nghiệp thua
lỗ, thẩm chí dẫn đến phá sản. Một phần cũng do ta mới chỉ quen làm với cơ
chế mới không lâu, kiến thức về quản lý nói chung, xây dựng kế hoạch và
thực hiện kế hoạch nói riêng vẫn còn chưa cao và chưa được phổ biến rộng
rãi.
Công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch rất cần được quan tâm và tìm
hiểu sâu sắc trong các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp mới có thể hoạt
động sản xuất kinh doanh mới có thể đem lại hiệu quả cao và mới có thể đứng
vững được trên thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần Đầu tư – Tư vấn và Xây
dựng 289 em đã tìm hiểu về tình hình lĩnh vực lập kế hoạch ở Công ty và thực
hiện đề tài: “Xây dựng và thực hiện kế hoạch ở Công ty Cổ phần Đầu tư –
Tư vấn và Xây dựng 289”
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
1
Chuyên đề tốt nghiệp


Nội dung của đề tài gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh ở
doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh ở Công
ty Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289
Chương III: Phương hướng và biện pháp nhằm hoàn thiện công tác xây dựng
và thực hiện kế hoạch kinh doanh ở Công ty Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng
289
Trong thời gian thực tập và hoàn thiện đề tài của mình, em xin chân
thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Giáo sư Tiến sỹ Hoàng Đức Thân, thầy
đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài này và các thầy cô giáo khác
trong khoa Khoa thương mại đã cung cấp cho em những kiến thức quý báu
tạo điều kiện cho em tìm hiểu tốt về đề tài của mình.
Em cũng xin cảm ơn tập thể cán bộ công nhân viên chức Công ty Đầu tư
– Tư vấn và Xây dựng 289, đặc biệt là các bác, các chú trong phòng kế hoạch
đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong quá trình thực tập.
Vì thời gian và kiến thức còn hạn chế nên bài viết của em còn nhiều
thiếu sót. Do đó em mong được sự góp ý của các thầy cô giáo và của Công ty
Đầu tư – Tư vấn và Xây dựng 289.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, tháng 5 năm 2008
Sinh viên thực hiện
Lý Thị Say
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG VÀ THỰC
HIỆN KẾ HOẠCH KINH DOANH Ở DOANH NGHIỆP

1.1.Khái luận chung về kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp

1.1.1.Khái niệm kế hoạch kinh doanh
Cũng như mọi phạm trù quản lý khác, đối với công tác xây dựng và
thực hiện kế hoạch cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Mỗi cách tiếp cận
đều xem xét kế hoạch theo một góc độ riêng và đều cố gắng biểu hiện đúng
bản chất của phạm trù quản lý ấy.
Với cách tiếp cận theo quá trình thì cho rằng: Kế hoạch sản xuất kinh
doanh là một quá trình liên tục xoáy trôn ốc với chất lượng ngày càng tăng kể
từ khi chuẩn bị xây dựng cho tới lúc chuẩn bị tổ chức thực hiện kế hoạch
nhằm đưa hoạt động của doanh nghiệp theo các mục tiêu đã định.
Theo quan niệm của STEINER thì: “Công tác lập kế hoạch là một quá
trình bắt đầu từ việc thiết lập các mục tiêu và quyết định chiến lược, các chính
sách, kế hoạch chi tiết để đạt được mục tiêu. Nó cho phép thiết lập các quyết
định khả thi và nó bao gồm chu kỳ mới của việc thiết lập mục tiêu và quyết
định chiến lược nhằm hoàn thiện hơn nữa”.
Trong cách tiếp cận này, khái niệm hiện tượng tương lai, tính liên tục
của quá trình, sự gắn bó của hành động và quyết định để đạt được mong muốn
đều đã được thể hiện.
Còn với cách tiếp cận theo nội dung và vai trò:
Theo HERY FAYOL: Kế hoạch là một trong những hoạt động cơ bản
của chu trình quản lý cấp công ty. Xét về mặt bản chất, hoạt động này là
nhằm xét các mục tiêu của phương án kinh doanh, bước đi trình tự và cách
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Theo RONNEY: Hoạt động kế hoạch là một trong hoạt động nhằm tìm
ra con đường huy động và sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả để
phục vụ các mục tiêu kinh doanh.
Trong thời bao cấp, ở Việt Nam quan niệm: Công tác lập kế hoạch (Xây
dựng kế hoạch) là tổng thể các hoạt động nhằm xác định các mục tiêu, các

nhiệm vụ của sản xuất kinh doanh, về tổ chức đời sống và tổ chức thực hiện
để đạt được các nục tiêu đó, trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan, các
chủ chương đường lối của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ.
Các khái niệm trên đây cho thấy khái niệm kế hoạch được đề cập chủ
yếu thông qua các nội dung của nó mà chưa làm nổi bật đặc tính về thời gian,
mức độ những nét hết sức đặc trưng của kế hoạch.
Theo cách tiếp cận hiện nay được nhiều người sử dụng ở Việt Nam thì:
Kế hoạch là những chỉ tiêu, những con số dự kiến, ước tính trước trong việc
thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó để đạt được hiệu quả cao nhất ( Tức là
phù hợp với yêu cầu về thị trường, phù hợp với pháp luật và khả năng thực tế
của doanh nghiệp ).
Theo quan niệm này thì những chỉ tiêu, những con số phải có cơ sở
khoa học, cơ sở thực tế và nó phải được thể hiện ở bảng biểu kế hoạch.
Những con số chỉ tiêu này mang tính khả năng và muốn biến chúng thành
hiện thực thì phải áp dụng hệ thống các biện pháp.
Như vậy, việc lập kế hoạch là quyết định trước xem trong tương lai phải
làm gì? Làm như thế nào? Và làm bằng công cụ gì? Khi nào làm? Và do ai
làm?.
Mặc dù ít tiên đoán được chính xác trong tương lai và những yếu tố nằm
ngoài sự kiểm soát có thể phá vỡ cả những kế hoạch tốt nhất đã có nhưng
không có kế hoạch thì các sự kiện xảy ra một cách ngẫu nhiên và ta sẽ mất đi
khả năng hành động một cách chủ động.
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
4
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2.Các hình thức kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp
Hệ thống kế hoạch của một tổ chức là tổng thể của nhiều loại kế hoạch
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo một định hướng chung nhằm thực hiện
mục tiêu tối cao của hệ thống.
Để đảm bảo hoạt động của một tổ chức cần phải xây dựng được một hệ

thống kế hoạch bao gồm nhiều loại kế hoạch khác nhau và được phân định
theo nhiều tiêu chí khác nhau.
*Các kế hoạch tác nghiệp:
Đây là loại kế hoạch nhằm cụ thể hoá chiến lược và triển khai các chiến
lược. Có hai nhóm cơ bản:
+ Kế hoạch tác nghiệp xây dựng một lần sử dụng một lần:
- Chương trình: bao gồm một số các mục đích, chính sách, thủ tục, quy
tắc, các nhiệm vụ được giao, các bước phải tiến hành, các nguồn lực có thể
huy động và các yếu tố khác. Chương trình được hỗ trợ bằng ngân quỹ cần
thiết. Một chương trình quan trọng thường ít khi đứng một mình, thường là
một bộ phận của một thống phức tạp.
Chương trình thường có mục tiêu lớn quan trọng, mang tính độc lập
tương đối trong quá trình phân bổ các nguồn lực để thực hiện mục tiêu.
- Dự án: Có mục tiêu thường cụ thể, quan trọng, mang tính độc lập tương
đối. Nguồn lực để thực hiện mục tiêu thường phải rõ ràng đối với tất cả các
hình thái nguồn lực theo thời gian và không gian.
- Các ngân sách( ngân quỹ ): Là bảng tường trình các kết quả mong
muốn được biểu thị bằng các con số. Có thể coi đó là chương trình được “số
hoá”. Ngân quỹ ở đây không đơn thuần là ngân quỹ bằng tiền, mà còn có
ngân quỹ thời gian, ngân quỹ nhân công, ngân quỹ máy móc thiết bị, ngân
quỹ nguyên vật liệu…
+ Kế hoạch tác nghiệp xây dựng một lần sử dụng nhiều lần:
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
5
Chuyên đề tốt nghiệp
- Chính sách: Là quan điểm, phương hướng và cách thức chung để ra
quyết định trong tổ chức. Trong một tổ chức có thể có nhiều loại chính sách
khác nhau cho những mảng hoạt động trọng yếu của tổ chức mình.
Chính sách là kế hoạch theo nghĩa nó là những quy định chung để hướng
dẫn hay khai thông cách suy nghĩ và hành động khi ra quyết định. Các chính

sách giúp cho việc giải quyết các vấn đề trong các tình huống nhất định và
giúp cho việc thống nhất các kế hoạch khác nhau của tổ chức. Các chính sách
là tài liệu chỉ dẫn cho việc ra quyết định trong phạm vi co dãn đó. Chính sách
khuyến khích tự do sáng tạo nhưng vẫn trong khuôn khổ một giới hạn nào đó,
tuỳ thuộc vào các chức vụ và quyền hạn trong tổ chức.
- Thủ tục: Là các kế hoạch thiết lập một phương pháp cần thiết cho việc
điều hành các hoạt động trong tương lai. Đó là sự hướng dẫn hành động, là
việc chỉ ra một cách chi tiết, biện pháp chính xác cho một hoạt động nào đó
cần phải thực hiện. Đó là chuỗi các hoạt động cần thiết theo thứ tự, theo cấp
bậc quản lý.
- Quy chế ( Quy tắc ): Giải thích rõ ràng những hành động nào có thể
làm, những hành động nào không được làm. Đây là loại kế hoạch đơn giản
nhất. Không nên nhầm lẫn giữa thủ tục và quy tắc. Các quy tắc gắn với hướng
dẫn hành động mà không ấn định trình tự thời gian, trong khi đó thủ tục cũng
bao hàm sự hướng dẫn những quy định cả trình tự thời gian cho các hành
động. Hơn nữa các chính sách hướng dẫn việc quyết định trong khi quy tắc
cũng là sự hướng dẫn nhưng không cho phép có sự lựa chọn trong khi áp
dụng chúng. Như vậy, so với quy tắc và thủ tục, chính sách có độ linh hoạt
cao hơn.
* Phân loại kế hoạch theo thời gian:
+ Kế hoạch dài hạn: Là kế hoạch cho thời kỳ từ 5 năm trở lên.
+ Kế hoạch trung hạn: Cho thời kỳ từ 1 đến 5 năm.
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
6
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Kế hoạch ngắn hạn: Cho thời kỳ dưới 1 năm.
* Phân loại theo cấp quản lý:
+ Kế hoạch cho toàn bộ doanh nghiệp
+ Kế hoạch cho các phân hệ và bộ phận của tổ chức.
+ Kế hoạch cho các cá nhân trong tổ chức.

1.1.3. Vai trò của kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp
Việc xây dựng kế hoạch có mục đích quan trọng bao gồm: Đối phó
những sự bất định và sự thay đổi, tập trung sự chú ý vào các mục tiêu, tạo khả
năng tác nghiệp kinh tế giúp cho các nhà quản lý kiểm tra.
* Đối phó với những sự bất định và sự thay đổi
Sự bất định và thay đổi làm cho việc xây dựng kế hoạch và thực hiện
kế hoạch trở thành tất yếu. Giống như một nhà hàng hải không chỉ lập hành
trình một lần rồi quên nó, một người kinh doanh không thể xây dựng một kế
hoạch sản xuất và dừng lại ở đó. Tương lai rất ít khi chắc chắn, tương lai càng
xa thì kết quả của quyết định mà ta cần phải xem xét sẽ càng kém chắc chắn,
một uỷ viên quản trị kinh doanh có thể thấy hoàn toàn chắc chắn rằng: Trong
tháng tới các đơn đặt hàng, các chi phí sản xuất, năng xuất lao động, sản
lượng, dự trữ tiền mặt sẵn có, và các yếu tố khác của môi trường kinh doanh
sẽ ở một mức độ xác định. Song, một đám cháy, một cuộc bãi công không
biết trước, hoặc việc huỷ bỏ một đơn đặt hàng của một khách hàng chủ yếu sẽ
làm đảo lộn tất cả. Hơn nữa, nếu xây dựng kế hoạch cho một thời gian càng
dài thì người quản lý càng ít nắm chắc về môi trường kinh doanh bên trong và
bên ngoài và về tính đúng đắn của mọi quyết định.
Thậm chí ngay khi tương lai có độ chắc chắn cao, thì một số kế
hoạch cần thiết:
Thứ nhất là: Các nhà quản lý vẫn phải tìm cách tốt nhất để đạt được mục
tiêu. Với điều kiện chắc chắn, trước hết đây là vấn đề thuộc toán học tính
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
7
Chuyên đề tốt nghiệp
toán, dựa trên các sự kiện đã biết xem tiến trình nào sẽ đem lại kết quả mong
muốn với chi phí thấp nhất.
Thứ hai là: Sau khi tiến trình đã được xác định, cần phải đưa ra các kế
hoạch để sao cho mỗi bộ phậncủa tổ chức sẽ biết cần phải đóng góp như thế
nào vào công việc phải làm.

Ngay sau khi có thể dễ dàng dự đoán được sự thay đổi thì vẫn nảy sinh
những khó khăn khi xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch. Ví dụ: Việc
sản xuất loại ô tô nhỏ sử dụng ít nhiên liệu thì không thể ngay lập tức chuyển
từ sản xuất ô tô cỡ lớn và cỡ trung bình sang cỡ nhỏ, nhà sản xuất phải quyết
định tỷ lệ sản xuất giữa các loại ô tô và làm thế nào để trang bị máy móc cho
cả dây truyền này sản xuất có hiệu quả. Tuy nhiên, nhà sản xuất có thể lựa
chọn các phương hướng rất khác nhau, khi đã nắm chắc về sự thay đổi công
ty có thể cân nhắc kỹ lưỡng để bán cổ phần kinh doanh xe cỡ lớn và cỡ trung
bình để tập trung vào việc thiết kế và sản xuất loại xe ô tô cỡ nhỏ. Thực tế,
đây là cách mà các công ty Nhật Bản đã làm và họ đã thành công trong kinh
doanh.
Khi các nhà quản lý không thể thấy được các xu thế một cách dễ dàng
thì việc có được một kế hoạch tốt có thể gặp nhiều khó khăn hơn nữa. Nhiều
nhà quản trị đã đánh giá thấp hoặc không đánh giá đủ sớm về tầm quan trọng
của giá cả lạm phát, về sự tăng lãi suất nhanh chóng và khủng hoảng năng
lượng những năm 70, kết quả là họ đã đối phó không kịp thời với những biến
động về thị trường và vật liệu dẫn tới tăng chi phí sản xuất. Thẩm chí đến cuối
những năm 1960 và đầu 1970 sự cố ô nhiễm nước và không khí cũng chưa
được quan tâm đúng mức.
* Tập trung sự chú ý vào các mục tiêu
Do toàn bộ công việc xây dựng và thực hiện kế hoạch là phần đạt được
các mục tiêu của cơ sở, cho nên chính hoạt động xây dựng và thực hiện kế
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
8
Chuyên đề tốt nghiệp
hoạch tập trung sự chú ý vào các mục tiêu này. Nhưng kế hoạch được xem xét
đủ toàn diện sẽ thống nhất được những hoạt động tương tác giữa các bộ phận.
Nhưng người quản lý, mà họ thực sự đang gặp phải những vấn đề cấp bách,
buộc phải thông qua việc xây dựng và thực hiện kế hoạch để xem xét tương
lai, thậm chí cần phải định kỳ sửa đổi và mở rộng kế hoạch để đạt được các

mục tiêu đã định.
* Tạo khả năng tác nghiệp kinh tế
Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch sẽ cực tiểu hoá chi phí vì nó chú
trọng vào các hoạt động hiệu quả và phù hợp.
Kế hoạch thay thế cho sự hoạt động manh mún, kế hoạch không được
phối hợp bằng sự nỗ lực có định hướng chung, thay thế những phán xét vội
vàng bằng những quyết định có cân nhắc kỹ lưỡng.
Ở phạm vi cơ sở sản xuất, tác dụng của việc xây dựng và thực hiện kế
hoạch càng rõ ràng. Không một ai, đã từng ngắm nhìn bộ phận lắp ráp ô tô
trong một nhà máy lớn mà lại không có ấn tượng về cách thức mà các bộ
phận và các dây chuyền phụ ghép nối với nhau. Từ hệ thống băng tải chính
hình thành ra thân xe, và các bộ phận khác nhau được hình thành từ các dây
chuyền khác. Động cơ, bộ truyền lực và các phụ kiện được đặt vào chỗ một
cách chính xác đúng vào thời điểm đã định. Quá trình này đòi hỏi phải có một
kế hoạch sâu rộng và chi ly mà nếu thiếu chúng việc sản xuất ô tô sẽ rối loạn
và tốn kém quá mức.
* Làm dễ dàng cho việc kiểm tra
Người quản lý không thể kiểm tra công việc của các cấp dưới nếu không
có được mục tiêu đã định để đo lường. Như một người lãnh đạo cấp cao đã
từng nói: “Sau khi tôi rời khỏi văn phòng lúc 5 giờ chiều, tôi không còn quan
tâm tới những việc đã xảy ra trong ngày hôm đó, tôi chẳng thể làm gì được
nữa, tôi chỉ xem xét những việc có thể xảy ra vào ngày mai hoặc ngày kia,
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
9
Chuyên đề tốt nghiệp
hoặc vào năm tới, bởi vì tôi còn có thể làm được một việc gì đó về những vấn
đề này”. Có lẽ đây là một quan niệm cực đoan, nhưng nó cũng nhấn mạnh tới
một điều quan trọng là sự kiểm tra có hiệu quả là sự kiểm tra hướng tới tương
lai.
1.2.Lý luận xây dựng kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp

1.2.1. Các chỉ tiêu của kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp
Các chỉ tiêu kế hoạch là các đích, các mục tiêu hoạt tiêu hoạt động của
doanh nghiệp, có thể tính toán, so sánh, phân tích được. Hệ thống chỉ tiêu kế
hoạch của doanh nghiệp có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau:
+ Căn cứ vào tính chất của các chỉ tiêu
- Các chỉ tiêu chất lượng: Bao gồm các chỉ tiêu phản ánh các mặt chất
lượng của hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, chỉ tiêu năng suất lao động, tỷ lệ
lợi nhuận bình quân, tỷ lệ doanh thu…
- Các chỉ tiêu sản lượng: Bao gồm các chỉ tiêu về hướng phấn đấu của
doanh nghiệp về mặt sản lượng, quy mô… của các hoạt động. Ví dụ chỉ tiêu
giá trị sản lượng hàng hoá, giá trị tổng sản lượng, số lượng lao động các
loại…
+ Căn cứ vào đơn vị tính toán:
- Các chỉ tiêu giá trị: Là các chỉ tiêu được đo lường bằng đơn vị tiền tệ.
- Các chỉ tiêu hiện vật: Là các chỉ tiêu được đo bằng các đơn vị hiện vật
như: Tấn, lít, cái, chiếc, bộ…
+ Căn cứ vào phân cấp quản lý:
- Các chỉ tiêu pháp lệnh: Là các chỉ tiêu của Nhà nước giao cho các doanh
nghiệp. Đó là các chỉ tiêu được quy định thống nhất về nội dung phương pháp
tính toán có tính chất bắt buộc trong thực hiện.
- Các chỉ tiêu hướng dẫn: Là chỉ tiêu không có ý nghĩa bắt buộc trong
thực hiện, song lại bắt buộc về nội dung và phương pháp tính toán. Trong
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
10
Chuyên đề tốt nghiệp
điều kiện nền kinh tế thị trường các chỉ tiêu này được áp dụng rộng rãi nhằm
phục vụ hoạt động thông tin kinh tế và phân tích các chỉ tiêu kinh tế quốc dân.
- Các chỉ tiêu tính toán: Là các chỉ tiêu từng doanh nghiệp quy định và
tính toán phục vụ cho công tác quản lý và kế hoạch trong phạm vi doanh
nghiệp.

1.2.2. Phương pháp luận xây dựng kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp
+ Công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh:
Việc chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước có thể nói là một bước ngoặc lớn trong định hướng phát triển kinh
tế ở nước ta. Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế đã tạo ra cho các doanh nghiệp
nhiều thuận lợi, đó là sự tự chủ, năng động trong sản xuất kinh doanh trên cơ
sở pháp luật của Nhà nước, tự do liên doanh, liên kết…
Bên cạnh những thuận lợi đó thì cơ chế thị trường cũng tạo ra những
điều kiện và yêu cầu rất khắc nghiệp mà các doanh nghiệp hoạt động này
muốn tồn tại phải đáp ứng tốt các yêu và các điều kiện đó. Muốn vậy, các
doanh nghiệp phải thực hiện tốt công tác quản lý, trong đó công tác kế hoạch
là công tác quan trọng và cần thiết để góp phần làm cho doanh nghiệp đáp
ứng các yêu cầu và điều kiện của thị trường. Nhưng thực trạng công tác kế
hoạch hầu hết trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiện nay vẫn chưa
được coi trọng, chưa đi sâu, đi sát, chi tiết hoá. Do đó chưa tạo ra hiệu quả tốt
nhất của công tác này. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng và thay đổi cách làm
của công tác kế hoạch của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Cơ chế thị trường tạo ra những yêu cầu
và điều kiện đối với các doanh nghiệp, các doanh nghiệp ngày càng có ít cơ
hội kinh doanh có hiệu quả hơn. Do đó, doanh nghiệp nào chớp nhanh được
các cơ hội hoặc tạo ra các cơ hội tốt hơn thì sẽ tồn tại và phát triển bền vững,
tức là xây dựng kế hoạch hợp lý và thực hiện đúng tiến độ với kế hoạch đã đề
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
11
Chuyên đề tốt nghiệp
ra để chớp được cơ hội kinh doanh đó. Thực tế đã chứng minh, để làm được
một công việc đạt kết quả cao doanh nghiệp nhất thiết phải xây dựng kế
hoạch cụ thể. Công Việc này được tiến hành là kết quả của hoạt động chủ
quan, có ý thức của chủ thể hành động. Bản thân kế hoạch đã cho thấy một sự
sắp xếp tương lai. Chính vì vậy, kế hoạch bao giờ cũng đi trước một bước,

bảo đảm các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra nhịp
nhàng liên tục. Đối với kế hoạch năm thì vào tháng 11 của năm báo cáo,
doanh nghiệp phải xây dựng xong kế hoạch, phương hướng phấn đấu cho
năm tới. Còn đối với kế hoạch tác nghiệp theo quý, tháng thì đến ngày 25, 27
hàng tháng phải hoàn thành xong việc xây dựng kế hoạch tháng sau. Riêng
đối với kế hoạch sản xuất thì lại càng coi trọng bởi vì nó có tính chất như là
một kế hoạch mục tiêu.
Kế hoạch sản xuất kinh doanh xây dựng sớm sẽ là căn cứ để các kế
hoạch hỗ trợ xây dựng đúng tiến độ, chuẩn bị tốt cho giai đoạn thực hiện tổ
chức sản xuất. Nhờ đó, các nguồn lực của doanh nghiệp có thể được huy động
để cung ứng đúng lúc, về số lượng, chất lượng, chủng loại. Làm được như vậy
là doanh nghiệp đã thực hiện tiết kiệm được tiền lãi phải trả nếu là vốn vay,
tiết kiệm vì không để vốn ứ đọng, không sinh lời và nằm ở những yếu tố đầu
vào chưa cần thiết, tận dụng tối đa, nâng cao hệ số thời gian sử dụng máy,
thời gian lao động của công nhân… để làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Hơn nữa, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần khai thác triệt
để mọi khả năng của doanh nghiệp thông qua cân đối giữa nhu cầu và khả
năng. Khi nhu cầu cao hơn khả năng, doanh nghiệp nên tập trung tìm ra biện
pháp nhằm đáp ứng được cao nhất nhu cầu thị trường. Lúc này doanh nghiệp
nên lựa chọn đoạn thị trường mà khả năng phục vụ của doanh nghiệp là tốt
nhất, hiệu quả nhất và đi vào khai thác nó chứ không nên đầu tư dàn trải. Bên
cạnh đó, doanh nghiệp cũng có thể phát huy được khả năng liên doanh, hợp
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
12
Chuyên đề tốt nghiệp
tác kinh tế, tổ chức hoạt động thương mại (mua để bán) nhằm phục vụ khách
hàng với chất lượng tốt nhất.
Ngược lại, khi nhu cầu thấp hơn khả năng, ban lãnh đạo doanh nghiệp phải
tìm cách đa dạng hoá mở rộng phạm vi hoạt động trong điều kiệm mình có
thể. Đây là lúc cần sự linh hoạt của doanh nghiệp. Người lao động có thể tạm

thời nghỉ việc nhưng máy móc thiết bị ngừng hoạt động vẫn bị hao mòn,
những bất ổn định khác xảy ra khi người lao động không có thu nhập. Chính
vì vậy, hoạt động kinh doanh tổng hợp luôn gắn liền với hoạt chuyên môn hoá
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền chủ động khai
thác những sản phẩm tương tự, các sản phẩm phụ bên cạnh mặt hàng chủ đạo
của mình để đưa vào kế hoạch sản xuất.
Mục tiêu lợi nhuận của các doanh nghiệp hiện là mục tiêu hàng đầu. Do
đó, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải đảm bảo đem lại lợi
ích tối đa cho doanh nghiệp. Bằng cách lựa chọn đúng mặt hàng sản xuất mà
doanh nghiệp có ư thế, sản phẩm phù hợp voới yêu cầu của thị trường về số
lượng, chất lượng, tận dụng tối đa những cơ hội thị trường mang lại cho
doanh nghiệp, thực hiện phân tích đánh giá hiệu quả sản xuất, hiệu quả kinh
tế (thu > chi). Kế hoạch sản xuất được lập sẽ giúp cho doanh nghiệp thu được
lợi nhuận tối đa.
Qua sự phân tích trên cho thấy: Một kế hoạch chất lượng là cơ sở chuẩn bị
tốt các điều kiện, yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất hàng hoá của doanh
nghiệp, tổ chức tốt quá trình kết hợp giữa các yếu tố để sản xuất ra hàng hoá
có chất lượng cao và giá thành hạ phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng…
Sản phẩm chất lượng cao có được dựa trên hệ thống định mức tiên tiến, phù
hợp với người lao động. Kế hoạch là cái móc cho người lao động phấn đấu
hoàn thành vượt mức kế hoạch giao. Nó là cơ sở để doanh nghiệp xây dựng
chế độ thưởng phạt thích đáng. Hệ thống định mức tiêu hao nguyên vật liệu,
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
13
Chuyên đề tốt nghiệp
hệ số thời gian lao động hữu ích, kế hoạch buộc người lao động phải tuân thủ,
thực hiện tiết kiệm vật tư, làm ra sản phẩm có chất lượng đạt yêu cầu, đồng
thời nâng cao hiệu quả sử dụng lao động. Một kế hoạch chất lượng có ý nghĩa
quan trọng trong việc giảm số giờ máy ngừng (tăng hệ số thời gian sử dụng
máy móc) nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Giúp cho doanh nghiệp

vừa không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh vừa tiết kiệm được chi phí cơ hội.
+ Những yêu cầu đổi mới công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp:
Công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất trong cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp có những lợi ích nhất định. Nhưng khi chuyển sang cơ chế
thị trường nó không còn phù hợp nữa. Do vậy yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với
doanh nghiệp là phải đổi mới công tác kế hoạch sản xuất kinh doanh của đơn
vị mình cho phù hợp với cơ chế thị trường. Quá trình đổi mới đó cần quán
triệt các yêu cầu chủ yếu sau đây:
- Công tác kế hoạch hoá trong doanh nghiệ, quán triệt yêu cầu hiệu quả:
Các doanh nghiệp hoạt động đều hướng tới mục tiêu hiệu quả, nó là tiêu
chuẩn hàng đầu cho việc xây dựng, lựa chọn và quyết định phương án kế
hoạch của doanh nghiệp.
- Kế hoạch doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu hệ thống đồng bộ: Nền
kinh tế quốc dân là một hệ thống thống nhất, bao gồm các phân hệ là các
doanh nghiệp. Thực hiện yêu cầu này, trong các khâu công tác kế hoạch hoá
phải đảm bảo cho mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp đúng hướng và góp
phần thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu bao trùm của cả hệ thống.
- Công tác kế hoạch hoá doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu “vừa tham
vọng vừa khả thi”: Mục tiêu lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp công nghiệp
phải xây dựng để thực hiện các phương án đó. Tuy nhiên các kế hoạch này
phải có khả năng thực thi.
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
14
Chuyên đề tốt nghiệp
- Công tác kế hoạch hoá doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu “kết hợp
mục tiêu chiến lược với mục tiêu tình thế”: Hay hệ thống mục tiêu kế hoạch
phải được xây dựng và điều chỉnh linh hoạt theo yêu cầu thay đổi của môi
trường và điều kiện kinh doanh.
- Công tác kế hoạch hoá doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu kết hợp

đúng đắn các loại lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp kể cả lợi ích kinh tế trong
doanh nghiệp kể cả lợi ích xã hội. Đây là động lực cho sự phát triển, là cơ sở
cho việc thực thi có hiệu quả các phương án kinh doanh.
+ Quan điểm khi xây dựng kế hoạch:
Sau hơn 20 năm đổi mới công tác kế hoạch ở các doanh nghiệp tuy đã có
nhiều chuyển biến tích cực song cũng có nhiều khó khăn và hạn chế. Vì vậy,
kế hoạch trong doanh nghiệp đang tiếp tục được đổi mới và hoàn thiện trên
các mặt sau: Thực hiện cơ chế tự chủ trong quá trình xây dựng, điều chỉnh, tổ
chức thực hiện và đánh giá thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường đều phải hướng vào
mục tiêu lợi nhuận và phục vụ khác hàng. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp
phải tự nghiên cứu để nắm vững thị trường, xác định phương án kinh doanh
trên cơ sở nhận thức các cơ hội và rủi ro trên thị trường. Về nguyên tắc trong
điều kiện mới các doanh nghiệp được chủ động xây dựng kế hoạch của mình
trên cơ sở phải đảm bảo thục hiện các chỉ tiêu pháp lệnh và hợp đồng ký kết,
tuy vậy phạm vi tự chủ và các biện pháp thực hiện của Nhà nước cần phải xác
định cụ thể cho từng loại doanh nghiệp.
+ Căn cứ xây dựng kế hoạch
Việc xác định các căn cứ vững chắc để xây dựng kế hoạch là việc làm
rất quan trọng và cần thiết nhằm đảm bảo cho kế hoạch của doanh nghiệp
được hoạch định khả thi và đạt hiệu quả cao.
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
15
Chuyên đề tốt nghiệp
- Căn cứ vào chủ trương, đường lối,chính sách phát triển kinh tế xã hội
của Đảng và Nhà nước.
Trong công tác hoạch định về nguyên tắc doanh nghiệp được quyền tự
chủ, song giới hạn và phạm vi của việc phát huy quyền tự chủ là pháp luật và
chính sách phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã
hội của Đảng và Nhà nước. Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, nếu

những hoạt động của nó đi ngược lại xu thế phát triển, phạm vi những lợi ích
chung của nền kinh tế (hệ thống) nó sẽ bị đào thải, ngược lại nếu nhận thức và
hoà mình vào xu thế phát triển thì nó mới có thể phát triển bền vững và ổn
định.
Căn cứ này góp phần làm cho phương án phát triển của doanh nghiệp
hợp lý, đúng hướng.
- Căn cứ vào kết quả điều tra nghiên cứu nhu cầu của thị trường.
Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh
vực hoạt động và phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Kết quả nghiên
cứu nhu cầu thị trường phải phản ánh được quy mô, cơ cấu đối với từng sản
phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, có tính đến tác động của các nhân tố làm
tăng hoặc giảm cầu để đáp ứng yêu cầu của công tác hoạch định. Những kết
quả nghiên cứu này có thể tập hợp theo mức giá để xác định mục tiêu kinh
doanh phù hợp với phân đoạn thị trường hoặc theo khách hàng để đảm bảo sự
gắn bó giữa sản xuất với các yếu tố hỗ trợ. Căn cứ vào số lượng các đối thủ
cạnh tranh, sự biến động giá cả trên thị trường sẽ làm tăng hiệu quả thực hiện
của phương án kế hoạch.
Đối với doanh nghiệp trong ngành xây dựng thì thị trường cũng lại rất
đặc biệt cũng như đặc trưng về sản phẩm của nó. Do đó việc nghiên cứu nhu
cầu thị trường là rất quan trọng trong công tác xây dựng và thực hiện kế
hoạch của Công ty.
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
16
Chuyên đề tốt nghiệp
- Căn cứ vào kết quả phân tích và dự báo về tình hình sản xuất kinh doanh,
về khả năng và nguồn lực có thể khai thác:
Doanh nghiệp căn cứ vào kết quả phân tích hoạt động kinh tế thời kỳ
trước và dự báo khả năng trong tương lai ứng với các nguồn lực có thể có, đặc
biệt là dựa vào những lợi thế vượt trội của doanh nghiệp về các mặt chất
lượng sản phẩm, kênh tiêu thụ hợp tác liên doanh, khoa học công nghệ, cạnh

tranh sẽ góp phần làm tăng tính khả thi của các phương án kế hoạch. Trong
tâm phân tích cần tập trung vào các chỉ tiêu chất lượng của hoạt động sản xuất
kinh doanh.
- Căn cứ vào hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật:
Đây là căn cứ quan trọng làm cơ sở cho công tác hoạch định. Môi trường
kinh doanh biến đổi rất nhanh đòi hỏi hệ thống này cần được hoàn thiện và
sửa đổi sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Hệ thống định mức kỹ thuật của doanh
nghiệp phải gắn bó phù hợp với hệ thống định mức tiêu chuẩn của ngành và
nền kinh tế quốc dân.
+ Quy trình xây dựng kế hoạch:
Quá trình xây dựng kế hoạch trong các doanh nghiệp bao gồm nhiều
khâu. Từ khâu chuẩn bị đến khâu kết thúc là tạo được một kế hoạch tối ưu
được thông qua và áp dụng.
Có thể mô tả quy trình xây dựng và thực hiện kế hoạch theo các bước sơ
đồ sau:

SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Sơ đồ 1: Quy trình xây dựng và thực hiện kế hoạch


SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
Khẳng định kế hoạch
bậc cao hơn
Nghiên cứu và dự báo
Xác định và lựa chọn
các cơ hội kinh doanh
Xác định các mục tiêu
hoạt động sản xuất KD

18
Xây dựng các phương
án sản xuất kinh doanh
Lựa chọn các phương án
sản xuất KD tối ưu
Thông qua và quyết
định kế hoạch SXKD
Chuyên đề tốt nghiệp
Bước 1: Khẳng định kế hoạch bậc cao hơn
Kế hoạch bậc cao hơn gồm các đường lối và các mục tiêu của cấp trên,
trước khi hoạch định một kế hoạch nào đó các nhà hoạch định phải xem xét
đường lối, các mục tiêu tổng thể của cấp trên. Vì kế hoạch đặt ra cũng như
các mục tiêu không thể mâu thuẫn với các đường lối và các mục tiêu của cấp
trên.
Bước 2: Xác định và lựa chọn các cơ hội kinh doanh
Đây là bước khởi đầu của quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch sản
xuất kinh doanh. Ở bước này người xây dựng kế hoạch phải nhận thức rõ
được trên thị trường có những cơ hội nào thuận lợi hoặc khó khăn cho doanh
nghiệp mình. Từ đó lựa chọn các cơ hội để hoạch định kế hoạch một cách tối
ưu. Cơ hội đó có thể là một nhu cầu mới xuất hiện của người tiêu dùng hoặc
những thông tin về thị trường, về cạnh tranh, về quy mô, về cơ cấu nhu cầu,
điểm mạnh điểm yếu cùng với khả năng và nguồn lực của doanh nghiệp.
Hai bước khẳng định kế hoạch bậc cao và nghiên cứu dự báo là 2 khâu
không nằm trong quá trình hoạch định kế hoạch mà là khâu tiền hoạch định.
Bước 3: Xác định các mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh
Ở bước này các nhà hoạch định cần phải biết rõ các cơ hội kinh doanh của
doanh nghiệp mình và nắm được khả năng nguồn lực của doanh nghiệp mình,
từ đó đi tới các mục tiêu của chính sách. Các mục tiêu này có thể là mục tiêu
dài hạn (chiến lược) hoặc các mục tiêu ngắn hạn như mục tiêu về tốc độ tăng
trưởng kinh doanh, mục tiêu về lợi nhuận.

Bước 4: Xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh
Có nhiều cách thức để đạt được mục tiêu, đó chính là các phương án, mỗi
phương án sản xuất kinh doanh đều đưa đến các mục tiêu cần đạt được. Các
phương án sản xuất kinh doanh này đều được xây dựng dựa trên nhiều con
đường. Các con đường đó đều đi tới nục tiêu đã định.
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Bước 5: Lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh tối ưu
Khi đã xác định được các phương án sản xuất kinh doanh ở bước 4. Các
nhà hoạch định chính sách cần phải lựa chọn, xem xét xem các phương án
nào là tối ưu nhất tức là các phương án nào đạt mục tiêu một cách hiệu quả
nhất và nhanh nhất, ít tốn chi phí nhất. Đồng thời các phương án được lựa
chọn tối ưu phải giải quyết được những vấn đề kinh tế xã hội đang được đặt
ra.
Bước 6: Thông qua và quyết định sản xuất kinh doanh
Khi các nhà hoạch định đã xác định được các phương án tối ưu, phương
án tối ưu này phải được đưa ra hội đồng quản trị, hoặc các phòng ban có liên
quan, sau đó các phòng ban này thông qua đồng ý với các phương án được
lựa chọn và thực hiện phương án, quyết định và thể chế thành một kế hoạch
sản xuất kinh doanh cụ thể.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác xây dựng và thực hiện kế
hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp
Nếu như vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là tất yếu trong thời đại
ngày nay thì vai trò to lớn của kế hoạch là không thể phủ nhận được, không
có kế hoạch thì một công ty hay bất kỳ một tổ chức nào khác sẽ như con
thuyền không người lái và chỉ chạy vòng quanh. Không có kế hoạch sẽ chẳng
còn đất để doanh nghiệp hoạt động vì lý do đơn giản chẳng ai biết nó định đi
đâu. Có thể thấy công tác kế hoạch chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tố sau:
+ Tính không chắc chắn của môi trường kinh doanh

Xây dựng kế hoạch là quá trình chuẩn bị để đối phó với sự thay đổi và
tình huống không chắc chắn của môi trường kinh doanh mà chủ yếu là các
nhân tố trong môi trường nền kinh tế và môi trường ngành. Tuy nhiên vấn đề
quan trọng là phải tính toán, phán đoán được sự tác động của môi trường kinh
doanh.
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
20
Chuyên đề tốt nghiệp
Sự không chắc chắn của môi trường kinh doanh được thể hiện dưới 3
hình thức sau:
Tình trạng không chắc chắn: Xảy ra khi toàn bộ hay một phần môi trường
được coi là không thể tiên đoán được.
Hậu quả không chắc chắn: Là trường hợp mặc dù đã cố gắng nhưng nhà
quản lý không thể tiên đoán được những hậu quả của sự kiện hay sự thay đổi
của môi trường đối với các doanh nghiệp, do đó dẫn đến sự không chắc chắn.
Sự phản ứng không chắc chắn: Là tình trạng không thể tiên đoán được
những hệ quả của một quyết định cụ thể hay sự phản ứng của tổ chức đối với
những biến động của môi trường.
Nhìn chung công việc của người xây dựng kế hoạch phải đánh giá tính
chất và mức độ không chắc chắn của môi trường để xác định cách thức phản
ứng của tổ chức và triển khai các kế hoạch thích hợp ở những lĩnh vực có
mức độ không chắc thì việc xây dựng kế hoạch là không mấy phức tạp, nhưng
những lĩnh vực có mức độ không chắc chắn cao đòi hỏi kế hoạch phải được
xác định rất linh hoạt.
+ Sự hạn chế của các nguồn lực
Khi xây dựng và thực hiện kế hoạch doanh nghiệp đã gặp một trở ngại lớn
là sự hạn chế của các nguồn lực. Thực tế cho thấy sự khan hiếm của các
nguồn lực là bài toán làm đau đầu các nhà quản trị khi xây dựng và thực hiện
kế hoạch. Chính điều này nhiều khi làm giảm mức tối ưu của phương án kế
hoạch được lựa chọn.

Trước hết cần nói đến nguồn nhân lực, đây vốn được coi là một trong
những thế mạnh của Việt Nam nhưng thực tế ở các doanh nghiệp còn rất nan
giải. Lực lượng lao động thừa về số lượng nhưng lại yếu về chất lượng. Số
lượng lao động có trình độ quản lý, tay nghề cao vẫn thiếu, lực lượng lao
động trẻ vẫn còn phải đào tạo nhiều.
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
21
Chuyên đề tốt nghiệp
Tiếp đến cần phải kể đến sự hạn hẹp về tài chính. Tiềm lực tài chính yếu
sẽ cản trở sự triển khai các kế hoạch, hơn nữa nó cũng giới hạn việc lựa chọn
những phương án tối ưu.
Cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung của doanh nghiệp cũng là nguồn lực
hạn chế. Đó là khả năng hạn chế về máy móc thiết bị, công nghệ, nhà xưởng
kho tàng… Thực tiễn ở các doanh nghiệp ở nước ta hệ thông cơ sở vật chất kỹ
thuật còn rất yếu và thiếu. Điều đó đã cản trở việc xây dựng và lựa chọn
những kế hoạch sản xuất tối ưu nhất…
+ Hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp
Mục tiêu được hiểu theo một cam kết cụ thể đối với thực hiện một kết quả
có thể đo lường trong khoảng thời gian đã định. Các mục tiêu được xác định
càng cụ thể càng tốt trên phương diện: Số lượng, các điều kiện cụ thể hay
những dữ liệu có thể đo lường được và được thể hiện trong những khoảng
thời gian nhất định. Dưới đây là 3 câu hỏi để kiểm tra và điều chỉnh một mục
tiêu:
- Mục tiêu đã đề cập đến kết quả hoàn thành như thế nào?
- Mục tiêu này xác định khi nào thì kết quả chờ đợi được hoàn thành?
- Có thể đo lường được kết quả chờ đợi hay không?
Mục tiêu hữu ích của doanh nghiệp phải thoả mãn cả 3 câu hỏi này, nếu
mục tiêu không thoả mãn bất kỳ câu hỏi nào cũng gây khó khăn cho quá trình
xây dựng và thực hiện kế hoạch.
+ Quá trình tổ chức thông tin, thống kê, kế toán

Nhà kinh tế học người Anh Roney cho Rằng: “Muốn chiến thắng trong
cạnh tranh một mặt công ty hoạt động trong nền kinh tế thị trường trước hết
phải nắm được thông tin, tiếp đó phải xây dựng cho mình các chiến lược và
kế hoạch đầy tham vọng”.
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
22
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh thông tin sẽ giúp
ta đánh giá so sánh và lựa chọn phương án… Thông tin giúp bộ phận lãnh đạo
của doanh nghiệp có được các quyết định đúng đắn, kịp thời.
Thống kê và kế toán là hai công cụ đặc biệt có ý nghĩa đối với công tác
quản lý và công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh nói riêng. Tổ
chức thống kê, kế toán đầy đủ, chính xác, kịp thời, sẽ đảm bảo cho doanh
nghiệp thực sự đi vào cơ chế hạch toán, xây dựng có hiệu quả giúp cho bộ
phận kế hoạch lựa chọn, xây dựng những phương án sản xuất tối ưu nhất. Tuy
nhiên ở nước ta các doanh nghiệp chưa thực sự chú ý đúng mức công tác
thống kê.
+ Cơ chế quản lý kinh tế và kế hoạch hoá của Nhà nước
Đây là nhóm nhân tố có ảnh hưởng sâu sắc đến công tác xây dựng kế
hoạch sản xuất kinh doanh. Một cơ chế quản lý phù hợp sẽ thúc đẩy hoạt
động kế hoạch sản xuất phát triển, ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển của
doanh nghiệp. Thực tế trong những năm chuyển đổi cơ chế quản lý cho thấy
càng đi sâu vào cơ chế thị trường càng phát sinh nhiều vấn đề mới cần tiếp tục
nghiên cứu giải quyết để hoàn thiện cơ chế quản lý và kế hoạch của Nhà
nước. Nhà nước cần tiếp tục giải quyết các tồn đọng, vướng mắc trong những
năm chuyển đổi để thực sự tạo quyền tự chủ cho doanh nghiệp song vẫn đảm
bảo yêu cầu quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước.
1.2.4. Phương pháp xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh
Trong thực tế các doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều phương pháp hoạch
định. Tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu mà các doanh nghiệp áp dụng các

phương pháp khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay các doanh nghiệp chủ yếu vẫn
sử dụng phương pháp cân đối trong việc xây dựng kế hoạch.
+ Phương pháp cân đối
Phương pháp này gồm các bước sau:
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
23
Chuyên đề tốt nghiệp
Bước 1: Xác định khả năng (bao gồm khả năng sẵn có và khả năng chắc
chắn có) của doanh nghiệp và yếu tố sản xuất.
Bước 2: Cân đối giữa nhu cầu và khả năng về các yếu tố sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, phương pháp cân đối được xác định với những
yêu cầu sau:
- Cân đối được thực hiện là cân đối động. Cân đối để lựa chọn phương án
chứ không phải cân đối theo phương án đã được chỉ định. Các yếu tố của cân
đối là những yếu tố biến đổi theo môi trường kinh doanh, đó là nhu cầu thị
trường và khả năng có thể khai thác của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
- Thực hiện cân đối liên hoàn, tức là tiến hành nhiều cân đối kế tiếp nhau
để bổ sung và điều chỉnh phương án cho phù hợp với thay đổi của môi
trường.
- Thực hiện cân đối trong những yếu tố trước khi tiến hành cân đối tổng
thể các yếu tố. Kết quả cân đối tổng hợp phải là căn cứ xác định năng lực sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là cơ sở để xác định hoặc điều chỉnh
phương án kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Phương pháp tỷ lệ cố định
Nội dung của phương pháp này là tính toán một số chỉ tiêu của năm kế
hoạch theo tỷ lệ đã được xác định trong năm báo cáo trước đó. Có nghĩa là coi
tình hình của năm kinh doanh giống như tình hình của năm báo cáo đối với
một số chỉ tiêu nào đó.
Phương pháp này cho thấy kết quả nhanh nhưng thiếu chính xác nên chỉ
sử dụng trong trường hợp không đòi hỏi độ chính xác cao và thời gian không

cho phép dài.
+ Phương pháp phân tích chu kỳ sống của sản phẩm
Chu kỳ sống của sản phẩm (vòng đời của sản phẩm) là khoảng thời gian
từ khi nó được đưa ra thị trường cho đến khi nó không tồn tại trên thị trường.
Trừ một số sản phẩm hàng hoá thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày, hàng
hoá có tính chất thời trang, mau hỏng hoặc sản phẩm có thời vụ… còn lại, nói
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
24
Chuyên đề tốt nghiệp
chung chu kỳ sống của sản phẩm được đặc trưng bởi 4 giai đoạn chủ yếu (4
pha): Triển khai (thâm nhập), tăng trưởng, bão hoà và suy thoái. Tương ứng
với mỗi giai đoạn là các vấn đề và cơ hội kinh doanh. Doanh nghiệp cần nhận
biết đặc điểm của từng giai đoạn để quyết định khối lượng sản xuất, vì mỗi
giai đoạn của chu kỳ sống có mức độ tiêu thụ trên thị trường khác nhau.
+ Phương pháp đường cong kinh nghiệm
Thực chất của phương pháp này là phân tích đối thủ cạnh tranh trong cùng
ngành nghề trên cơ sở mối quan hệ giữa việc giảm chi phí trên một đơn vị sản
phẩm và việc tăng số lượng sản phẩm, từ đó tiến hành xây dựng và thực hiện
kế hoạch kinh doanh.
+ Phương pháp mô hình PIMS (chiến lược thị trường ảnh hưởng đến lợi
nhuận)
Theo phương pháp này, khi hoạch định kế hoạch doanh nghiệp phải phân
tích 6 vấn đề lớn:
- Sức hấp dẫn của thị trường như: Mức tăng trưởng thị trường, tỷ lệ xuất
khẩu…
- Tình hình cạnh tranh: Phân tích thị trường tương đối của doanh nghiệp
so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất.
- Hiệu quả của hoạt động đầu tư: Cường độ đầu tư, doanh thu trên mỗi
hoạt động đầu tư.
- Sử dụng ngân sách doanh nghiệp: Chi cho marketing trong doanh thu,

hệ số tăng sản xuất.
- Các đặc điểm của doanh nghiệp: Như quy mô doanh nghiệp, mức độ
phân tán của doanh nghiệp.
- Phân tích sự thay đổi của các yếu tố: Phần thị trường liên kết, giá cả,
chất lượng sản phẩm và sự thay đổi sản lượng.
Phương pháp này là phát hiện ra sự trao đổi các kết quả có tính chất chiến
lược để từ đó xác định kế hoạch.
SVTH : Lý Thị Say Lớp KV16
25

×