Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo " Báo cáo chuyên đề 301 và chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của chính phủ Hoa Kỳ " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.84 KB, 7 trang )

Tìm hiểu hệ thống pháp luật Hoa Kỳ


44 tạp chí luật học số 12/2010






ThS. Kiều Thị Thanh *
rong thi i ngy nay, bo h quyn s
hu trớ tu cú ý ngha quan trng trong
phỏt trin kinh t-thng mi ca hu ht
cỏc quc gia, c bit cỏc nc phỏt trin
trỡnh cao nh Hoa K, c, Nht Bn,
Canada L nn kinh t ln nht vi cỏc
sn phm bo h s hu trớ tu c tiờu
th hay s dng khp ton cu, vn bo
h s hu trớ tu cng tr nờn thit yu hn
bao gi ht i vi cỏc doanh nghip v nn
kinh t Hoa K. Nhn thc rừ tớnh trng yu
ca vn ny, c bit trong bi cnh ton
cu hoỏ kinh t v t do hoỏ thng mi
trờn phm vi ton th gii vi thp k gn
õy, Hoa K l nc i u trong tin trỡnh
m phỏn v son tho Hip nh v cỏc
khớa cnh liờn quan n thng mi ca
quyn s hu trớ tu (Hip nh TRIPs)
xung quanh Vũng m phỏn Uruguay 1986
- 1994 v vic thnh lp T chc thng


mi th gii (WTO). Kt qu cui cựng ca
Vũng m phỏn Uruguay l Hip nh
thnh lp WTO v hn 20 hip nh ph lc
khỏc, bao gm Hip nh TRIPs, ó c kớ
kt vo ngy 15/04/1994 gia 100 quc gia
thnh viờn sỏng lp ban u, cú hiu lc t
ngy 01/01/1995.
(1)

Vi nm sau khi Vũng m phỏn
Uruguay c khi ng, vi thit hi t
hng hoỏ vi phm quyn s hu trớ tu ca
cỏc doanh nhõn hay doanh nghip Hoa K
theo c tớnh nm 1986 lờn ti 60 t USD
hng nm,
(2)
bt u t nm 1989, C quan
i din thng mi Hoa K (C quan
USTR) c trao thm quyn vn dng
iu 301 o lut thng mi nm 1974
(The Trade Act of 1974) sa i theo iu
1303 o lut cnh tranh v thng mi
thng nht nm 1988 (The Omnibus Trade
and Competitiveness Act of 1988), cũn gi
l iu khon chuyờn bit 301 v s hu
trớ tu (Special 301 Intellectual Property
Provisions) do ó m rng vic ỏp dng bin
phỏp tr a thng mi ti lnh vc bo h
quyn s hu trớ tu. Cỏc iu khon ny
hin ti c in ch hoỏ ti iu 2411

Chun lut Hoa K s 19 v thu hi quan
(the U.S Code Title 19 - Customs Duties).
Phự hp vi quy nh ny, C quan USTR
cú nhim v thc hin v cụng b cỏc bỏo
cỏo chuyờn hng nm v vn bo h s
hu trớ tu cỏc quc gia cú quan h thng
mi vi Hoa K (Special 301 Reports) ni
ó khụng bo h hoc bo h mt cỏch
khụng tng xng cho hng hoỏ c bo
h quyn s hu trớ tu ca cỏc doanh nhõn
hay doanh nghip Hoa K.
T

* Ging viờn Khoa lut dõn s
Trng i hc Lut H Ni
T×m hiÓu hÖ thèng ph¸p luËt Hoa Kú


t¹p chÝ luËt häc sè 12/2010 45

Phần tiếp theo của bài viết trình bày khái
quát chính sách phát triển kinh tế-thương
mại của Chính phủ Hoa Kỳ thông qua việc
thực thi Điều 301 Đạo luật thương mại năm
1974, Điều 1303 Đạo luật cạnh tranh và
thương mại thống nhất năm 1988 hay Điều
2411 Chuẩn luật Hoa Kỳ số 19 về thuế hải
quan nói trên của Cơ quan USTR. Ở phần
cuối cùng, bài viết đề cập một số điểm cơ
bản thể hiện trong các báo cáo chuyên đề

301 từ năm 1989 đến nay (2010).
1. Nội dung chính Điều 301 Đạo luật
thương mại năm 1974, Điều 1303 Đạo luật
cạnh tranh và thương mại thống nhất
1988 hay Điều 2411 Chuẩn luật Hoa Kỳ số
19 về thuế hải quan
(3)

Là quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế
giới với các quan hệ thương mại hàng hoá
hết sức phát triển, nội dung Điều 301 Đạo
luật thương mại Hoa Kỳ năm 1974 thể hiện
mục tiêu duy trì và phát triển kinh tế-thương
mại quốc gia trong quan hệ với quốc gia đối
tác thương mại nước ngoài trên cơ sở
nguyên tắc có đi có lại. Theo Điều luật này,
Chính phủ Hoa Kỳ, thông qua Cơ quan
USTR, có thể thực hiện các biện pháp
thương mại mang tính trả đũa đối với quốc
gia đối tác thương mại nước ngoài đã thực
hiện các hành động, có các chính sách hoặc
duy trì các thực tiễn phủ nhận hoặc gây thiệt
hại đến lợi ích của Hoa Kỳ theo một hiệp
định thương mại quốc tế hoặc thực hiện các
hạn chế mang tính bất công đối với thương
mại Hoa Kỳ.
(4)
Các biện pháp này cũng có
thể được áp dụng trong trường hợp hành
động, chính sách hoặc thực tiễn của quốc gia

đối tác thương mại nước ngoài được xem là
không công bằng, bất hợp lí hoặc có sự phân
biệt đối xử dẫn tới sự cản trở hoặc hạn chế
thương mại Hoa Kỳ.
(5)

Thủ tục điều tra quy định tại Điều 301
nói trên khi được áp dụng toàn bộ bao gồm
sáu bước sau đây:
1) Khởi xuất việc điều tra trên cơ sở
khiếu nại của bên có lợi ích liên quan hoặc
theo sáng kiến của chính Cơ quan USTR;
2) Công bố khởi xuất điều tra trong danh
bạ lưu trữ quốc gia (federal register);
3) Nếu việc điều tra được tiến hành trên
cơ sở khiếu nại của bên có lợi ích liên quan
thì Cơ quan USTR có trách nhiệm thu thập ý
kiến và tổ chức trình bày công khai về việc
điều tra khi được bên này yêu cầu;
4) Đề xuất yêu cầu thương lượng, điều
đình với chính phủ quốc gia đối tác thương
mại nước ngoài về việc điều tra;
5) Tuân thủ quy trình giải quyết tranh
chấp theo thoả thuận hoặc công ước quốc tế
có liên quan, bao gồm các hiệp định thương
mại trong khuôn khổ hoạt động của WTO,
nếu vụ việc liên quan đến vi phạm cam kết
thể hiện trong thoả thuận hoặc công ước
quốc tế đó của chính phủ quốc gia đối tác
thương mại nước ngoài;

6) Kết luận về việc điều tra.
(6)

Trên cơ sở thủ tục này, nếu quốc gia đối
tác thương mại nước ngoài được xem là đã
vi phạm hoặc phủ nhận quyền và lợi ích của
Hoa Kỳ theo hiệp định thương mại hoặc đã
thực hiện các hành động, có các chính sách
hoặc duy trì các thực tiễn thương mại không
công bằng gây cản trở hoặc hạn chế thương
mại Hoa Kỳ, chẳng hạn, phủ nhận nguyên
tắc đối xử quốc gia (national treatment) hay
T×m hiÓu hÖ thèng ph¸p luËt Hoa Kú


46 t¹p chÝ luËt häc sè 12/2010

nguyên tắc tối huệ quốc (most-favoured-
nation treatment) áp dụng cho hàng hoá xuất
khẩu của Hoa Kỳ, việc thực thi biện pháp trả
đũa thương mại theo Điều 301 Đạo luật
thương mại năm 1974 khi đó mang tính bắt
buộc (mandatory action).
(7)
Việc làm này chỉ
có thể được loại trừ khi vụ việc rơi vào một
trong số các trường hợp ngoại lệ của việc áp
dụng biện pháp trả đũa bắt buộc được quy
định cụ thể tại Điều luật.
(8)

Ví dụ, khi ban
giải quyết tranh chấp của WTO (WTO
dispute settlement panel) thông qua quy trình
và thủ tục giải quyết tranh chấp giữa các
quốc gia thành viên có liên quan, đã ra báo
cáo hay phán quyết rằng hành động, chính
sách hay thực tiễn thương mại đó ở quốc gia
nước ngoài không vi phạm hay không phủ
nhận những quyền lợi mà Hoa Kỳ có được
theo hiệp định thương mại của WTO.
(9)

Bên cạnh trường hợp bắt buộc phải áp
dụng biện pháp trả đũa nêu trên, Cơ quan
USTR có quyền lựa chọn hay quyết định
biện pháp trả đũa khả thi trong phạm vi luật
định (discretionary action) áp dụng khi
quốc gia đối tác thương mại nước ngoài
được xem là đã thực hiện hành động cụ thể,
có chính sách hoặc duy trì thực tiễn thương
mại bất hợp lí hay có sự phân biệt đối xử
gây cản trở hoặc hạn chế thương mại Hoa
Kỳ.
(10)
Ví dụ, phủ nhận các cơ hội mang tính
công bằng và bình đẳng trong việc thành
lập các doanh nghiệp.
(11)

Hoạt động xuất khẩu hàng hoá vào thị

trường Hoa Kỳ với tư cách là thị trường lớn
nhất thế giới trong thực tế mang lại nhiều
lợi ích to lớn cho các quốc gia đối tác
thương mại nước ngoài trong quan hệ kinh
tế-thương mại với Hoa Kỳ. Điều này có thể
bị ảnh hưởng sâu sắc khi biện pháp trả đũa
thương mại theo Điều 301 nói trên được áp
dụng, do Cơ quan USTR khi đó có thể đình
chỉ việc áp dụng hoặc rút lại hay tạm ngừng
việc áp dụng các ưu đãi đối với quốc gia đối
tác thương mại nước ngoài đó trong quá
trình thực hiện thoả thuận thương mại với
Hoa Kỳ.
(12)
Cơ quan này cũng có thể áp đặt
thuế và các biện pháp hạn chế nhập khẩu
hàng hoá khác vào thị trường Hoa Kỳ, cũng
như áp dụng thuế và các biện pháp cản trở
khác đối với dịch vụ được thực hiện bởi các
nhà cung cấp dịch vụ từ quốc gia đối tác
thương mại nước ngoài đó ở thị trường Hoa
Kỳ.
(13)
Quốc gia đối tác thương mại nước
ngoài đó cũng có thể bị rút bỏ, hạn chế hoặc
đình chỉ việc áp dụng chế độ miễn thuế
nhập khẩu hàng hoá tạo thuận lợi cho phát
triển thương mại quốc tế,
(14)
cụ thể theo Hệ

thống Chế độ thuế quan ưu đãi phổ cập
(The General System of Preferences),
(15)

theo Đạo luật phát triển kinh tế khu vực
lòng chảo Caribbean (The Caribbean Basin
Economic Recovery Act),
(16)
hay theo Đạo
luật ưu đãi thương mại Andean (The
Andean Trade Preference Act).
(17)
Tương tự,
Cơ quan USTR có thể áp dụng biện pháp
hạn chế, ngăn ngừa hoặc từ chối hoạt động
của các nhà cung cấp dịch vụ tương ứng từ
quốc gia đối tác thương mại nước ngoài đó ở
thị trường Hoa Kỳ.
(18)
Trong khi đó, họ có
nghĩa vụ tiếp tục tìm kiếm các giải pháp
thương thuyết, điều đình với quốc gia đối tác
thương mại nước ngoài nhằm tiến tới loại trừ
hay chấm dứt các hành động, chính sách
hoặc thực tiễn ảnh hưởng đến thương mại
T×m hiÓu hÖ thèng ph¸p luËt Hoa Kú


t¹p chÝ luËt häc sè 12/2010 47


Hoa Kỳ hoặc nhằm vào việc áp dụng biện
pháp thương mại với các lợi ích đáp trả của
quốc gia đối tác thương mại nước ngoài đó
đối với Hoa Kỳ.
(19)

Bên cạnh các nội dung cơ bản nêu trên,
Điều 2411 và các điều luật tiếp theo của
Chuẩn luật Hoa Kỳ số 19 về thuế hải quan
hay Điều 301 Đạo luật thương mại Hoa Kỳ
năm 1974 còn quy định nhiều nội dung khác
liên quan đến việc xây dựng, thực thi hoặc
huỷ bỏ việc áp dụng biện pháp trả đũa
thương mại đối với quốc gia đối tác thương
mại nước ngoài.
2. Các báo cáo chuyên đề 301 về sở
hữu trí tuệ từ năm 1989 đến năm 2010
(20)

Theo Điều 301 Đạo luật thương mại Hoa
Kỳ năm 1974, sửa đổi theo Điều 1303 Đạo
luật thương mại và cạnh tranh thống nhất
năm 1988, sau này điển chế hoá theo Điều
2411 Chuẩn luật Hoa Kỳ số 19 về thuế hải
quan, Cơ quan USTR có trách nhiệm xem
xét việc áp dụng biện pháp trả đũa thương
mại đối với quốc gia đối tác thương mại
nước ngoài không bảo hộ hoặc bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ một cách không tương xứng,
không cân bằng và hiệu quả đối với hàng

hoá được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của
các doanh nhân hay doanh nghiệp Hoa
Kỳ.
(21)
Phù hợp với quy định này, hàng năm
Cơ quan USTR phải công bố các báo cáo
xác định quốc gia đối tác thương mại nước
ngoài nào được xem là “nước lưu tâm hàng
đầu” (priority foreign countries) hay là
“nước lưu tâm xem xét” (watch list foreign
countries) trên cơ sở điều tra chính sách hay
pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở quốc
gia đó có mang tính cân xứng và hiệu quả
hoặc có thể hiện sự bảo hộ cân bằng và hợp
lí đối với hàng hoá-dịch vụ được bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ của các doanh nhân hay
doanh nghiệp Hoa Kỳ khi tiếp cận thị trường
nội địa của họ hay không. Các thủ tục tiến
hành điều tra và các yêu cầu khác cũng như
việc thực hiện biện pháp trả đũa thương mại
nhìn chung tuân theo Điều 301 Đạo luật
thương mại năm 1974 nhưng biện pháp trả
đũa chỉ áp dụng đối với quốc gia đối tác
thương mại nước ngoài được xem là “nước
lưu tâm hàng đầu”.
Theo mối quan hệ về thời gian như trên,
các báo cáo chuyên đề 301 về sở hữu trí tuệ
(gọi tắt là báo cáo chuyên đề 301) chỉ có thể
bắt đầu được thực hiện từ năm 1989. Tính
đến nay (2010), đã có 22 báo cáo này được

Cơ quan USTR công bố vào tháng 4 hàng
năm. Sau một số năm áp dụng Điều khoản
301 Đạo luật thương mại năm 1974 sửa đổi
theo Điều 1303 Đạo luật thương mại và
cạnh tranh thống nhất năm 1988 để ra các
báo cáo chuyên đề 301, Hoa Kỳ từng chịu
nhiều điều tiếng trong công luận quốc tế về
việc sử dụng sức mạnh kinh tế và thương
mại của mình để yêu cầu quốc gia đối tác
thương mại nước ngoài thực thi hay ban
hành mới chính sách, cải cách, sửa đổi pháp
luật về sở hữu trí tuệ mang tính bảo hộ
tương xứng cho hàng hoá, dịch vụ của các
doanh nhân hay doanh nghiệp Hoa Kỳ được
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật
Hoa Kỳ. Các quốc gia đối tác thương mại
nước ngoài của Hoa Kỳ từng được nêu
trong các báo cáo này không chỉ bao gồm
T×m hiÓu hÖ thèng ph¸p luËt Hoa Kú


48 t¹p chÝ luËt häc sè 12/2010

các nước đang phát triển như Argentina,
Brazil, China, India, Indonesia, Korea,
Malaysia, Mexico, Philippines, Russia,
Singapore, South Africa, Thailand, Turkey,
Ukraine… mà còn bao gồm các nước phát
triển như Australia, Belgium, Canada, Finland,
France, Germany, Italy, New Zealand, Norway,

Japan, Spain, European Union Trong thực
tế, điều này có ảnh hưởng quyết định đến
việc Hiệp định TRIPs về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ của WTO được kí kết vào năm
1994 cùng với Hiệp định thành lập WTO.
Nhiều ấn phẩm của các học giả trên thế
giới, ở cả nước phát triển và đang phát
triển, bao gồm các học giả Hoa Kỳ, phản
ánh và bình luận về kết quả này của Vòng
đàm phán Uruguay.
(22)

Song song với việc tạo ra và chịu đựng
nhiều điều tiếng trong công luận quốc tế, đặc
biệt trong nhiều năm đầu thực hiện các báo
cáo chuyên đề 301, khó có thể phủ nhận
được rằng việc làm này của Chính phủ Hoa
Kỳ nói chung và Cơ quan USTR nói riêng đã
phản ánh phần nào đặc tính dễ vi phạm của
hàng hoá và dịch vụ được bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ, cũng như đã phản ánh phần nào
tình trạng lan rộng “toàn cầu” của các vi
phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trên cơ sở đó,
các báo cáo này đã góp phần kiến tạo các
luật bảo hộ sở hữu trí tuệ, góp phần tạo dựng
môi trường sản xuất-kinh doanh lành mạnh
từ đó bảo vệ chất xám trong sáng tạo và phí
tổn trong đầu tư, bảo vệ các nhà sản xuất-
kinh doanh chân chính, cũng như bảo vệ lợi
ích của người tiêu dùng trước tình trạng

ngày càng lan rộng của hàng hoá-sản phẩm
vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi
toàn cầu. Điều này ngày càng trở nên rõ ràng
hơn khi quy mô và giá trị của hàng hoá-sản
phẩm vi phạm quyền sở hữu trí tuệ dường
như luôn tăng theo đà phát triển của kinh tế
thế giới. Trong bài giảng tại Chương trình
hợp tác về sở hữu trí tuệ giữa Cộng đồng
châu Âu và Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN), Giáo sư Michael Blakeney
nhắc tới con số thiệt hại hàng năm từ hàng
hoá vi phạm quyền sở hữu trí tuệ dao động
từ 5% đến 7% thương mại thế giới theo ước
tính của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh
tế (OECD) năm 1998.
(23)
Đến năm 2003, tại
Hội nghị thượng đỉnh Davos theo Diễn đàn
kinh tế thế giới (WEF), người ta ước tính giá
trị thương mại quốc tế của hàng nhái là 450
tỉ USD mỗi năm.
(24)
Gần đây, trong năm
2007, thiệt hại gây ra cho thương mại quốc
tế bởi hàng hoá vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ, đặc biệt đối với Hoa Kỳ, Liên minh châu
Âu và Nhật Bản được ước tính lên tới 250 tỉ
USD. Hàng hoá vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ còn gây tổn hại hoặc tiềm tàng khả năng
gây tổn hại đến sức khoẻ, sự an toàn và

nhiều lợi ích khác của người sử dụng hay
người tiêu dùng.
(25)
Đây là điều thường
xuyên được nhắc tới trong các báo cáo
chuyên đề 301, theo đó hàng hoá-sản phẩm
vi phạm quyền sở hữu trí tuệ có phạm vi
ngày càng gia tăng không dừng lại ở những
loại hàng có tác động tiêu cực tới sức khoẻ,
tính mạng người sử dụng như các loại thuốc
chữa bệnh, các sản phẩm làm đẹp hay chăm
sóc sức khoẻ khác, các loại thực phẩm, rượu
bia, các loại nước giải khát… mà còn mở
T×m hiÓu hÖ thèng ph¸p luËt Hoa Kú


t¹p chÝ luËt häc sè 12/2010 49

rộng đến nhiều loại sản phẩm khác đòi hỏi
các tiêu chuẩn kĩ thuật phức tạp và độ an
toàn cao như các bộ phận, chi tiết, thiết bị,
phụ tùng sử dụng trong các ngành sản xuất,
lắp ráp ô tô và máy bay, các loại hoá chất,
các loại pin dùng trong máy tính và trong
nhiều sản phẩm điện tử khác…
Như vậy, mặc dù duy trì và phát triển
kinh tế-thương mại Hoa Kỳ phải là điều đầu
tiên được hướng tới trong các báo cáo
chuyên đề 301, lợi ích chính đáng của nhà
sản xuất-kinh doanh chân chính, của người

tiêu dùng trong phạm vi toàn cầu nói chung
trong việc tạo ra và tiêu thụ các sản phẩm có
nguồn gốc đích thực với chất lượng đảm bảo
và nhiều lợi ích khác cũng là điều có thể
nhìn thấy thông qua các báo cáo này của Cơ
quan USTR. Các quốc gia đối tác thương
mại nước ngoài của Hoa Kỳ khi đó vì lợi ích
mong muốn đạt được trong quan hệ kinh tế-
thương mại với quốc gia có nền kinh tế lớn
nhất đồng thời có khoa học-kĩ thuật-công
nghệ phát triển nhất toàn cầu này, đều quan
tâm xây dựng chính sách và pháp luật bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, tạo nên cơ hội chung
cho các quan hệ sản xuất-thương mại-tiêu
dùng đối với hàng hoá - sản phẩm được bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ trong phạm vi toàn
cầu. Điều này phản ánh điều kiện sản xuất và
thương mại hàng hoá-dịch vụ trên thế giới
ngày nay, bao gồm hàng hoá-dịch vụ trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ, với sự hiện diện và
hoạt động của WTO, sự tồn tại của Hiệp
định TRIPs với các tiêu chuẩn chung và
nhiều điều khoản linh hoạt về bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ cho tất cả các quốc gia thành
viên. Khi tự do thương mại và bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ đã mang tính toàn cầu, tác hại
của hàng hoá vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
cũng có thể trải rộng toàn cầu. Chúng không
chỉ gây thiệt hại cho các quan hệ kinh tế-
thương mại và làm nản lòng các nhà sản

xuất-kinh doanh chân chính mà còn gây tổn
hại hoặc tiềm ẩn khả năng gây tổn hại đến
sức khoẻ, tính mạng và các giá trị khác mà
người tiêu dùng hướng tới khi mua bán hoặc
sử dụng hàng hoá-sản phẩm đó. Vì lí do này,
các báo cáo chuyên đề 301 trong thực tế còn
phản ánh yêu cầu thiết thực của Chính phủ
Hoa Kỳ trong quan hệ kinh tế-thương mại
với các quốc gia đối tác thương mại nước
ngoài trong nỗ lực tìm kiếm giải pháp chung,
cùng nhau hợp tác đấu tranh ngăn ngừa có
hiệu quả các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
trong phạm vi toàn cầu. Điều này trong thực
tế đã được phản ánh phần nào thông qua
hiệu lực của Hiệp định TRIPs của WTO với
các tiêu chuẩn chung kèm theo nhiều điều
khoản mềm dẻo liên quan đến tính đảm bảo
ghi nhận, tính có phạm vi và tính đảm bảo
cho việc sử dụng quyền cũng như việc thực
thi các quyền sở hữu trí tuệ thông qua các
thủ tục dân sự, hành chính, hình sự và biện
pháp kiểm soát hàng hoá xuất-nhập khẩu qua
biên giới thực hiện bởi cơ quan hải quan.
Mỗi nhà sản xuất-kinh doanh chân chính và
mỗi người tiêu dùng ở bất kì quốc gia thành
viên nào của WTO đều có quyền được
hưởng lợi từ các tiêu chuẩn chung đó./.

(1). Sau hơn 10 năm thành lập và chính thức đi vào
hoạt động, số lượng các quốc gia thành viên WTO

hiện tại là 153. Xem: WTO – Members and
Observers, nguồn: , ngày
16/10/2010.
T×m hiÓu hÖ thèng ph¸p luËt Hoa Kú


50 t¹p chÝ luËt häc sè 12/2010


(2).Xem: GS. Michael Blakeney, Bài giảng số 9 về
thực thi quyền sở hữu trí tuệ, thực hiện tháng 11/2007
theo Chương trình hợp tác về sở hữu trí tuệ giữa Cộng
đồng châu Âu và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) (The EC-ASEAN Intellectual Property
Rights Cooperation Programme: ECAP II), nguồn:
www.ecap-project.org, ngày 14/09/2010.
(3). Điều 301 Đạo luật thương mại năm 1974 hay
Điều 2411 Chuẩn luật Hoa Kỳ số 19 về thuế hải quan
tuỳ theo ngữ cảnh.
(4).Xem: Jean Heilman Grier, Section 301 of the 1974
Trade Act, 03/2005, Office of the Chief Councel for
International Trade, United States Department of
Commerce, nguồn:
301/html, ngày 23/08/2010.
(5).Xem: Jean Heilman Grier, Tlđd.
(6).Xem: Jean Heilman Grier, chú thích đã dẫn.
(7).Xem: Điều 2411 (a) (1) Chuẩn luật Hoa Kỳ số 19
về thuế hải quan.
(8).Xem Điều 2411 (a) (2) Chuẩn luật Hoa Kỳ số 19
đã dẫn.

(9).Xem: Jean Heilman Grier, Tlđd.
(10).Xem: Điều 2411 (b) Chuẩn luật Hoa Kỳ số 19
đã dẫn.
(11).Xem: Jean Heilman Grier, Tlđd.
(12).Xem: Điều 2411 (c) (1) (A) Chuẩn luật Hoa Kỳ
số 19 đã dẫn.
(13).Xem: Điều 2411 (c) (1) (B) Chuẩn luật Hoa Kỳ
số 19 đã dẫn.
(14).Xem: Điều 2411 (c) (1) (C) Chuẩn luật Hoa Kỳ
số 19 đã dẫn; Jean Heilman Grier, Tlđd.
(15). Chi tiết cụ thể về chế độ thuế quan ưu đãi phổ
cập của Hoa Kỳ cũng như chế độ này được áp dụng
cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường
Hoa Kỳ, xem: Võ Thanh Thu, Nguyễn Cương, Đoàn
Thị Hồng Vân, Hỏi đáp về Hiệp định thương mại
Việt-Mỹ, Nxb. Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh,
2001, tr. 15 - 20.
(16). Các ưu đãi thương mại theo Đạo luật này được
áp dụng với các quốc gia thuộc khu vực lòng chảo
Caribean như Costa Rica, El Salvado, Haiti, Jamaca,
Trinidad và Tobago, v.v
(17). Đạo luật này quy định chế độ miễn thuế nhập
khẩu dành cho nhiều mặt hàng đến bốn quốc gia là

Bolivia, Columbia, Ecuador và Peru.
(18).Xem: Điều 2411 (c) (2) Chuẩn luật Hoa Kỳ số 19
đã dẫn.
(19).Xem: Điều 2411 (c) (1) (D) Chuẩn luật Hoa Kỳ
số 19 đã dẫn.
(20). Toàn bộ các báo cáo chuyên đề 301 trong bài

viết này được dẫn từ website
(United States Trade Representative) và http://www.
keionline.org (Knowledge Ecology International) vào
các ngày 17/06/2010 và 23/08/2010.
(21).Xem: Điều 2411 (d) Chuẩn luật Hoa Kỳ số 19
đã dẫn.
(22).Xem: Vandana Shiva (1996), ‘Protecting our
Biological and Intellectual Heritage: The
Transnational Corporation Bias in TRIPs’, Peter
Drahos (chủ biên), Intellectual Property, Ashgate-
Dartmouth, Sydney, 1999; Christopher Arup, The
New World Trade Organization Agreements:
Globalizing Law through Services and Intellectual
Property, Cambridge University Press, Cambridge,
2000; D Matthews, Globalizing Intellectual Property
Rights: The TRIPs Agreement, Routledge, New York,
2002; Peter Drahos & Ruth Mayne (chủ biên),
Global Intellectual Property Rights: Knowledge,
Access and Development, Palgrave Macmillan, New
York, 2002; Susan K Sell, Private Power, Public
Law: The Globalization of Intellectual Property
Rights, Cambridge University Press, Cambridge,
2003; Christophe Bellmann, Graham Dutfield &
Recardor Melendez-Ortiz (chủ biên), Trading in
Knowledge: Development Perspectives on TRIPs,
Trade, and Sustainability, Earthscan Publications,
London, 2003; Meir P Pugatch, The International
Political Economy of Intellectual Property Rights,
Edward Elgar, Cheltenham, 2004; Donald G
Richards, Intellectual Property Rights and Global

Capitalism: The Political Economy of the TRIPs
Agreement, M E Sharpe, London, 2004.
(23).Xem: Michael Blakeney, Tlđd.
(24). Global Intellectual Property Center, Creative
Economy is under attack: Time to act, 28/06/2010,
nguồn: www.theglobalipcenter.com, ngày 14/09/2010.
(25). Chú thích số 24 đã dẫn.

×