MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Vấn đề quy hoạch sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường cho
bất kì lãnh thổ nào luôn là một nhiệm vụ quan trọng và có liên quan đến nhiều
ngành khoa học, trong đó khoa học địa lí giữ vai trò trọng tâm. Kết quả đánh
giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội là những tư liệu khoa
học quan trọng cho việc đề xuất các định hướng trong quy hoạch lãnh thổ.
Trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, các dạng tài
nguyên thiên nhiên ngày càng được khai thác một cách triệt để phục vụ những
mục đích khác nhau. Sự khai thác này nhiều khi quá mạnh, vượt quá khả năng
tự điều chỉnh và phục hồi của các dạng tài nguyên, dẫn đến hậu quả to lớn là
sự suy thoái thiên nhiên và điều kiện môi trường sống của con người. Chính
vì vậy vấn đề sử dụng, khai thác hợp lý các điều kiện tự nhiên, tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ môi trường là một vấn đề cấp bách và cần thiết.
Quảng Ninh là một huyện tương đối lớn của tỉnh Quảng Bình với tổng
diện tích tự nhiên là 1.191,692km
2
. Từ sau đổi mới với nỗ lực của các cấp,
các ngành và nhân dân địa phương, huyện Quảng Ninh đã có được hệ thống
cơ sở vật chất hạ tầng cơ bản đáp ứng được nhu cầu phát triển xã hội. Các
lĩnh vực kinh tế xã hội có bước phát triển đáng kể. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
Sự phát triển kinh tế đã góp phần nâng cao mức sống của người dân,
Nhưng bên cạnh những mặt tích cực thì hoạt động kinh tế cũng đã gây ra
hàng loạt các vấn đề môi trường bức xúc. Hơn thế nữa Quảng Ninh còn là
một huyện ven biển miền Trung thuộc dải đất hẹp của đất nước vẫn còn rất
nhiều khó khăn cả về tự nhiên cũng như về kinh tế. Vấn đề đặt ra cần giải
quyết là phải vừa đảm bảo phát triển kinh tế xã hội vừa khai thác hợp lý tài
1
nguyên và bảo vệ môi trường. Trên thực tế các giải pháp về sử dụng hợp lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường ở đây chưa được đưa ra nên dẫn tới tình trạng là
mặc dù đã sử dụng các tài nguyên nhưng hiệu quả kinh tế ở các địa bàn cụ thể
vẫn chưa cao. Vì vậy, để có cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường huyện Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình trong thời
kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá tác giả chọn đề tài: "Đánh giá cảnh quan
nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường huyện Quảng Ninh
tỉnh Quảng Bình".
II. Mục tiêu, nhiệm vụ và ý nghĩa của đề tài
1. Mục tiêu của đề tài
- Nghiên cứu đánh giá các nhân tố thành tạo cảnh quan, thành lập bản
đồ cảnh quan huyện Quảng Ninh tỷ lệ 1/50.000.
- Đánh giá tổng hợp cảnh quan phục vụ sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo
vệ môi trường khu vực nghiên cứu.
2. Nhiệm vụ của đề tài
Trong quá trình thực hiện đề tài, cần thực hiện được các nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích các nhân tố hình thành và tác động tới các đơn vị cảnh quan
của huyện Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình.
- Xây dựng hệ thống phân loại cảnh quan và thành lập bản đồ cảnh
quan huyện Quảng Ninh tỷ lệ 1: 50.000.
- Xây dựng hệ thống chỉ tiêu, tiến hành đánh giá cảnh quan bằng
phương pháp thang điểm tổng hợp huyện Quảng Ninh cho mục đích sử dụng
hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
- Đưa ra các kiến nghị sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
lãnh thổ huyện Quảng Ninh.
3. Ý nghĩa của đề tài
2
3.1.Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần hoàn thiện thêm về phương
pháp đánh giá cảnh quan nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường áp dụng cho một huyện.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần tạo cơ sở khoa học cho
công tác xây dựng quy hoạch và tổ chức không gian lãnh thổ nhằm sử dụng
hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường của huyện Quảng Ninh tỉnh Quảng
Bình.
- Cung cấp cho chúng ta một cái nhìn tổng thể về cấu trúc, chức năng,
quy luật phân hóa của các cảnh quan tự nhiên.
- Đề tài còn có ý nghĩa giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho mọi
người.
III. Phạm vi và nội dung nghiên cứu của đề tài
1. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Lãnh thổ nghiên cứu là huyện Quảng Ninh tỉnh
Quảng Bình, một đơn vị hành chính cấp huyện, với diện tích tự nhiên là
1.191,692 km
2
.
2. Nội dung nghiên cứu
- Đặc điểm các nhân tố thành tạo cảnh quan (điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên, đặc điểm dân cư - kinh tế xã hội) và ảnh hưởng của các
yếu tố đó đến việc thành tạo cảnh quan của huyện.
- Xây dựng hệ thống phân loại cảnh quan phù hợp với đặc trưng lãnh
thổ thành lập bản đồ cảnh quan.
- Phân tích cấu trúc, chức năng của các đơn vị cảnh quan, đánh giá cảnh
quan cho ngành sản xuất nông - lâm nghiệp, từ đó đưa ra kiến nghị nhằm sử
3
dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường huyện Quảng Ninh tỉnh Quảng
Bình.
IV. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu
1. Quan điểm nghiên cứu
1.1. Quan điểm phát sinh
Mỗi đơn vị địa lí tổng hợp trên lãnh thổ đều trải qua các tác động của
các nhân tố địa đới và phi địa đới. Tác động tổng hợp của các nhân tố này đã
tạo nên các địa hệ không giống nhau.
Áp dụng quan điểm này trong đánh giá cảnh quan nhằm sử dụng hợp lý
tài nguyên, bảo vệ môi trường huyện Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình, đề tài
không chỉ nghiên cứu các đối tượng địa lí về mặt hình thái mà còn chú trọng
đến nguồn gốc phát sinh và quá trình phát triển của chúng, từ đó phân chia
lãnh thổ thành các đơn vị cảnh quan có sự giống nhau về biểu hiện bên ngoài,
tương đồng về đặc điểm phát sinh. Quan điểm này được áp dụng cho mọi cấp
phân vị cảnh quan.
1.2. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Các đơn vị cảnh quan là các địa tổng thể lãnh thổ tự nhiên, được cấu
thành từ các hợp phần tự nhiên. Các hợp phần này đều tồn tại và phát triển
theo một quy luật riêng của nó. Sự tồn tại và phát triển của các hợp phần tự
nhiên này chịu sự chi phối của các hợp phần tự nhiên khác và ngược lại.
Trên thực tế, ở thời điểm hiện nay hầu hết các đơn vị cảnh quan đã bị
biến đổi, đôi khi là những biến đổi khá lớn dưới tác động của con người. Do
đó nếu không hiểu biết được lịch sử phát sinh, tồn tại và phát triển của chúng
thì chúng ta không thể lý giải được các hiện tượng trong thiên nhiên, cũng
như không thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc sử dụng, cải tạo và
bảo vệ môi trường.
4
Tuy nhiên người nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu hiện
tại mà phải thấy ở tương lai để có những dự báo cần thiết trong việc phát triển
kinh tế, do vậy cũng cần phải có quan điểm viễn cảnh.
1.3. Quan điểm tổng hợp
Quan điểm tổng hợp trong nghiên cứu địa lí tự nhiên là việc nghiên cứu
các đối tượng trong tổng hòa các mối quan hệ giữa chúng với nhau. Các đối
tượng địa lí có mối quan hệ chặt chẽ và tạo thành một thể thống nhất. Do vậy
khi nghiên cứu không thể tách rời các đối tượng nghiên cứu ra khỏi mối quan
hệ với các đối tượng khác.
Quan điểm tổng hợp đã được đề xuất từ rất lâu và trở thành kim chỉ
nam cho mọi quá trình nghiên cứu địa lý. Theo A.E. Fedina, quan điểm này
chú ý tới sự phát sinh và sự phân hóa lãnh thổ, kiến trúc hiện đại của môi
trường địa lý. Vì vậy, nghiên cứu các đơn vị lãnh thổ nhất thiết phải được
xem xét trên quan điểm tổng hợp.
Đối với ngành địa lí khi nghiên cứu và đánh giá tài nguyên ở một lãnh
thổ nào đó cần phải dựa trên cơ sở các kết quả phân tích đồng bộ, toàn diện về
các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên với quy luật phân hóa của
chúng cũng như các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các hợp phần của
thể tổng hợp địa lí. Đây được xem là tiêu chuẩn hàng đầu để xem xét, đánh
giá giá trị khoa học của công trình nghiên cứu.
Vì vây, nghiên cứu đánh giá tổng hợp lãnh thổ được sử dụng như một
công cụ đắc lực phục vụ cho việc quy hoạch lãnh thổ và sử dụng hợp lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường.
1.4. Quan điểm lãnh thổ
Bất kỳ một đối tượng địa lí nào đều gắn với một không gian cụ thể.
Trong không gian đó các đối tượng địa lí phản ánh những đặc trưng của lãnh
thổ, phân biệt lãnh thổ này với lãnh thổ khác. Với mỗi một lãnh thổ nhất định
5
các đối tượng địa lí có quy luật hoạt động riêng gắn bó và phụ thuộc chặt chẽ
vào đặc điểm của lãnh thổ đó. Trong mỗi lãnh thổ luôn có sự phân hóa nội tại
đồng thời có mối quan hệ chặt chẽ với lãnh thổ xung quanh về cả tự nhiên lẫn
kinh tế - xã hội.
Quan điểm này được vận dụng trong việc xác định không gian phạm vi
lãnh thổ nghiên cứu của đề tài và vận dụng triệt để trong nghiên cứu sự phân
hóa cảnh quan khu vực nghiên cứu. Trên cơ sở đó đưa ra ý kiến đánh giá, kiến
nghị sử dụng hợp lý đối với từng loại cảnh quan cho các mục đích cụ thể.
1.5. Quan điểm sinh thái môi trường
Trong các công trình nghiên cứu về bất cứ một lãnh thổ nào, đặc biệt là
các công trình nghiên cứu về nông - lâm nghiệp thì vấn đề sử dụng hợp lý tài
nguyên và bảo về môi trường là nhiệm vụ quan trọng nhất.
Quan điểm sinh thái môi trường chỉ ra rằng, khi xem xét một cá thể
sinh vật nào đó ta phải đặt nó trong mối quan hệ với các nhân tố của môi
trường xung quan, giữa các cá thể cùng loài hoặc khác loài. Bởi vì môi trường
xung quanh ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển và tồn tại của sinh vật. Áp
dụng vào đề tài nghiên cứu, tác giả đã xem xét toàn diện các nhân tố liên quan
đến chủ thể đánh giá, từ đó tìm các chỉ tiêu đánh giá cụ thể.
Quan điểm sinh thái môi trường còn giúp cho việc quy hoạch hợp lý
lãnh thổ nhằm mục đích phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông - lâm
nghiệp nói riêng theo hướng bảo vệ môi trường sinh thái là một trong ba nội
dung của sự phát triển bền vững.
1.6. Quan điểm hệ thống
Theo B. Canber (Ixasenko), hệ thống được hiểu là một thể hoàn chỉnh
phức tạp có tổ chức, tổng hợp và phối hợp các vật thể, các bộ phận tạo thành
một thể hoàn chỉnh thống nhất.
6
Mỗi hệ thống vừa là một cấp đơn vị nhỏ của một hệ thống lớn hơn nó,
nhưng đồng thời lại có khả năng phân chia thành những cấp nhỏ hơn. Trong
mỗi hệ thống đều tồn tại hai mối quan hệ: mối quan hệ giữa các thành phần
trong một hệ thống (quan hệ nội tại) và mối quan hệ của hệ thống đó với các
hệ thống khác (quan hệ bên ngoài). Các mối quan hệ này luôn gắn bó chặt chẽ
với nhau tạo thành một thể thống nhất hoàn chỉnh.
Với quan điểm hệ thống thì các điều kiện tự nhiên trên một lãnh thổ
luôn luôn có tác động qua lại và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên
một hệ thống động lực hở, tự điều chỉnh và có trạng thái cân bằng động. Các
tác động bên ngoài luôn làm thay đổi trạng thái cân bằng động đó. Nếu tác
động ở mức độ cho phép thì hệ thống này tự điều chỉnh để giữ cân bằng.
Trong trường hợp tác động quá mức thì hệ thống không thể tự điều chỉnh
được, mất cân bằng, suy thoái và cuối cùng bị hủy diệt.
Vận dụng quan điểm này trong đề tài nghiên cứu thì huyện Quảng Ninh
được coi là một hệ thống trong đó có sự tương tác giữa các hợp phần tự nhiên
cũng như giữa hệ thống tự nhiên và hệ thống kinh tế xã hội. Cho nên mỗi
thành phần của hệ thống đó phải được nghiên cứu tổng hợp trong mối liên hệ
biện chứng với các hiện tượng và thành phần khác trong hệ thống về không
gian lãnh thổ, thời gian và động lực phát sinh. Mỗi một đơn vị cảnh quan của
huyện Quảng Ninh là một đơn vị của cấp lớn hơn và nó lại bao gồm các cấp
đơn vị thấp hơn. Khi nghiên cứu cần xem xét nó trong hệ thống và mối quan
hệ qua lại mật thiết giữa các yếu tố thành tạo cảnh quan của huyện.
1.7. Quan điểm phát triển bền vững
Năm 1987, Ủy ban môi trường và phát triển bền vững của Liên Hợp
Quốc đã đưa ra khái niệm về phát triển bền vững: “Phát triển bền vững là sự
phát triển nhằm thỏa mãn các yêu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn
hại tới sự thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai”
7
Năm 1992 hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về “Môi trường và
phát triển” tổ chức tại Riode Janeiro(Braxin) với sự tham gia của nhiều nước
đã nhất trí rằng: “ Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các yêu
cầu hiện tại nhưng không tổn hại cho khả năng của các thế hệ tương lai để đáp
ứng yêu cầu của chính họ” và phát triển bền vững phải là mục tiêu của toàn
nhân loại trong thế kỷ XXI.
Mục tiêu cuối cùng của phát triển bền vững là thỏa mãn yêu cầu căn bản
của con người, cải thiện cuộc sống, bảo tồn và quản lý hữu hiệu hệ sinh thái,
bảo đảm tương lai ổn định. Phát triển bền vững thực hiện và đảm bảo sự liên
đới giữa các thế hệ, giữa các quốc gia, giữa hiện tại và tương lai. Phát triển
bền vững có tính chất đa diện, thống nhất, toàn bộ. Muốn phát triển bền vững
phải lồng ghép được 3 thành tố quan trọng của sự phát triển với nhau: phát
triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là nguyên lý chung
để hướng sự phát triển bền vững của các lĩnh vực trong nền kinh tế.
* Các tiêu chí cơ bản của phát triển bền vững
Sự phát triển bền vững của một lãnh thổ phải được đảm bảo một cách
thống nhất và đồng thời trên 3 lĩnh vực:
- Bền vững về kinh tế: thể hiện một cách khái quát ở sự ổn định và không
ngừng gia tăng sức sản xuất của lãnh thổ, tổng sản phẩm phải ngày một tăng
lên.
- Bền vững về mặt xã hội: thể hiện bằng sự phân chia thu thập và phúc
lợi xã hội. Xã hội bền vững phải là một xã hội trong đó phát triển kinh tế phải
đi đôi với công bằng xã hội.
- Bền vững về môi trường thể hiện: sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên và điều kiện môi trường, xã hội. Trong đó đề cao vấn đề bảo vệ môi
trường như một điều kiện sống còn cho sự phát triển của xã hội loài người
trong thế kỷ mới.
8
Quan điểm này chi phối định hướng đánh giá và kiến nghị sử dụng các
loại cảnh quan trong khu vực nghiên cứu của đề tài. Phát triển bền vững được
coi là tiêu chí ưu tiên hàng đầu trong hoạt động đánh giá cảnh quan cho các
mục đích cụ thể.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1.Phương pháp thu thập, xử lí số liệu thống kê
Đề tài thu thập tài liệu, số liệu, các báo cáo, các thông tin, website liên
quan. Đó là các tài liệu về điều kiện tự nhiên: vị trí địa lí, địa chất, địa hình,
thổ nhưỡng, khí hậu, thuỷ văn, sinh vật, các tai biến thiên nhiên; các số liệu
kinh tế xã hội: dân số, diện tích, lao động, hiện trạng sử dụng đất, và các
thông tin về biến động dân số, kinh tế - xã hội
Các số liệu, tài liệu thống kê, phân tích, chọn lọc phù hợp với yêu cầu
của đề tài. Trên cơ sở đó, lập đề cương chi tiết cho công tác thực địa để kiểm
chứng, bổ sung, cập nhật tài liệu, bảo đảm tính đúng đắn và chính xác hoá của
việc điều tra, nghiên cứu tổng hợp điều kiện tự nhiên địa lí lãnh thổ, phù hợp
với mục đích nghiên cứu.
2.2. Phương pháp bản đồ và hệ thông tin địa lý Gis
Phương pháp bản đồ là phương pháp thể hiện nội dung của các nhân tố
trên bản đồ chuyên đề. Công việc chuẩn bị bản đồ cho nghiên cứu cảnh quan
bắt đầu từ việc thu thập, phân loại, biên tập, thành lập, đánh giá bản đồ
chuyên đề về các hợp phần tự nhiên của lớp vỏ cảnh quan trái đất, về đặc
trưng hình thái của các địa tổng thể tự nhiên, làm cơ sở cho việc xây dựng hệ
thống phân loại và thành lập bản đồ chuyên đề.
Ngoài ra, phương pháp bản đồ còn là phương pháp hữu hiệu để thể hiện
sự phân bố không gian các phương án quy hoạch và thiết kế lãnh thổ, đồng
thời giúp cho các nhà quản lý đưa ra những quyết định về tính chất sử dụng
9
lãnh thổ một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so với việc đọc các bảng
thống kê dài.
Với những tính năng của Gis cho phép khai thác được nhiều thông tin
quan trọng. Gis là công cụ đắc lực cho việc nghiên cứu định tính và định
lượng nhiều thông số cần thiết. Đây là một phương pháp đòi hỏi người sử
dụng phải nắm vững chuyên môn và một số phần mềm trong tin học. Trong
quá trình ứng dụng phương pháp này chúng ta sẽ thu được một số kết quả khả
quan cho phân tích và tổng hợp cảnh quan nhằm mục đích sử dụng hợp lý
lãnh thổ.
2.3. Phương pháp phân tích cảnh quan
Trong cảnh quan học, phân tích cảnh quan là một vấn đề quan trọng và
cần thiết, bao gồm việc phản ánh thực trạng về cấu trúc cảnh quan, chức năng
của chúng cũng như các vấn đề liên quan khác. Đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay vấn đề này được tiếp cận với nhiều cơ sở và phương pháp mới, đáng kể
nhất là phương pháp liên ngành và sử dụng cách tiếp cận hệ thống cấu trúc,
tiếp cận sinh thái để xác định cấu trúc, chức năng cảnh quan nói chung trong
việc giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn.
2.4. Phương pháp tiếp cận hệ thống
Cảnh quan là các đơn vị lãnh thổ địa lí tự nhiên có một hệ thống phức
tạp của các hợp phần cấu thành (cấu trúc đứng) và một hệ thống đơn vị sinh
thái cấp nhỏ hơn và cấp lớn hơn (cấu trúc ngang). Có thể nói một hệ thống
được tạo nên bởi nhiều hệ thống nhỏ và các hệ thống nhỏ này được cấu tạo
bởi các hệ thống nhỏ hơn chúng.
Phương pháp tiếp cận hệ thống được áp dụng trong nghiên cứu mối
quan hệ giữa các hợp phần trong cấu trúc đứng cũng như cấu trúc ngang của
10
các loại cảnh quan nhằm xác định tính ổn định và sự biến động của các loại
cảnh quan đó.
2.5. Phương pháp đánh giá tổng hợp
Trong nghiên cứu tổng hợp vùng cho mục đích sử dụng hợp lý tự nhiên
thì một trong những phương pháp quan trọng thường được áp dụng là phương
pháp đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên – tài nguyên thiên nhiên.
Áp dụng phương pháp này có thể dễ dàng xác định mối quan hệ và tác
động tương hỗ của các yếu tố và các thành phần tự nhiên cũng như giữa các
tổng thể tự nhiên với nhau, đồng thời làm sáng tỏ mối quan hệ trong tổ chức
không gian cấu trúc, động lực của cảnh quan với đặc trưng phân hoá của các
dạng sử dụng tài nguyên một cách có quy luật và hiệu quả trên lãnh thổ.
Với phương pháp này, một mặt sẽ xác định rõ bản chất các đơn vị cảnh
quan trong một hệ thống tự nhiên chung và đồng thời đưa ra được những kết
luận chính xác về việc bố trí các ngành sản xuất, kinh tế phù hợp theo từng
vùng.
2.6. Phương pháp khảo sát thực địa
Phương pháp thực địa là phương pháp truyền thống, hết sức quan trọng
đối với tất cả các ngành nghiên cứu tự nhiên.
Trong nghiên cứu khoa học địa lí nói chung quá trình thực hiện phương
pháp khảo sát thực địa được chia làm 3 giai đoạn:
a. Giai đoạn chuẩn bị:
- Xác định mục đích để từ đó vạch ra được kế hoạch thực hiện đề tài
- Xác định tỉ lệ bản đồ phạm vi nghiên cứu và các dụng cụ cần thiết
khác
- Thu thập và nghiên cứu đánh giá các tài liệu, bản đồ liên qua đến đề
tài như: bản đồ địa chất, bản đồ địa hình, bản đồ thổ nhưỡng, bản đồ thực vật,
11
bản đồ hiện trạng sử dụng đất, số liệu khí tượng thuỷ văn, số liệu thống kê
dân số, kinh tế - xã hội
b. Giai đoạn thực địa:
- Kiểm tra và khẳng định các kết quả đạt được từ quá trình nghiên cứu
hay tính toán trong phòng
- Khảo sát theo các tuyến lộ trình đã vạch sẵn để nắm được cấu trúc
ngang và đặc trưng định tính của các đơn vị thành tạo cảnh quan
- Tại điểm nghiên cứu, tiến hành trắc đạc các yếu tố địa hình (độ dốc,
chiều dài sườn, mương xói ) các dạng vi địa hình và tìm hiểu động lực phát
triển của chúng, nghiên cứu các đặc điểm thổ nhưỡng, thảm thực vật hiện tại,
thực hiện các quan trắc vi khí hậu, nhiệt độ đất, dòng chảy mặt, nước ngầm và
lượng đất bị xói mòn Những số liệu đo đạc, quan trắc ở điểm nghiên cứu là
cơ sở để đánh giá đặc trưng định lượng cảnh quan.
- Ngoài những tài liệu tự nhiên thu thập trực tiếp từ các tuyến thực địa
cần thu thập các tài liệu về kinh tế - xã hội, các dự kiến phát triển cải tạo thiên
nhiên và những mốc biến động của các yếu tố tự nhiên trong lịch sử các
nguồn tài liệu của địa phương.
c. Giai đoạn viết báo cáo.
Sau quá trình thực địa, việc nghiên cứu trong phòng gồm:
- Tiến hành tổng hợp, xử lý số liệu, phân tích đánh giá các nhân tố hình
thành cảnh quan, xây dựng hệ thống phân loại cảnh quan
- Lựa chọn các đơn vị chỉ tiêu của các đơn vị cảnh quan. Thành lập
bảng chú giải chính thức và bản đồ dựa vào các số liệu đã thu thập được
- Viết báo cáo trong đó cần nêu bật được các đặc điểm chung, quy luật
phân bố, quá trình phát sinh, động lực phát triển của các đơn vị cảnh quan.
- Kiến nghị, đưa ra các đề xuất sử dụng hợp lý tự nhiên và bảo vệ môi
trường lãnh thổ.
12
V. Kết quả chính của đề tài
- Đưa ra và làm rõ các nhân tố thành tạo cảnh quan huyện Quảng Ninh
tỉnh Quảng Bình
- Xây dựng được hệ thống phân loại cảnh quan khu vực nghiên cứu một
cách hợp lý, đưa ra chỉ tiêu các cấp trong phân loại hệ thống cảnh quan của
huyện và xây dựng bản đồ cảnh quan.
- Làm rõ các đặc điểm cảnh quan huyện Quảng Ninh, trên cơ sở đó
đánh giá được chức năng cảnh quan và đánh giá cảnh quan cho một số ngành
kinh tế trên quan điểm sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
- Đưa ra một số đề xuất và kiến nghị
VI. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của nghiên cứu cảnh quan
Chương 2: Thành lập bản đồ cảnh quan huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng
Bình tỉ lệ 1/50.000
Chương 3: Đánh giá cảnh quan nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo
vệ môi trường huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
13
14
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của nghiên cứu cảnh quan
1.1. Cơ sở lí luận đánh giá cảnh quan cho mục đích sử dụng hợp lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường
1.1.1. Khái niệm cảnh quan
Theo S.V. Kalexnik (1959): “Cảnh quan địa lí là một bộ phận nhỏ của
bề mặt trái đất, khác biệt về chất với các bộ phận khác, được bao bọc bởi
những ranh giới tự nhiên và bản thân là một sự kết hợp các hiện tượng và đối
tượng tác động lẫn nhau một cách có quy luật được hiểu một cách điển hình
trên một khoảng không gian rộng lớn và có quan hệ mọi mặt với lớp vỏ địa
lí”.
Theo N.A. Xolsev (1962): “Cảnh quan địa lí là một thể tổng hợp lãnh
thổ tự nhiên đồng nhất về mặt phát sinh, có một nền địa chất đồng nhất, có
một kiểu địa hình, có một khí hậu đồng nhất và bao gồm một tập hợp dạng
địa lí, chủ yếu và thứ yếu liên kết với nhau về mặt động lực và lặp lại một
cách có quy luật trong không gian; tập hợp này chỉ thuộc riêng cho cảnh
quan địa lí đó”
Ở Việt Nam, GS Vũ Tự Lập được coi là người đầu tiên xác định hoàn
chỉnh cấu trúc không gian của cảnh quan địa lí và đưa ra những định hướng
cơ bản nghiên cứu về cảnh quan ở nước ta. Theo ông: “Cảnh quan địa lí là
một địa tổng thể, được phân hóa ra trong phạm vi một đới ngang ở đồng
bằng và một đai cao ở miền núi, có một cấu trúc thẳng đứng đồng nhất về
nền địa chất, về kiểu địa hình, kiểu khí hậu, kiểu thủy văn, về đại tổ hợp thổ
nhưỡng và đại tổ hợp thực vật và bao gồm một tập hợp có quy luật của những
dạng địa lí và những đơn vị cấu tạo nhỏ khác theo một cấu trúc ngang đồng
nhất”.
15
Về bản chất, cảnh quan là một tổng thể tự nhiên phức tạp, vừa có tính
đồng nhất vừa có tính bất đồng nhất. Tính đồng nhất của cảnh quan được hiểu
ở chỗ là một lãnh thổ mà trong phạm vi của nó, các thành phần và tính chất
của mối quan hệ giữa các thành phần coi như không đổi, nghĩa là đồng nhất.
Tính bất đồng nhất được thể hiện ở 2 mặt: Cảnh quan bao gồm nhiều thành
phần khác nhau về bản chất (địa hình, khí hậu, thủy văn, đất, thực vật) tạo
nên; mỗi thành phần của cảnh quan tồn tại ở nhiều dạng khác nhau (địa hình
âm và địa hình dương, sự khác nhau giữa đỉnh và sườn ngay trên một quả
đồi). Cho nên khi nghiên cứu, đánh giá cảnh quan phải xuất phát từ quan
điểm tổng hợp và quan điểm hệ thống.
Trong nghiên cứu cảnh quan để phục vụ cho thực tiễn sản xuất thì cảnh
quan vẫn được xem xét ở cả 3 khía cạnh là: như đơn vị địa tổng thể (theo khái
niệm chung), đơn vị phân kiểu (theo khái niệm loại hình), đơn vị cá thể (theo
khái niệm cá thể).
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu cảnh quan
Đôcutsaev, nhà bác học Nga vĩ đại được coi là người sáng lập học
thuyết cảnh quan. Ông cũng là người đầu tiên thực hiện nguyên tắc tổng hợp
nghiên cứu các điều kiện tự nhiên khi cho rằng cần phải “tôn trọng và nghiên
cứu toàn bộ thiên nhiên thống nhất toàn vẹn và không chia cắt, chứ không
tách rời chúng ra từng phần”. Mặc dù Đôcutsaev không nêu lên một tên gọi
cho môn khoa học mới, song các học trò của ông và những người theo ông
cũng hiểu và cho rằng quan điểm của ông đã tạo nên bản chất của địa lí hiện
đại.
Đưa khái niệm “cảnh quan” vào trong khoa học là L.S.Becgơ vào năm
1913 khi ông nêu lên rằng, chính cảnh quan là đối tượng nghiên cứu địa lí.
Ông xác định cảnh quan thiên nhiên như là một miền, trong đó đặc điểm địa
hình, khí hậu, thực vật và lớp phủ thổ nhưỡng hợp nhất với nhau thành một
16
thể toàn vẹn, thống nhất, cân đối và lập lại một cách điển hình trong phạm vi
đới ấy trên Trái Đất.
Khoa học cảnh quan trên thế giới đã phát triển từ rất sớm và kế thừa
những nền tảng lý luận của hai trường phái cơ bản là Liên Xô và các trường
phái khác như Anh, Đức (Tây Âu).
- Sự phát triển cảnh quan học ở Liên Xô:
+ Giai đoạn đầu (khoảng những năm thứ XX): chưa có những tổng hợp
lý luận lớn, song quan điểm cảnh quan đã bắt đầu thâm nhập sâu vào các thực
tế nghiên cứu lãnh thổ.
+ Thời kì sau (năm thứ 30 và bắt đầu năm thứ 40 trước đại chiến ái
quốc): Những cuộc nghiên cứu thực địa trong các năm này đã cung cấp những
gương thành công mới trong việc sử dụng phương pháp cảnh quan để giải
quyết những nhiệm vụ kinh tế quan trọng.
Trong giai đoạn này, L.G.Ramenxki lần đầu tiên giải thích vấn đề này
một cách cặn kẽ hơn cả. Nhà bác học này đã nêu lên rằng, cảnh quan là hệ
thống lãnh thổ khá phức tạp, bao gồm những thể tổng hợp thiên nhiên cơ bản
khác nhau, nhưng liên hệ với nhau một cách có quy luật và phát triển như một
thể toàn vẹn. Những thể tổng hợp tự nhiên cơ bản đó ông gọi là “bì diện”,
được hình thành ở bên trong cảnh quan, ở những vị trí khác nhau. L.G.
Ramenxki mang vào khoa học danh từ “cảnh khu” mà ông coi đó là đơn vị
lãnh thổ trung gian, là sự hợp lại các cảnh diện, thích nghi với các dạng địa
hình độc lập, với các bộ phận riêng biệt của bãi bồi sông rộng…Ở ông có thể
tìm thấy những nguyên tắc cơ bản của hình thái học cảnh quan. Sau đó S.V.
Kalexnik phát triển quan điểm về cảnh quan, như là một lãnh thổ độc đáo và
toàn vẹn, thống nhất về mặt phát sinh, mặc dầu về mặt hình thái khác nhau.
+ Thời kì phát triển sau chiến tranh của cảnh quan học Xô Viết được
đánh dấu bằng sự mở rộng mạnh mẽ những cuộc trác hội thực địa cũng như
17
về sự tăng cường nghiên cứu lý luận. Thời điểm này cũng đã tiến hành vẽ bản
đồ cảnh quan trên thực địa. Sự mở rộng những cuộc nghiên cứu cảnh quan
thực địa có một ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thiện sâu hơn lý thuyết
cảnh quan.
+ Từ năm 1955, sự phát triển cảnh quan đạt được những tiến bộ đặc
biệt đáng chú ý khi hội địa lý Liên Xô triệu tập một hội nghị chuyên đề về
cảnh quan học ở Lêningrat. Hội nghị đã thúc đẩy sự phát triển nghiên cứu
cảnh quan và đặt cơ sở đầu tiên cho sự hoàn thiện có điều hòa phối hợp những
vấn đề quan trọng nhất của cảnh quan.
+ Hiện nay, trọng tâm của việc nghiên cứu khoa học cảnh quan là tiến
hành các cuộc nghiên cứu thực địa, xây dựng các bản đồ cảnh quan, cũng như
phân vùng địa lý tự nhiên đất nước, thực hiện nhiệm vụ phục vụ nền kinh tế
quốc dân, xuất bản, báo chí khoa học…
- Sự phát triển cảnh quan học ở các nước Tây Âu:
+ Anh: Ngay từ đầu thế kỉ XX, quan niệm về cảnh quan đã được nêu
lên bởi nhà địa lý A. Ghebecxon, ông viết rằng, đã đến thời kỳ không nên nói
tới sự phân bố địa lý của các hiện tượng địa lý riêng biệt mà nên nói về phân
bố tổng hợp thể của chúng.
+ Đức: Một trong những nhà lý luận cảnh quan đầu tiên là I. Patxaghe
(1866 - 1958) đã viết hàng loạt những công trình lý luận, cũng như đặc trưng
các đới cảnh quan trên trái đất. Patxaghe coi đới như là một đơn vị cảnh quan
lớn, ông chia đới ra làm các miền cảnh quan và cuối cùng là cảnh quan.
+ Ba Lan: Sự quan tâm tới các vấn đề cảnh quan xuất hiện chủ yếu
dưới ảnh hưởng các công trình của các nhà địa lí Xô Viết. Năm 1959, giáo sư
Cônđratxơki đã đưa ra phân loại các cảnh quan Ba Lan và lập bản đồ cảnh
quan tỷ lệ 1/1.000.000.
18
Nhìn chung, các nghiên cứu trên thế giới về cảnh quan đặc biệt là của
các nhà địa lý Xô Viết có giá trị cao về mặt lý luận. Tuy nhiên trong điều kiện
thiên nhiên nhiệt đới gió mùa của nước ta thì khi vận dụng những lý luận và
kinh nghiệm thực tiễn này cần phải lựa chọn các chỉ tiêu cho phù hợp với
thực tế, với các tập quán khai thác lãnh thổ cổ truyền của các cộng đồng dân
cư ở nước ta.
Một trong những công trình tiêu biểu về nghiên cứu cảnh quan ở trong
nước là tác phẩm “Cảnh quan địa lý miền Bắc Việt Nam” của Vũ Tự Lập.
Đây được coi như là giáo trình cơ bản cho sinh viên chuyên ngành cảnh quan.
Tác giả đã trình bày về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cảnh
quan, hệ thống phân vị và phân loại cảnh quan; khái quát đặc điểm của tất cả
các mặt tự nhiên và phân tích mối quan hệ giữa chúng trên lãnh thổ Miền Bắc
Việt Nam. Trong tác phẩm này, tác giả đã nhấn mạnh rằng nghiên cứu cảnh
quan không những chỉ là sự kế thừa, phân tích có chọn lọc các kết quả nghiên
cứu chuyên ngành, mà còn là độc lập nghiên cứu từ khảo sát thực địa cho đến
phân tích các tài liệu, tư liệu thu thập được.
Năm 1997, các tác giả Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Thượng Hùng,
Nguyễn Ngọc Khánh, trong cuốn Cơ sở cảnh quan học của việc sử dụng hợp
lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường lãnh thổ đã miêu tả chi tiết các
quy luật và đặc điểm đặc trưng các tổng hợp thể tự nhiên (các cảnh quan)
nhiệt đới, gió mùa Việt Nam, trên cơ sở một hệ thống phân loại được nghiên
cứu gần đây, tương đối thống nhất cho toàn lãnh thổ, đồng thời theo các miền,
các vùng cảnh quan riêng biệt. Đặc biệt là các tác giả đã đề cập khá đầy đủ về
những biến đổi của tự nhiên nói chung và cảnh quan nói riêng dưới các tác
động, các hoạt động sản xuất của con người, đưa ra các giải pháp, các hướng
tiếp cận khoa học tin cậy sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
19
Cuốn “Đánh giá cảnh quan theo hướng tiếp cận kinh tế sinh thái” của
Nguyễn Cao Huần cũng là một tài liệu có tính khái quát và lý luận cao. Tác
giả đã đề cập đến mô hình đánh giá kinh tế sinh thái các cảnh quan, giới thiệu
các phương pháp truyền thống và hiện đại từ phương pháp đánh giá định tính,
bán định lượng đến định lượng và phương pháp đánh giá tự động.
Cùng với các công trình lý luận về nghiên cứu cảnh quan và đánh giá
cảnh quan là hàng loạt các bản đồ cảnh quan khu vực được thành lập: Bản đồ
cảnh quan Việt Nam 1:1000.000 (Phạm Hoàng Hải); Bản đồ cảnh quan sinh
thái (Nguyễn Văn Vinh chủ biên); Loạt bản đồ cảnh quan khu vực và của các
tỉnh tỉnh cũng được các tác giả này thành lập ở các tỷ lệ khác nhau (Bắc Ninh,
Thái Bình, Cao Bằng, Lạng Sơn, Nghệ An, Đồng bằng sông Hồng, Nam
Định Điều đặc biệt ở các công trình của các tác giả này là đã đưa chỉ tiêu
thảm thực vật hiện đại (đã bị biến đổi) vào hệ thống phân loại để phù hợp với
xu thế trên Thế Giới hiện nay. Đó là các nghiên cứu tự nhiên dưới góc độ
cảnh quan sinh thái, lấy tiêu điểm là tác động của con người và thảm thực vật.
Ở đây có nét khác biệt so với các hệ thống phân loại trước thiên về các yếu tố
tự nhiên, mang tính phát sinh nhiều hơn.
1.1.3. Bản chất đánh giá cảnh quan
Cảnh quan là một tổng thể phức tạp với các cấp phân vị khác nhau.
Đánh giá cảnh quan thực chất là đánh giá tổng hợp các tổng thể tự nhiên cho
mục đích cụ thể nào đó (nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, du lịch…).
Đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên lãnh
thổ nghiên cứu cho các mục đích thực tiễn cụ thể có ý nghĩa khoa học và thực
tiễn lớn. Trên thế giới, phải kể đến các công trình nghiên cứu của các nhà địa
lí tổng hợp tham gia vào quy hoạch các vùng lãnh thổ của Liên Xô cũ như
cộng hòa Ucraina, cộng hòa Liên Bang Nga, các nước cộng hòa Pribantich,
Viễn Đông thuộc cộng hòa Liên Bang Nga, các nước ở Tây Âu và Mỹ…Ở
20
Việt Nam cũng đã tiến hành đánh giá tổng hợp cho các vùng Đông Nam Bộ,
đồng bằng Sông Cửu Long, Tây Nguyên, Tây Bắc, Hòa Bình, Sơn La, Thanh
Hóa…
Trong đánh giá tổng hợp cần phải xác định được đối tượng đánh giá,
mục đích và nội dung đánh giá, đồng thời lựa chọn phương thức đánh giá cho
phù hợp. Đây là những cơ sở khoa học đầu tiên và quan trọng của công tác
đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên nói chung.
- Đối tượng của đánh giá tổng hợp không chỉ là các đơn vị tổng hợp tự
nhiên, các thành phần, các yếu tố riêng biệt của tự nhiên, xã hội mà là tổng
hòa của chúng trong mối quan hệ và tác động lẫn nhau giữa các hệ thống tự
nhiên và các hệ thống kinh tế xã hội.
- Mục đích đánh giá: Các điều kiện tự nhiên, các dạng tài nguyên thiên
nhiên rất phong phú, đa dạng, mức độ sử dụng chúng cho các mục đích cũng
rất khác nhau và kết quả đánh giá tổng hợp chúng cũng biểu thị mức độ “thích
hợp” khác nhau cho mục đích sử dụng.
Cho nên, tùy theo mục đích đánh giá cụ thể sẽ có được một kiểu đánh
giá biểu thị từng giai đoạn đánh giá theo yêu cầu từ thấp đến cao:
+ Đánh giá chung: là giai đoạn đánh giá sơ bộ, ban đầu trên cơ sở các
kết quả nghiên cứu tự nhiên, tài nguyên theo các vùng lãnh thổ mang tính
định hướng chung của các mục đích thực tiễn khác nhau.
+ Đánh giá mức độ “thuận lợi” hay “thích hợp” của các điều kiện tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên đối với các ngành sản xuất và đánh giá kinh tế
kỹ thuật lại đề cập sâu hơn đến giá trị và hiệu quả kinh tế của các ngành sản
xuất đó.
-> Kiểu đánh giá được phổ cập nhất trong những thập kỷ gần đây là kiểu đánh
giá mức độ thuận lợi của điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên theo mức
độ “thuận lợi” hay “thích hợp” của nó cho các dạng khác nhau.
21
- Phương pháp đánh giá: Đánh giá tổng hợp là đánh giá cho một đối
tượng phức tạp, các đơn vị tổng hợp thiên nhiên lãnh thổ luôn luôn biến đổi
theo không gian và thời gian. Cho nên hệ thống các phương pháp đánh giá
tổng hợp cũng hết sức đa dạng bao gồm: phương pháp mô hình chuẩn (mô
hình hóa tối ưu), phương pháp bản đồ, phân tích, tổng hợp, so sánh định tính
và phương pháp thang điểm tổng hợp có trọng số. Các phương pháp này có
thể sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp với nhau theo từng giai đoạn và với từng
mục tiêu cụ thể.
Nhìn chung, đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên là một công việc hết sức phức tạp. Nó xác định được tiềm năng tự nhiên
trong mối liên quan chặt chẽ với các đặc trưng của một thể chế xã hội, trình
độ, mức độ nhận thức khoa học - kỹ thuật của xã hội đó, thông qua việc sử
dụng khai thác các dạng tài nguyên, các điều kiện tự nhiên của lãnh thổ. Nội
dung của đánh giá tổng hợp có thể được khái quát qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1. Nội dung đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên
Đánh giá cảnh quan nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi
trường là một nhiệm vụ quan trọng trong nghiên cứu địa lí ứng dụng, nó có vị
trí và vai trò rất quan trọng đối với các hoạt động phát triển kinh tế, giúp các
22
Đặc trưng của các đơn vị tổng
hợp tự nhiên lãnh thổ
Đặc điểm sinh thái công trình
đặc trưng kỹ thuật - công
nghiệp của các ngành sản xuất
ĐÁNH GIÁ TỔNG HỢP
Xác định mức độ thích hợp của các thể
tổng hợp tự nhiên đối với các mục tiêu
thực tiễn cụ thể
Đề xuất các kiến nghị sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường
nhà quản lý, quy hoạch đưa ra quyết định phù hợp với từng đơn vị lãnh thổ cụ
thể. Đánh giá cảnh quan (ĐGCQ) là bước trung gian giữa nghiên cứu cơ bản
(NCCB) và quy hoạch sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường
(SDHLTN và BVMT):
NCCB ĐGCQ SDHLTN và BVMT
1.1.4. Hệ thống các phương pháp đánh giá
Mỗi thể tổng hợp lãnh thổ là một hệ thống hoàn chỉnh của 2 hệ thống:
tự nhiên và kinh tế xã hội. Để phục vụ cho công tác quy hoạch, tổ chức lãnh
thổ thì việc đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên có
vai trò vô cùng quan trọng. Tuy nhiên mỗi lãnh thổ khác nhau lại có những
đặc thù riêng nên cũng có nhiều phương pháp đánh giá khác nhau. Cụ thể:
- Phương pháp đánh giá tổng hợp: Đây là phương pháp đánh giá xét
đến tất cả các yếu tố tự nhiên và mối liên quan mật thiết với nhau cũng như sự
phụ thuộc chặt chẽ vào yếu tố con người, thông qua các hoạt động kinh tế.
Phương pháp này phức tạp hơn và việc đánh giá đều dựa trên những tính toán
định lượng, được thực hiện thông qua các giai đoạn: xác định hệ thống các
đơn vị đánh giá; lựa chọn và phân cấp các chỉ tiêu cho từng đối tượng đánh
giá; đánh giá mức độ thích nghi sinh thái của từng đơn vị cảnh quan trên lãnh
thổ nghiên cứu. Đánh giá tổng hợp dựa trên các phép phân tích về thích nghi
sinh thái, sự bền vững xã hội, bền vững môi trường và hiệu quả kinh tế.
- Phương pháp đánh giá thành phần: là phương pháp đánh giá cho các
mục đích sử dụng khác nhau như: đánh giá các điều kiện sinh – khí hậu phục
vụ phát triển du lịch, đánh giá đất cho việc phát triển trồng các loại cây công
nghiệp dài ngày… Ở phương pháp này, các thành phần tự nhiên được tách
biệt ra khỏi mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Do đó, đánh giá này thường được
sử dụng trong các ngành khoa học bộ phận.
23
Ngoài 2 phương pháp đánh giá cảnh quan cơ bản trên thì tùy thuộc vào
mức độ chính xác còn có thể phân chia các phương pháp đánh giá cảnh quan
thành:
- Phương pháp đánh giá định tính: là sự phân chia các cảnh quan thành
các mức độ “tốt”, “xấu” khác nhau dựa vào cảm nhận chủ quan hoặc những
phân tích đánh giá theo một cơ sở khoa học nhất định. Các kết quả đánh giá
chỉ dựa trên tính chất bên trong của mỗi cảnh quan, bỏ qua dòng vật chất –
năng lượng đầu vào và đầu ra, đặc biệt là chưa xét đến yếu tố con người cũng
như khoa học – kĩ thuật được áp dụng. Xây dựng các thang đánh giá phân
theo cấp, có thể là 3 cấp (tốt – trung bình – xấu), hoặc 5 cấp (tốt – khá – trung
bình – kém – rất kém), cũng có thể chia thành nhiều cấp hơn nữa tùy theo
từng lãnh thổ nghiên cứu.
- Phương pháp đánh giá định lượng: Phương pháp này còn gọi là đánh
giá kinh tế, đánh giá dựa trên kết quả phân tích các thông số của dòng chi phí
– lợi ích, kết quả đánh giá thường biểu thị bằng các chỉ số định lượng như: giá
trị hàng hóa, năng suất, sản lượng…Do là phải phân tích các thông số cho nên
phương pháp này gặp một vài khó khăn trong việc thu thập các số liệu. Bởi vì
không phải lúc nào việc thu thập các số liệu cũng được như mong muốn.
Không chỉ có vậy, mà thực tế là không phải lúc nào cũng có thể tiến hành
đánh giá kinh tế được, nhất là đối với những lãnh thổ chưa được khai thác.
Khi đó phương pháp này mang tính không khả thi, và người ta sẽ chuyển sang
dùng phương pháp đánh giá định tính.
- Phương pháp đánh giá bán định lượng: Đối với lãnh thổ rộng lớn và
số liệu nghiên cứu chưa đầy đủ thì việc nghiên cứu định lượng sẽ vô cùng
phức tạp. Để khắc phục điều này người ta đã vận dụng phương pháp bán định
lượng, kết hợp kết quả đánh giá phân tích định lượng với phân cấp đối tượng.
24
Như vậy, dù là sử dụng phương pháp đánh giá cảnh quan nào thì chúng
ta cũng đều thấy rằng đó là việc làm cần thiết cho những mục đích sử dụng cụ
thể hay tổng hợp.
1.1.5. Đánh giá cảnh quan cho mục đích sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo
vệ môi trường
Cơ sở khoa học quan trọng của việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo
vệ môi trường trước hết phải được lựa chọn từ các đặc điểm đặc trưng của tự
nhiên, các điều kiện môi trường, sinh thái lãnh thổ. Sử dụng các kết quả
nghiên cứu cảnh quan và nhất là qua bản đồ cảnh quan ở các tỉ lệ khác nhau
sẽ cho một phương thức tiếp cận tổng hợp nhất, tương đối gần gũi, xác thực
với hiện trạng tự nhiên mỗi vùng.
Qua việc phân tích các quy luật hình thành, đặc điểm phân hoá không
gian và thời gian, các đặc trưng về động lực phát triển của cảnh quan, mối
quan hệ và tác động tương hỗ giữa các yếu tố và thành phần của tự nhiên
cũng như giữa các tổng hợp thể tự nhiên với nhau và đặc biệt là việc đánh giá
tổng hợp các đơn vị cảnh quan sẽ cho phép xác định mức độ “thích hợp nhất”,
“tương đối thích hợp”, “không thích hợp” của mỗi đơn vị lãnh thổ cho từng
ngành sản xuất, từng dạng tài nguyên.
Quá trình phân tích cảnh quan, miêu tả các đặc điểm của từng đơn vị
trong hệ thống phân loại cảnh quan, đã làm sáng tỏ không chỉ các đặc điểm
chung, riêng của các cảnh quan đó, mà còn tiến hành đánh giá một cách định
tính và làm rõ những đặc điểm chức năng của chúng.
Trên cơ sở nắm bắt, hiểu biết có hệ thống các quy luật và đặc điểm
chung của tự nhiên; qua nghiên cứu các đơn vị cảnh quan, quy luật phân hoá
chúng theo không gian mỗi vùng, đặc biệt là động lực phát triển của chúng
theo thời gian, trong đó có tính đến những tác động cả chủ quan và khách
quan của các quá trình tự nhiên, cũng như của con người, sẽ có thể hoạch định
25