Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Chủ Nghĩa Siêu Thực Và Hội Họa (Breton, André ) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.48 KB, 15 trang )



Chủ Nghĩa Siêu Thực Và
Hội Họa (Breton, André )




Mối quan hệ của Chủ nghĩa Siêu thực với hội họa vẫn là một
câu hỏi chưa được sáng tỏ, vấn đề khó khăn này đã được các
nhà lịch sử mỹ thuật hé mở hơn khi chú ý ở khía cạnh hình
tượng xảy ra trong các giấc mơ và coi đó là một hành vi đặc
biệt của phong cách nghệ thuật hiện đại.

Điều cốt lõi trong những tranh luận của Breton là vấn đề thị
giác hay thị giác là cảm giác mạnh mẽ nhất và khả năng khắc
ghi những hình ảnh thị giác. Nghĩa là chủ nghĩa siêu thực đã
quan tâm tới hội họa. Các vấn đề của hội họa cho đến thời
điểm này chỉ tập trung vào thế giới bên ngoài, và như vậy, nó
sẽ chẳng bao giờ cạnh tranh với hiện thực. Tuy nhiên, khi
thay đổi mối quan tâm vào hiện thực bên trong, thì hội họa
thực sự có thể thành công trong các tác phẩm của các họa sĩ
siêu thực. Hình mẫu của Breton là Picasso. Cần phải ghi nhận
rằng ông vẫn giữ một thái độ không thù địch gay gắt với
công việc phê bình nghệ thuật thông thường cũng như với
những họa sĩ cấp tiến như Matisse, Derain và người cộng sự
ban đầu của Picasso nhưng ít danh tiếng hơn là Braque.
Không đề cập tới những người đã biến chủ nghĩa Lập thể
thành một trường phái. Những tác phẩm Siêu thực đầu tiên
(cuộc triển lãm đầu tiên diễn ra vào tháng 11 năm 1925) thử
nghiệm mang tính Lập thể và kỹ thuật mang tính vô thức gợi


ý từ các tác phẩm văn học. Bài viết Chủ nghĩa Siêu Thực và
hội họa được đăng tải đầy đủ trong một cuốn sách nhỏ lần
đầu vào năm 1928, nhưng thực tế nó đã xuất hiện trước đó
trong giai đoạn Cách mạng của các nhà Siêu thực. Đoạn trích
dưới đây lấy từ bản dịch tiếng Anh của David Gascoyne,
London , 1936.

Con mắt tồn tại ở trạng thái sơ khai. Sự kỳ diệu của trái đất là
cao hàng trăm phít, điều kỳ diệu của đại dương là sâu hàng
trăm phít và nhân chứng của chúng chỉ là con mắt rộng lớn
của cầu vồng bảy sắc. Đó là hiện diện của sự trao đổi thông
thường những tín hiệu mà những cuộc thám hiểm của trí tuệ.

Nhưng ai là người vẽ ra cán cân của thị giác? Có rất nhiều
thứ tôi đã nhìn thấy không chỉ một lần và người khác nói với
tôi rằng chúng tương tự như thế, những thứ mà tôi tin rằng tôi
có thể nhớ được dù tôi có quan tâm tới chúng hay không, ví
như mặt ngoài của nhà hát nhạc kịch Paris hay con ngựa hoặc
đường chân trời. Có những sự vật mà rất hiếm khi tôi nhìn
thấy hoặc tôi không định quên chúng hoặc không được phép
quên chúng nếu có thể. Có những sự vật tôi đã quan sát một
cách thờ ơ. Tôi không muốn nhìn và đó là những sự vật mà
tôi thích (sự hiện diện của chúng choán hết tâm trí tôi). Có
những thứ mà người khác đã nhìn thấy và họ bằng cách này
hay cách khác gợi ý hoặc không làm cho tôi chú ý tới chúng,
có những thứ mà tôi nhìn nhận rất khác với những người
khác và có cả những thứ mà tôi bắt đầu nhìn mà không thấy.
Và đó cũng không phải là tất cả. [ ]

Cần phải khắc ghi những hình ảnh của thị giác bất kể những

hình ảnh này tồn tại sự ám ảnh hay không, không mang tính
thời gian và dẫn dắt dự sáng tạo đi đến một ngôn ngữ thực
sự, đối với tôi nó dường như không giả tạo hơn bất kỳ cái gì
khác, hơn cả những thứ ban đầu mà tôi thấy không cần phải
nấn ná ở đây. Điều mà tôi có thể làm là cân nhắc xem hiện
trạng của ngôn ngữ ở cùng một góc độ ngôn ngữ của thi ca.
Dường như với mình, tôi đã đòi hỏi một năng lực lớn hơn
bao trùm tất cả những thứ khác tạo thuận lợi cho bản thân tôi
- cho cảm xúc bao trùm cái vẫn được hiểu theo cách thông
thường là cái thực. Tại sao tôi lại quan tâm tới vài dòng chữ?
vài mảng màu?

Đối tượng, bản thân cái đối tượng kỳ quặc ấy được vẽ từ
những sự vật này và có khả năng tác động mạnh mẽ và chỉ có
Chúa mới biết đây là sự khiêu khích hay không, hay là tôi
không hiểu nổi, nó đang bị hao mòn? Sự vật ra sao, cho dù
nếu tôi có tin vào mắt mình, rằng cần phải nói tới một vấn đề
cụ thể. Trong phạm vi ấy, tôi đã sử dụng khả năng tưởng
tượng trong chừng mực nào đó, nếu không cẩn thận, tôi sẽ
ngừng nhận thức. Nếu phút giây này, tôi trở lại với vài bức
vẽ minh họa hoặc một cuốn sách, sẽ chẳng có điều gì ngăn
trở thế giới xung quanh tôi hết tồn tại. Xung quanh tôi bây
giờ là cái gì khác, ví dụ, tôi có thể dễ dàng tham dự một lễ kỷ
niệm nào đó Góc nhà nằm giữa hai bức tường trong tranh
có thể dễ dàng thay thế cho góc nhà giữa trần và hai bức
tường này. Tôi giở tiếp mấy trang sách và mặc dù cái hơi
nóng khó chịu, ít nhất tôi cũng không từ chối phong cảnh
mùa đông này. Tôi có thể chơi đùa với những đứa trẻ có cánh
 Anh nhìn thấy một hang lớn trước mặt đang tỏa sáng và
thực tế tôi cũng nhìn thấy thật. Tôi quan sát nó với đôi mắt

như đang nhìn anh bây giờ, người mà tôi đang viết thư, và tôi
viết một ngày nào đó tôi sẽ có thể nhìn thấy anh như thể cái
khoảnh khắc tôi đã sống ở cây thông Noel này, ở cái hang toả
sáng này, hay cùng những thiên thần có cánh. Bất kể có cảm
nhận được sự khác nhau giữa những sự sống hiện ra như thế
với sự sống thực, sự khác biệt này có thể tạo ra bất cứ lúc
nào. Cho nên, tôi không thể nhìn nhận một bức tranh như bất
cứ thứ gì nhưng với một khung cửa sổ khi tôi chú ý lần đầu
tiên, tôi biết rằng nó nhìn ra bên ngoài hay nói cách khác từ
nơi tôi đứng có một cảnh đẹp và tôi chẳng yêu thích cái
gì quá như khi tôi dõi tầm mắt ở phía trước cho tới nơi xa
thẳm. Bên trong chiếc khung bao gồm một người lạ, mặt đất -
hay bờ biển, tôi có thể thưởng ngoạn một khung cảnh tuyệt
vời. [ ]

Giờ đây khi nói rằng tôi đi hết căn phòng như một kẻ điên,
căn phòng có sàn nhà bóng lộn của bảo tàng, và không chỉ
một mình tôi. Mặc cho đã nhận được vài ánh mắt lấp lánh
của vài phụ nữ, giống hôm nay, tôi chưa bao giờ bị đánh lừa
bởi người lạ rằng những bức tường ngầm đã hiện ra trước tôi.
Tôi bỏ lại đằng sau những lời thỉnh cầu thành kính mà không
hề nuối tiếc. Có quá nhiều cảnh tượng đến cùng một lúc, tôi
không cần tâm trí nào để suy đoán. Khi tôi đi qua những tác
phẩm mang tính tôn giáo và những câu chuyện thần thoại
thôn dã, tôi không để mất đi cái cảm giác rằng mình đã ở đó.
Sự mê hoặc của đường phố bên ngoài có thực hơn đến hàng
nghìn lần. Đó chẳng phải là lỗi của tôi nếu tôi không thể làm
gì được với sự mệt mỏi nặng nề khi đứng trước cuộc diễu
binh vô tận để tới được giải thưởng lớn của Rome và ở đó
chẳng có đề tài hay phong cách cho họ lựa chọn.


Không cần phải nói rằng chẳng có cảm xúc gì được khơi gợi
dưới bức tranh của Leda, chẳng có gì thương tâm, mặt
trời có thể lặn ở phía sau phong cảnh những cung điện kiểu
Roman hoặc không thể đưa ra những giá trị đạo đức vững
bền đối với những hình minh họa của câu chuyện ngụ ngôn
hài hước Thần chết và Chàng đốn củi. Ý của tôi đơn giản
là các tài năng chẳng thu được gì ở những con đường mòn
luẩn quẩn và không có gì, thậm chí còn nguy hiểm khi coi sự
tùy tiện là tự do.

Nhưng mọi vấn đề ngoài xúc cảm khiến chúng ta không được
quên rằng tại thời điểm này bản thân nó lại là thực tế và nó là
cái ta đang bàn đến. Làm sao người ta có thể trông đợi chúng
ta hài lòng với những băn khoăn về một tác phẩm nghệ thuật
đã đem lại như thế? Sẽ không có tác phẩm nghệ thuật nào có
thể tự đưa ra giá trị của nó trước những nhận định của chúng
ta ở góc độ này. Khi tôi biết thế nào là cuộc đấu tranh khốc
liệt giữa thực tại và điều có thể sẽ kết thúc, khi tôi mất hết
mọi hy vọng về việc mở rộng lĩnh vực hiện thực, mà hiện nay
đang bị hạn chế khắt khe tới mức kinh ngạc, và khi trí tưởng
tượng của tôi tác động ngược lại, không còn trùng hợp nữa,
tôi cũng sẽ giống như những người khác, hài lòng với bản
thân và tương đối mãn nguyện. Và tôi sẽ liệt tên tôi vào danh
sách những người thêu dệt, những người mà tôi nên tha
thứ. Nhưng trước đây thì không thể.

Cái khái niệm bắt chước được ghép cho nghệ thuật rất hạn
hẹp như thể mục đích của nó bị đưa xuống tận cùng của
những hiểu lầm nghiêm trọng mà chúng ta vẫn tiếp tục theo

đuổi cho đến tận bây giờ. Với niềm tin rằng, đó chỉ là khả
năng sao chép những hình tượng khiến họ xúc động, các họa
sĩ đã quá dễ dãi khi lựa chọn những hình mẫu. Sai lầm ở chỗ,
họ cho rằng hình mẫu chỉ có thể lấy từ thế giới bên ngoài,
hoặc thậm chí đơn giản là lấy bất cứ cái gì. Cảm xúc của con
người có thể đưa ra những nét độc đáo bất ngờ kể cả đối với
những vật thể tầm thường nhất; tất cả đều có thể đều có thể
tạo ra những hình tượng có sức mê hoặc mạnh mẽ mà con
người đã chiếm hữu để phục vụ cho mục đích lưu giữ hay
củng cố mà sự thực thì chúng có thể tồn tại mà không cần
đến con người, con người đã sử dụng chúng một cách tồi tệ.
Giờ đây, thế giới bên ngoài mỗi ngày trở nên hoài nghi hơn.
Một tác phẩm nghệ thuật tạo hình đáp lại sự cần thiết để làm
sống lại những giá trị thực sẽ hướng tới một hình mẫu nội
tâm thuần túy hoặc sẽ thôi tồn tại.

Với chúng tôi, vấn đề xác định thuật ngữ hình mẫu nội tâm
nghĩa là gì, và nó trở nên đối lập với vấn đề lớn được đặt ra
trong những năm gần đây, khi các họa sĩ muốn khám phá lại
lý do khiến họ cầm bút vẽ - vấn đề mà giới phê bình mỹ thuật
buộc phải lảng tránh. Trong lĩnh vực thi ca, Lautréamont,
Rimbaud và Mallarmé là những người đầu tiên đóng góp
những thiếu hụt của trí tuệ nhân loại: thái độ thiếu tôn trọng,
cái đã khuyến khích trí tuệ tự rút lui khỏi mọi điều lý tưởng
và bắt đầu bận rộn với chính đời sống thực của nó, trong đó,
cái đạt được và cái mong muốn không còn loại trừ lẫn nhau
nữa và chúng cố gắng chịu đựng sự kiểm duyệt gắt gao
thường trực đã gò bó trước đây. Sau sự xuất hiện của họ, ý
tưởng về cái bị cấm đoán và cái được phép đã chấp thuận sự
linh hoạt, và như thế những từ như gia đình, quê hương, xã

hội với chúng tôi như đùa. Đó là bởi họ đã làm cho chúng tôi
phải suy nghĩ và đặt niềm tin vào chính mình, và chúng tôi
liều mình đi theo bước chân của họ với khao khát cháy bỏng
chinh phục, chinh phục một cách hoàn toàn, ý nguyện ấy
không bao giờ rời bỏ chúng tôi, chính vì vậy con mắt của
chúng tôi, con mắt chính xác của chúng tôi phải phản ánh cái
không tồn tại như thể nó đang hiện hữu một cách rõ nét vậy
nhưng đã bị chúng ta lãng quên. Con đường bí hiểm có đầy
chó dữ dõi theo ta mỗi bước đi và mỗi niềm khao khát của ta
chỉ trở lại cùng với sự chiến thắng của những hy vọng đầy ảo
tưởng đã bị ánh đèn pha rọi chiếu trong vòng năm mươi năm
qua. Đã năm mươi năm trôi qua, kể từ khi Picasso bắt đầu
khai phá con đường của ông, và những tia sáng hiện ra cùng
ông. Không ai được cổ vũ để nhìn ra mọi thứ cho đến khi ông
xuất hiện. Các nhà thơ đã từng nói đến một xứ sở mà họ mới
phát hiện, nơi đó có những con đường tuyệt đẹp nhất trên
đời, một phòng vẽ hiện ra dưới đáy hồ, tuy nhiên đối với
ta đây chỉ là ảnh ảo. Phép màu nào đã giúp ông, người khiến
tôi sững sờ và biết ông là một con người may mắn, ông vẫn
xuất hiện trên đỉnh cao nhất của trí tưởng tượng? Trong ông,
động lực lớn lao nào đã thúc đẩy khiến ông đạt được những
điều đó! [ ] Để thoát khỏi những vấn đề nhạy cảm này, hay
hợp lý hơn với sự dễ dãi của những biểu hiện thông thường,
người ta cảnh giác với sự phản bội ở mức độ cao để không
thể không công nhận thực tế trách nhiệm nặng nề của
Picasso. Chỉ cần sự thiếu hụt khả năng của sức mạnh ý chí
cũng đủ cho tất cả những vấn đề mà ta quan tâm ít nhất là trì
hoãn lại nếu không sẽ chẳng có gì cả. Sự kiên nhẫn đáng
khâm phục của ông là sự bảo đảm giá trị miễn trừ mọi yêu
cầu đối với ta và lôi cuốn bất kỳ nhà chuyên gia nào khác.

Liệu ta có thể biết cái gì đang đợi chúng ta ở cuối chặng
đường đau khổ này? Tất cả chỉ là những khám phá vẫn đang
được tiếp tục và những dấu hiệu phục hồi có mục đích đã xảy
ra mà không cần đến bất kỳ khả năng lập lờ nào và kéo theo
một sự gián đoạn khác.[ ]

Người ta không thể hiểu nổi cái tiền định ngoại lệ của
Picasso để mà sợ hãi hay hy vọng có được một phần của ông.
Với tôi, dường như không có gì thú vị hơn thế, để làm cho
những người theo ông nhụt chí hay để vẽ ra một khao khát tài
năng từ vô số những phản ứng. Ông chỉ có thể thỉnh thoảng
tặng cho lòng ngưỡng mộ của họ những thứ mà ông ky cóp.
Lúc chập tối, từ phòng thí nghiệm cho tới bầu trời có những
thực thể thần thánh sẽ tiếp tục chạy trốn kéo theo những
mảnh vỡ của mặt lò sưởi hoa cương, phía sau họ những mặt
bàn đầy ắp những đồ vật mà bạn yêu quí bên cạnh những
chiếc bàn xoay và tất cả những cái đó vẫn tồn tại gắn bó
với những tờ báo từ xa xưa: Le Jour Người ta nói rằng
chẳng có cái gì tựa như hội hoạ siêu thực. Hội họa, văn học
đối với chúng ta là gì vậy, Picasso, anh là người phải chuyển
tải tinh thần không mâu thuẫn nhưng lại né tránh cái điểm xa
nhất! Từ mỗi bức tranh, anh đã thả một chiếc thang dây hay
chiếc thang làm bằng tấm khăn trải giường của mình và
chúng tôi, có lẽ cả anh nữa, đều khao khát được leo vào giấc
ngủ của anh rồi lại từ đó ra đi. Chúng đến và nói chuyện với
ta về hội họa, chúng tới và gợi cho ta nhớ về những phương
tiện của đáng thương của hội họa!

Khi còn là trẻ con, chúng ta có những đồ chơi để đến bây giờ
đôi lúc ta có thể khóc vì nuối tiếc hay tức giận. Có lẽ một

ngày nào đó, ta có thể nhìn thấy những món đồ chơi trong
suốt cuộc đời ta, giống như tuổi thơ của ta một lần nữa.
Chính Picasso đã cho tôi ý tưởng này. [ ]

Chúng ta cứ lớn đến một lứa tuổi nào đó và dường như đồ
chơi của ta cũng lớn lên như thế. Chơi đùa là một phần của
vở kịch, và trí tuệ của ta chính là nhà hát. Picasso, người sáng
tạo những thứ đồ chơi thảm thương cho người lớn, làm cho
họ lớn lên và đôi khi dưới dáng vẻ chọc tức và kết thúc
những bồn chồn vớ vẩn.

×