Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

MÔI TRƯỜNG LAO ĐỘNG VÀ THAI DỊ TẬT potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.33 KB, 7 trang )

TCNCYH 38 (5) - 2005
MÔI TRƯỜNG LAO ĐỘNG VÀ THAI DỊ TẬT
Hoàng Thị Hải Vân
1
, Nguyễn Thị Thúy Hạnh
1
Nguyễn Huy Bạo
2
, Tine Gammeltoft
3
1
Khoa Y tế công cộng – Trường Đại học Y Hà Nội
2
Bệnh viện Phụ sản Hà Nội


r



t


3
Khoa Nhân học – Trường Đại học Copenhagen - Đan Mạch

Trong quá trình phát triển thai có thể bị tác động bởi một yếu tố nào đó dẫn đến phát t iển bất thường
hoặc bị dị tật. Song việc tìm ra nguyên nhân gây dị tật không phải là một công việc dễ dàng. Mục tiêu:
Tìm hiểu suy nghĩ của các phụ nữ có thai bị dị tật về nguyên nhân gây nên dị tật cho thai nhi. Đối tượng
và phương pháp: 30 phụ nữ mang thai có chẩn đoán thai bị dị tật qua siêu âm 3 chiề
u và các thành viên


khác trong gia đình họ. Phương pháp nghiên cứu được áp dụng là nghiên cứu định tính, sử dụng kỹ thuật
quan sát và phỏng vấn sâu. Kết quả: Có một số yếu tố nghề nghiệp và môi trường lao động của bố hoặc
mẹ liên quan đến dị tật của thai nhi. Tuy nhiên hầu hết họ không công nhận nguyên nhân này và muốn
dấu kín điều này với gia đình, hàng xóm láng giềng cũng như với đồng nghi
ệp của họ. Sự giấu giếm này
cùng với việc không quan tâm tới ảnh hưởng của môi trường lao động tới sức khoẻ của họ gây khó khăn
cho việc phòng tránh những tác hại không tốt của môi trường lao động tại Việt Nam. Kết luận: Nhiều yếu
ố của môi trường lao động có thể là nguyên nhân gây nên dị tật bẩm sinh cho thai nhi song vì nhiều lý do
khác nhau các phụ nữ có thai nhi bị dị tật đề
u không muốn nghĩ tới nguyên nhân này.
Từ khóa: dị tật bẩm sinh, môi trường lao động, siêu âm 3 chiều.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân số và nguồn nhân lực mà tựu trung lại là
con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển kinh tế xã hội. Việc bảo đảm dân số ổn
định, phát triển bền vững kinh tế xã hội, chất
lượng cuộc sống của cộng đồng và của mỗi thành
viên trong xã hội không ngừng được cải thiện là
mục tiêu và yêu cầu đặt ra đối với mọi dân tộ
c,
mọi đất nước nói chung và Việt Nam nói riêng. Đặc
biệt trong thời điểm hiện nay Việt Nam đang bước
vào thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
vấn đề chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân
lực đang được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên theo
“Báo cáo phát triển con người” của Liên Hợp Quốc
năm 2001 về chất lượng dân số Việt Nam mặc dù
đã có nhữ
ng tiến bộ nhất định với chỉ số phát triển
con người tăng liên tục nhưng tốc độ còn chậm và

về trí tuệ đáng tiếc là còn 1,5% dân số bị thiểu
năng về thể lực và trí tuệ hay nói cách khác là tàn
tật [8]. Nguyên nhân tàn tật chủ yếu là do dị tật
bẩm sinh, bệnh tật, hậu quả chiến tranh, tai nạn
lao động và một số nguyên nhân khác. Theo
Mekdeci trẻ bị dị tậ
t bẩm sinh ngoài nguyên nhân
rối loạn di truyền, ảnh hưởng của môi trường xung
quanh, có thể là môi trường sống, có thể là môi
trường lao động tác động tới người mẹ trong quá
trình mang thai song “phần lớn các dị tật bẩm sinh
không rõ nguyên nhân” [10].
Trong môi trường lao động, có rất nhiều yếu tố
ảnh hưởng không tốt tới sức khoẻ người lao động.
Nam giới và nữ giới đều tiếp xúc với các loại tác
hại nghề nghi
ệp tương tự nhưng do có chức năng
sinh đẻ, người phụ nữ có thêm tác hại nghề
nghiệp tác động đến thai. Với các mức độ khác
nhau, các yếu tố của môi trường lao động đều có
tác động khác nhau đến đời sống sinh dục của lao
động nữ. Một số chất gây độc hại rõ rệt đối với
người mẹ cũng như đối với con như các chất
Nitrobenzen, Pb, Hg, As, … có thể qua rau thai gây
rối loạn phát triển bình thường của bào thai; Pb,
Hg, C
6
H
6
, As ảnh hưởng tới quá trình thai nghén

gây nên sảy thai và đôi khi dẫn tới vô sinh, gây tổn
thương các tế bào phôi [7]. Với lao động nam một
số yếu tố tác động từ môi trường lao động có thể
gây vô sinh hoặc biến đổi về mặt di truyền của
tinh trùng [7].
Ở nhiều nước trên thế giới đã có các thống kê
dị tật bẩm sinh ở trẻ sơ sinh và người bị dị tật bẩm
sinh trong cộng đồng. Trên phạm vi toàn thế giới
“Trung tâm thông tin quốc tế cho hệ thống giám
sát dị tật bẩm sinh” đã được thành lập từ năm
1974 với mục đích thu thập các thông tin liên quan
đến dị tật bẩm sinh [7]. Việc thống kê, giám sát
1
TCNCYH 38 (5) - 2005

ĩ i

được dị tật bẩm sinh cho phép các nhà khoa học
đánh giá tác động của môi trường từ đó có những
biện pháp phòng tránh hữu hiệu hạn chế sự ra đời
của những đứa trẻ bị dị tật. Tuy nhiên để làm
được điều này kỹ thuật chẩn đoán trước sinh trong
đó có siêu âm 3 chiều đóng một vai trò quan
trọng. Qua siêu âm 3 chiều người phụ nữ không
chỉ được nhìn thấy mặt c
ủa con mình khi còn trong
bụng, giúp người phụ nữ biết tỉ mỉ hơn về sự phát
triển của thai nhi mà còn giúp phát hiện sớm
những dị tật có thể có của thai nhi.
Qua siêu âm 3 chiều, dị tật của thai nhi có thể

được phát hiện sớm song để xác định được
nguyên nhân của dị tật không phải dễ dàng. Theo
Mekdeci có một số cách nghiên cứu nguyên nhân
của dị tật bẩm sinh đã được áp dụng, đó là nghiên
cứu invitro, nghiên cứu trên động vật trong phòng
thí nghiệm và nghiên cứu trên quần thể người
song đều rất khó khăn [10]. Cũng theo Mekdeci,
trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về nguyên
nhân dẫn tới những dị tật của thai nhi và thực sự
là đã có kết quả.
Tại Việt Nam cũng có không ít những nghiên
cứu về điều kiện lao động của phụ nữ nói chung
và phụ nữ trong th
ời kỳ mang thai như nghiên cứu
về việc sử dụng thuốc trừ sâu của phụ nữ trong
thời kỳ mang thai của Trường Đại học Y Hà Nội
[9]
;
hay tìm hiểu về các bệnh mà lao động nữ
trong ngành nông nghiệp và trồng cà phê thường
mắc phải do công việc của mình trong nghiên cứu
của Trần Như Nguyên và cộng sự [8]
;
Cục Y tế dự
phòng Bộ Y tế cũng đã có dự án bảo vệ sức khoẻ
lao động nữ trong nông nghiệp dựa trên những
vấn đề về sức khoẻ mà lao động nữ trong nông
nghiệp thường mắc phải [8];

Nguyễn Thị Thu và

cộng sự đã tiến hành nghiên cứu điều kiện lao
động nông nghiệp và ảnh hưởng của nó tới sức
khoẻ người lao động trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước [6]
;
Trong cuốn sách
Phụ nữ sức khoẻ và môi trường của Trung tâm
nghiên cứu và phát triển giới, vấn đề sức khoẻ lao
động nữ gặp phải trong các lĩnh vực lao động khác
nhau cũng đã được nghiên cứu [6]. Tuy nhiên
trong các nghiên cứu này các tác giả chỉ đi sâu tìm
hiểu những yếu tố có hại trong môi trường lao
động của chị em phụ nữ và thống kê những vấn
đề sức khỏe (như các bệ
nh nội khoa, các triệu
chứng hay gặp…) của lao động nữ mà chưa có
nghiên cứu nào đề cập đến mối liên quan giữa môi
trường lao động với thai bị dị tật.
Mục tiêu: Tìm
hiểu suy ngh của các phụ nữ có tha bị dị tật
về nguyên nhân gây nên dị tật cho thai nhi.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu:
các phụ nữ mang
thai đến siêu âm tại phòng siêu âm 3 chiều của
bệnh viện Phụ sản Hà Nội có chẩn đoán thai bị dị
tật. Có tất cả 30 phụ nữ có chẩn đoán thai nhi bị dị
tật đã được nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp
nghiên cứu định tính. Hàng ngày nghiên cứu viên
tới làm việc tại phòng siêu âm 3 chiều của bệnh
viện phụ sản Hà Nội, phỏng vấn các phụ nữ đến
siêu âm theo bộ câu hỏi có cấu trúc tại phòng
khám. Với các ca siêu âm thai nhi có dị tật nghiên
cứu viên sẽ tiến hành quan sát tại phòng siêu âm,
quan sát tại phòng khám thai. Sau đó quan sát,
phỏng vấn sâu tại nhà phụ nữ đã siêu âm phát
hiện thai bị dị tật, đồng thời phỏng vấ
n người thân
của sản phụ có thai bị dị tật.
- Tất cả các nhân vật trong bài báo này đã
được đổi tên để đảm bảo tính bí mật
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN
LUẬN
Có 30 trường hợp thai bị dị tật đã được nghiên
cứu phát hiện với nhiều loại hình dị tật khác nhau
như: giãn não thất, hội chứng DANDY WALKER,
không có dạ dày, thiếu thùy nhộng não thất 4, não
úng thủy, thai vô sọ, khoèo tay, dị dạng về tim,
thoát vị ối, bụng cóc, hai thai dính nhau, cột sống
cong, sứt môi hở hàm ếch, dị sản bạch mạch, …
Mỗi người có một hoàn cảnh sống khác nhau, mỗi
người có công vi
ệc khác nhau và trong số những
trường hợp thai bị dị tật bẩm sinh chúng tôi thấy
một số trường hợp có thể có liên quan đến môi
trường lao động. Tuy nhiên họ có một điểm chung
là hầu hết không ai nghĩ nguyên nhân dẫn đến

thai nhi bị dị tật là do môi trường lao động.
Câu chuyện của ch Khanh:
Có thể nói chị Khanh là một trường hợp đặc
biệt mà chúng tôi gặp trong số các phụ nữ có thai
bị dị tật bởi chị là người duy nhất tự khẳng định
nguyên nhân dẫn đến thai nhi của chị bị dị tật.
Năm nay chị Khanh 41 tuổi, chị có một con trai 16
tuổi hoàn toàn khoẻ mạnh. Sau khi sinh cháu đầu
2
TCNCYH 38 (5) - 2005
một năm chị đã phải bỏ thai một lần vì lúc đó con
trai chị còn quá nhỏ đồng thời chị Khanh bắt đầu
bán phân lân, phân đạm và dầu hỏa cho hợp tác
xã và cho đến tận năm 1998 chị mới nghỉ thôi bán.
Năm 1997 chị lại mang thai nhưng bị đẻ non vào
tháng thứ sáu với dị tật là có 6 ngón tay. Chị cho
biết của hàng bán phân đạm của hợp tác xã khá
chật vòng quanh người chất toàn phân đạm, ch

phải tiếp xúc quanh năm đặc biệt khi thời tiết nóng
phân đạm để lâu mùi rất khó chịu, nồng nặc đến
mức cảm thấy ngạt thở. Sau lần có thai đó, chị
thực hiện kế hoạch hóa gia đình cho đến tận bây
giờ. Lần này không may có thai nên anh chị để đẻ.
Chị phát hiện ra thai bị dị tật vào tháng thứ 3 qua
siêu âm 3 chiều tại 2 phòng khám khác nhau và
được các bác sỹ khuyên nên bỏ thai. Vợ ch
ồng chị
và mẹ chồng chị đều nhất trí bỏ thai vì thứ nhất là
thai đôi bị dị tật khá nặng: đa dị tật: 2 đầu, 2 thai

dính nhau, cột sống cong; thứ hai nếu để đứa trẻ
sống với dị tật thì sẽ rất khổ cho nó, sau nữa là
khổ cho mình. Khi được hỏi về gia đình có ai đi bộ
đội không chị như đoán trước được ý chúng tôi
muố
n nghĩ đến hậu quả chất độc màu da cam chị
nói ngay: chồng chị là bộ đội nhưng chỉ ở Sơn Tây
không đi chiến trường. Bố của chị và bố của anh
ngày xưa cũng là bộ đội nhưng là bộ đội thông tin
không đi vào Nam mà chỉ ở Hà Nội. Chị nói thêm
ngày xưa khi có vấn đề gì thì chỉ nghĩ ngay đến đi
bộ đội còn không các cụ đẻ sòn sòn chẳng có v
ấn
đề gì, còn bây giờ tất cả là do ăn uống có thuốc
sâu, thịt thì có thuốc tăng trọng ngoài ra là do môi
trường làm việc, trường hợp của chị là do ngày
xưa chị bán hàng phân hóa học.
Câu chuyện của Minh:
Trường hợp của Minh thật dáng tiếc vì cái thai
trong bụng cô được phát hiện ra có dị tật khi đã ở
tuần thứ 38 và đang có dấu hiệu chuyển dạ. Kết
quả siêu âm 3 chiều cho thấy thai nhi bị
thoát vị
rốn, thai chậm phát triển, thiểu ối. Theo các bác sỹ
thì dị tật của thai nhi có thể khắc phục được qua
phẫu thuật tuy nhiên bé trai sinh ra quá nhỏ
(1,6kg) và tình trạng của cháu bé tương đối nặng,
các nội tạng ở phần bụng gần như nằm bên ngoài
nên cháu đã tử vong sau khi được phẫu thuật tại
Viện Nhi Trung Ương. Đây là lần mang thai đầu

tiên của cô. Minh cho biết trong quá trình mang
thai sức khoẻ củ
a cô hoàn toàn bình thường ngoại
trừ một lần bị cúm 2 ngày vào tháng thứ 3 song
tất cả các lần khám thai kể cả sau lần cô bị cúm
các bác sỹ đều cho biết thai phát triển bình
thường. Khi có dấu hiệu chuyển dạ Minh vào bệnh
viện Gia Lâm thì do thai quá nhỏ nên cô được
chuyển lên Bệnh viện Phụ sản. Khi được hỏi họ
nghĩ thế nào về nguyên nhân dẫn đến thai bị dị tật
thì cả 2 vợ chồng Minh
đều nghĩ ngay đến lần
Minh bị cảm cúm. Chúng tôi có hỏi về công việc
của họ nhưng cả 2 đều loại bỏ nguyên nhân do
môi trường lao động của họ với lý do các đồng
nghiệp của họ có con khoẻ mạnh. Minh quê ở
Hưng Yên, làm thợ may ở một công ty may đã
được 5 năm, cô làm ở bộ phận đóng gói nghĩa là
cho sản phẩm đã hoàn chỉnh vào túi nilông nên
không hề có tiếp xúc gì với hoá ch
ất độc hại. Còn
Quân (chồng của Minh) làm ở Công ty chế tạo máy
biến áp đã được 8 năm. Quân làm ở bộ phận lắp
máy và đổ dầu vào những cái biến thế ngoài trời,
ở đó có rất nhiều bụi sơn, theo Quân cũng rất ô
nhiễm nhưng anh vẫn không cho rằng đó là
nguyên nhân dẫn đến dị tật cho con anh.
Câu chuyện của Trâm:
Trâm còn khá trẻ, cô mới 22 tuổi và ở tận Vĩnh
Phúc cách Hà Nội 70km. Kết quả siêu âm 3 chiều

cho thấy thai nhi có bụng cóc. Theo chỉ định của
bác sỹ phòng khám thì phải bỏ thai không giữ
được. Đây là lần có thai đầu tiên của Trâm, Trâm
cho chúng tôi xem kết quả siêu âm lần đầu tiên tại
Vĩnh Yên: thai ít ối, nghi bụng thai có dịch đồng
thời thai rất bé. Sau khi ở Hà Nội về Trâm vào viện
đặt thuốc để cho thai ra đó là một bé gái các bộ
phần đều bình thường ngoại trừ cái bụng của em
bé to hơn bình thường. Hai chị em gái của Trâm
đều đã lập gia đình và có con cái khỏe mạnh. Gia
đình bên chồng Trâm cũng không ai có bệnh tật
gì. Hoàn cảnh kinh tế của vợ chồng Trâm rất khó
khăn. Nhà của vợ chồng Trâm là một cái trái nhà
của ngôi nhà cũ của bố chồng Trâm để lại, chỉ
khoảng 15m2. Vợ chồng Trâm ngoài công việc
đồng áng có đi làm thuê cũng chỉ được rất ít tiền
(khoảng 20.000 - 30.000 đồng/ngày). Số
tiền
1.000.000 đồng chi cho lần có thai vừa rồi vợ
chồng cô cũng phải đi vay. Khi được hỏi nghĩ thế
nào về nguyên nhân gây nên dị tật của thai, Trâm
cho biết cô không nghĩ gì mà chỉ cho rằng tại số cô
vất vả. Tuy nhiên khi câu chuyện của chúng tôi
chuyển sang chủ đề phun thuốc trừ sâu thì cuộc
nói chuyện sôi nổi hẳn lên. Tất cả mọi người bà
nội chồng Trâm, thím chồng Trâm, con dâu bà
thím chồng Trâm đề
u tham gia câu chuyện. Họ nói

3

TCNCYH 38 (5) - 2005
rất nhiều về công việc đồng áng và tác hại của
việc sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và thuốc
kích thích. Mặc dù không biết rõ các loại thuốc này
độc hại như thế nào nhưng mọi người đều phản
đối việc Trâm đi phun thuốc trừ sâu khi cô mang
thai. Theo thím chồng Trâm đáng lẽ việc đó Trâm
nên để chồng làm còn bà nội chồng Trâm thì cho
rằng nên thuê người phun thuốc và khi dùng xong
phả
i để ở ngoài ruộng chứ không nên đem về nhà.
Trong thời gian mang thai, Trâm nhớ cô đi phun
thuốc 2 lần, thuốc còn lại chưa dùng hết được
Trâm cất ở dưới bếp đó là thuốc Bascide, thuốc trừ
rầy của Công ty thuốc trừ sâu Sài Gòn ở dạng dịch,
không rõ thành phần và thuốc Dipte Cide, thuốc
trừ sâu sản xuất tại Trung Quốc thành phần chủ
yếu là Tri - Clorfon, dạng bột có mùi rất hắc gây
bu
ồn nôn.
Những người phụ nữ có con bị dị tật nghĩ thế
nào về nguyên nhân dẫn đến dị tật?
Dị tật bẩm sinh chủ yếu phát sinh trong giai
đoạn phát triển phôi, tức là ở giai đoạn hình thành
các phần của cơ thể, các cơ quan của cơ thể. Do
đó mọi tác động từ bên ngoài sẽ dẫn đến những
bất thường trong quá trình phân chia và hình
thành các cơ quan dẫn đế
n dị tật. Để khẳng định
nguyên nhân từ môi trường trước hết phải có yếu

tố nguy cơ từ môi trường, tiếp đó là phải có thời
gian tiếp xúc. Với các phụ nữ có thai bị dị tật
chúng tôi thấy trước và trong thời kỳ có thai của
mình họ đều có tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ có
khả năng gây nên dị tật của thai nhi. Điều này đã
được ch
ứng minh bằng nhiều nghiên cứu trên thế
giới mà tác giả Mekdeci đã tổng kết trong bài báo
của mình. Song khi được hỏi các chị nghĩ như thế
nào về nguyên nhân gây nên dị tật cho thai nhi thì
không ai trong số họ nghĩ tới môi trường lao động
của mình trừ chị Khanh.
Với chị Khanh chị đã phải tiếp xúc với các hóa
chất độc hại trong một thời gian rất dài (10 năm).
Sau khi sinh cháu đầu tiên hoàn toàn khoẻ mạnh,
bây gi
ờ đã 16 tuổi, được 3 tháng thì chị Khanh bắt
đầu bán phân đạm, dầu hoả. Sau đó là một lần chị
bị sẩy thai với dị tật 6 ngón tay tiếp đó là lần mang
thai này với thai đôi đa dị tật. Chị Khanh cho biết:
“mỗi lần cúi xuống cân phân đạm mà đứng dậy
không ngẩng lên nổi, hoa mắt, chóng mặt”, “nó sộc
lên khó thở và cảm thấy nó hút hết oxy của mình”.
Đây cũng chính là các dấu hi
ệu thường gặp sau khi
phun hoá chất bảo vệ thực vật thường gặp của
người lao động: “sau khi phun hoá chất bảo vệ thực
vật, triệu chứng chủ yếu là: ngứa da, đau đầu, mệt
mỏi, chóng mặt, choáng váng, buồn nôn” [6].
Đối với Trâm mặc dù có tiếp xúc với yếu tố

nguy cơ trong giai đoạn đầu của thời kỳ thai nghén
và cả những thời gian trước khi có thai như
ng
Trâm lại không nghĩ đó là nguyên nhân dẫn đến
con của chị bị dị tật. Những người thân quen của
chị khi tham gia câu chuyện cùng chúng tôi đều
cho rằng việc tiếp xúc với thuốc trừ sâu của Trâm
trong quá trình mang thai thật sự là nguy hiểm.
“Những người đeo bình bơm là chết sớm” – thím
của chồng Trâm đã nói như vậy. Trong khi đó thì
bà nội chồng Trâm khẳng định nguyên nhân chính
dẫn đến việc này là do Trâm đ
i phun thuốc trừ sâu
trong thời kỳ mang thai và theo bà: “phun xong
phải vứt ở ngoài đồng chứ mang về nhà làm gì?”.
Trường hợp của Minh lại khác, mặc dù Minh
làm nghề may lại ở bộ phận không hề có tiếp xúc
với hoá chất độc hại nhưng Quân chồng Minh lại
làm việc trong một môi trường hoá chất độc hại
trong một thời gian khá dài (8 năm). Theo Quân
cho biết môi trường làm việc rất ô nhiễm nhưng
anh không cho rằng đ
ó là nguyên nhân. Song
những đồng nghiệp của Quân cho biết môi trường
làm việc của anh thực sự độc hại.
Vậy đâu là nguyên nhân chính dẫn đến những
khiếm khuyết của các thai nhi? Mỗi người một
hoàn cảnh khác nhau, mỗi người một nghề nghiệp
khác nhau, họ sống ở các khu vực khác nhau xong
qua câu chuyện của Trâm, của Minh và của chị

Khanh có thể thấy nổi lên các yếu tố thực sự có
hạ
i trong môi trường làm việc của họ. Ít nhiều cả
chị Khanh, Trâm và chồng của Minh đã có một
khoảng thời gian dài tiếp xúc với yếu tố nguy cơ
mà họ đều nhìn thấy. Không chỉ có trường hợp của
Trâm, của Minh và của chị Khanh, trong nghiên
cứu của chúng tôi nhiều trường hợp có thai dị tật
có tiếp xúc với yếu tố nguy cơ trong môi trường
lao động của mình mà họ không biết hoặc cố
tình
phủ nhận. Như trường hợp của chị Hà Thị Thuỷ,
chị làm tại bộ phận in date của Nhà máy bánh kẹo
Hải châu, có nghĩa là chị thường xuyên tiếp xúc với
chì sử dụng trong công nghệ in và hoá chất tẩy
rửa, 2 lần có thai thì cả 2 lần đều được chẩn đoán
là Dị sản bạch mạch và phải phá thai song theo chị
công việc của chị không hề có một chút gì độc hạ
i

4
TCNCYH 38 (5) - 2005
hay nguy hiểm. Chị Lê Thị Thương làm công nhân
thêu thường xuyên tiếp xúc với các loại hoá chất
được sử dụng làm thuốc nhuộm nhưng chị cũng
không đề cập đến nguyên nhân này, Chị Nghiêm
Thị Thúy Hà làm việc trong môi trường có sử dụng
hóa chất nhưng chị cũng cho rằng chị làm việc văn
phòng nên đôi khi chỉ cảm thấy hơi nặng mùi.…
Có không ít những nghiên cứu đã được tiến

hành nhằm tìm hi
ểu ảnh hưởng của môi trường lao
động lên sức khoẻ người lao động, tuy nhiên các
nghiên cứu chủ yếu tiến hành trên cộng đồng do
đó dị tật bẩm sinh chỉ được phát hiện dựa trên các
đứa trẻ còn sống. Hiện nay siêu âm 3 chiều, một
hình thức chẩn đoán trước sinh công nghệ cao có
thể giúp chẩn đoán sớm thai bị dị tật nhưng chi
phí không rẻ do đó việc tiếp cận đố
i với các phụ
nữ có thai hạn chế dẫn đến thai bị dị tật không
được phát hiện sớm. Qua các trường hợp nghiên
cứu trên cho thấy không thể coi thường điều kiện
môi trường lao động. Các yếu tố này có thể chưa
gây nên những hậu quả nghiêm trọng ngay lập tức
nhưng với thời gian nó gây ảnh hưởng nghiêm
trọng tới chất lượng dân số trong những thế hệ
tiếp theo.
Tại sao họ lại phủ nhận tác động của môi
trường lao động tới dị tật bẩm sinh của thai nhi?
Trừ chị Khanh khẳng định nguyên nhân dị tật
của thai là do môi trường lao động của chị cụ thể
là do chị tiếp xúc với hoá chất phân lân, phân đạm
và dầu hoả trong 10 năm liền, còn lại tất cả các
phụ nữ khác đều phủ nhận ảnh hưở
ng của môi
trường lao động. Tại sao lại như vậy trong khi họ
có tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ đó? Qua các
cuộc phỏng vấn và trao đổi với các phụ nữ cũng
như người nhà của họ chúng tôi nhận thấy không

phải họ không biết mà họ không muốn nghĩ đến
đó là nguyên nhân gây nên tình trạng dị tật của
con mình vì nhiều lý do khác nhau.
Hoàn cảnh gia đình Trâm thì rất khó khăn chật
v
ật. “Nhà của vợ chồng Trâm là một cái trái của
ngôi nhà cũ của bố chồng Trâm để lại, chỉ khoảng
15m2. Đồ đạc trong nhà Trâm rất đơn giản, chỉ có
một chiếc giường đôi, một bộ bàn ghế nhựa và
một thùng thóc rất to để ở góc nhà”. Số tiền
1.000.000 chi phí cho việc bỏ thai vừa rồi vợ chồng
chị phải đi vay. Mọi việc đồng áng của gia đ
ình
đều do Trâm đảm nhiệm, chồng Trâm còn bận đi
làm thêm không thể đi phun thuốc thay Trâm theo
ý kiến của thím chồng, Trâm cũng không thể đi
thuê phun mặc dù chỉ 2000 đồng một bình mà
theo bà nội chồng Trâm “tiền đi chợ một hôm thì
đủ”. Vì vậy mặc dù có thai nhưng Trâm vẫn tự đi
phun thuốc trừ sâu với lý do thật đơn giản: “lúc
đấy em có nghĩ là đi phun thuốc thì có thể ảnh
hưởng. Tại vì em không biết lúc em có ch
ửa hơn
tháng em đi phun thuốc xong rồi về em mới thử
sau đó em lại đi phun tiếp vì đang phun dở mà
nhà lại không có người phun” và “ở đây thuê người
phun khó lắm chị ạ vì người ta nói phun thuốc có
hại nên không ai người ta muốn làm”. Trâm không
muốn nghĩ đến nguyên nhân phun thuốc trừ sâu
mà cô chỉ trả lời không biết nguyên nhân do đâu.

Ngoài ra cô còn kể thêm cho chúng tôi về 2 người
con gái khác trong làng cưới cùng tháng với cô
cũng phải bỏ con đầ
u rồi cô kể về số cô vất vả hơn
đứa em cùng sinh đôi với mình. Tuy nhiên Trâm
cũng giống như những người phụ nữ nông thôn
khác, họ vẫn lao động bình thường trong thời gian
mang thai thậm chí còn lao động nặng: 67,6% phụ
nữ làm đất khi mang thai đến khi đẻ, 80% phụ nữ
gánh nặng từ khi mang thai đến khi sinh nở [6].
Hay 17,2 - 30,7% số phụ nữ có thai và cho con bú
cũng như hành kinh đi phun thuốc trừ sâu [8];
35,8% phụ nữ t
ại xã Nhật Tân huyện Kim Bảng
tiến hành phun thuốc trừ sâu trong thời kỳ có thai
[9]. Điều này cũng phù hợp với thực tế bởi lao
động nữ chiếm trên một nửa trong ngành lao động
nông nghiệp nước ta: 55,5% ở tuyến huyện và
53,6% ở tuyến xã [8]. Do đó ở nông thôn người
phụ nữ có vai trò quan trọng trong lực lượng lao
động của gia đình điều đó cũng đồng nghĩa với
việc họ phải đối mặt với những yếu tố nguy cơ đối
với sứckhoẻ của họ nói chung và sức khoẻ sinh
sản của họ nói riêng như: công việc nặng nhọc,
phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu, môi trường lao
động bị ô nhiễm.
Với vợ chồng Minh lại khác, môi trường làm
việc của Minh không có gì độc hại theo như Minh
cho biết nhưng môi trường làm vi
ệc của Quân

chồng Minh lại rất độc hại. Trong quá trình mang
thai Minh có một lần cúm nhẹ vào tháng thứ ba
nên vợ chồng Minh chỉ cho rằng nguyên nhân tại
lần cúm đó mà không cho rằng Quân bị ảnh hưởng
bởi môi trường làm việc bị ô nhiễm: “trong công ty
em phải có đến 6,7 cặp vợ chồng lấy nhau cũng có
con cái rồi nhưng chưa có vấn đề gì, còn công ty
của Minh chắc là nhiều”. Khi trao đổi với chúng tôi

5
TCNCYH 38 (5) - 2005
tại bệnh viện, Quân cho biết anh không muốn làm
việc tại đó nữa mặc dù anh đã làm ở đó 8 năm nay
chỉ vì làm ở đó không được thoải mái về thời gian,
về lương của mình Quân hoàn toàn không phàn
nàn gì (lương của Quân cũng tương đối cao: 1,2 -
1,3 triệu đồng/tháng). Khi được hỏi anh có nghĩ
rằng môi trường làm việc ở đó bị ô nhiễm hay
không? Quân cho rằng có nhưng đó không thể là
nguyên nhân dẫ
n tới dị tật của con anh. Tuy nhiên
khi chúng tôi gặp bạn của anh thì họ cho biết:
“hàng ngày Quân phải làm việc trong môi trường
rất độc hại. Anh thường xuyên tiếp xúc với những
loại hóa chất mà không ai dám làm. Những ai đến
gần căn phòng Quân làm việc đều cảm thấy khó
thở mà Quân thì ngày nào cũng phải làm việc tại
đó. Công việc của Quân là tái chế dầu máy biến áp
(xử lý dầu thải thành dầu mới). Quân đã làm việ
c

này trong 11 năm, 3 năm ở Hải phòng và hiện giờ
thì ở Gia Lâm. Công việc này rất rất độc hại ”
Chúng tôi thắc mắc không hiểu tại sao Quân lại
không nói thật điều đó với chúng tôi và bác sỹ điều
trị. Sau một hồi do dự họ cho biết Quân không
muốn mẹ anh lo lắng vì các cụ sợ sinh con quái thai.
Chúng tôi thắc mắc tại sao Quân lại chấp nhận làm
việc trong một môi trường độc h
ại như vậy? Họ cho
biết với những người từ quê ra đây thì có việc làm là
tốt lắm rồi. Với chúng tôi Quân hoàn toàn dấu biệt
điều này. Tại sao Quân lại phải chấp nhận công việc
có hại như vậy? Phải chăng vì để tìm được một
công việc với mức lương trung bình như vậy quá
khó đối với anh, vì nếu không chấp nhận như vậy
anh sẽ bị
mất việc? Không hiểu sau sự việc này
Quân sẽ suy nghĩ thế nào về công việc của mình,
liệu anh có thay đổi không, có đề xuất với cơ quan
về điều kiện làm việc không đảm bảo của mình
không hay vì chỗ làm việc, vì miếng cơm manh áo
anh cứ phải chấp nhận vị trí làm việc đầy nguy hiểm
này? Song rõ ràng với chúng tôi anh đã muốn giấu
điều kiện làm việc không đảm bảo c
ủa mình.
Hay như trường hợp chị Hà Thị Thuỷ, một công
nhân làm ở bộ phận in hạn sử dụng cho các bao bì
bánh kẹo 3 lần liên tiếp chị phải bỏ thai do được
chẩn đoán là dị sản bạch mạch. Chị đã được khám
và được làm đủ mọi xét nghiệm nhưng vẫn không

tìm ra nguyên nhân nào, nhưng khi được hỏi có
bao giờ chị nghĩ rằng việc sử dụng chì trong công
nghệ
in ảnh hưởng tới sự phát triển của thai nhi
không thì chị phủ nhận hoàn toàn:”chỗ em làm
chẳng có gì là độc hại cả”.
IV. KẾT LUẬN
- Nhiều yếu tố của môi trường lao động có thể là
nguyên nhân gây nên dị tật bẩm sinh cho thai nhi.
- Các yếu tố môi trường lao động không chỉ
ảnh hưởng tới sức khoẻ sinh sản của nữ giới mà
còn ảnh hưởng tới sức khoẻ sinh sản của nam giới.
- Hầu hết các phụ nữ có thai nhi bị dị tật bẩm
sinh đều không muốn nghĩ tới nguyên nhân môi
trường lao động vì nhiề
u lý do khác nhau như lý
do kinh tế, vị trí làm việc…
Kiến nghị
- Sự hiểu biết về ảnh hưởng các yếu tố có hại
nơi làm việc tới sức khỏe sinh sản sẽ giúp chủ
động phòng tránh chúng một cách hiệu quả hơn.
Do đó cần tuyên truyền giáo dục nhân dân, lãnh
đạo, cán bộ công nhân viên các cơ quan đoàn thể
về ảnh hưởng của các yếu tố có hại nơi làm việc.
- Các vấ
n đề về sức khỏe sinh sản tại doanh
nghiệp không chỉ thu hẹp trong phạm vi bảo vệ bà
mẹ và trẻ em. Sức khỏe sinh sản ở nam giới cũng
cần phải được quan tâm tại nơi làm việc.
- Cần có những nghiên cứu sâu hơn về ảnh

hưởng của môi trường lao động tới dị tật bẩm sinh
của thai nhi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục Y tế Dự phòng, Bộ Y tế, Tổng kết Dự
án năm 2002-Bảo vệ sức khỏe lao động nữ. 2003
2. Nguyễn Thị Thu và cộng sự. Nghiên cứu
điều kiện lao động nông nghiệp và ảnh hưởng của
nó tới sức khỏe người lao động trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đề tài nghiên
cứu khoa học KX05 – 12 - 05.
3. Bộ môn sức khỏ
e nghề nghiệp, Trường
Đại học Y Hà Nội. Tâm sinh lý lao động và
Ecgônômi. 1998.

4. Trần Như Nguyên và cộng sự. Sức khoẻ
và tình hình bệnh tật của lao động nữ ngành nông
nghiệp, cà phê. 2000.
5. Trịnh Văn Bảo. Dị dạng bẩm sinh. 2004.
6. Trung tâm nghiên cứu và phát triển
giới. Phụ nữ sức khỏe và môi trường lao động.
Nhà xuất bản chính trị Quốc gia. 2001.
7. Vụ y tế Dự phòng - Bộ Y tế. Nâng cao
sức khỏe lao động cho công nhân tại nơi làm việc.
Nhà xuất bả
n lao động, 2000.

6
TCNCYH 38 (5) - 2005
8. Betty Mekdeci. Birth defects and

Environment. http:/www. Protectingourhealth.org.
9. Study Team of Hanoi Medical School.
Patterns of pesticide use : relationships between
pesticide exposure, acute health effects and
women’s exposure to pesticides during pregnancy
in three rural areas of Vietnam. 01/2000.
10. UNDP. Báo cáo phát triển con người.
2001.
Summarry
WORKING ENVIRONMENT AND FETAL MALFORMATIONS
During gestation, a fetus may be affected by factors that cause it to develop in anomalous ways. Yet it
is not easy to determine what exactly are the causes of a given fetal malformation. Objectives: We
investigated pregnant women’s perceptions of what could be the causes of the fetal malformations they
experienced. Methods: Qualitative interviews with 30 pregnant women and their families after an
ultrasound scanning had detected a defect in the fetus. Results: Even though in many cases the working
environment of either mother or father might have played a role in causing the malformation, the research
showed that the parents themselves hardly ever blamed their working environment for the defect. The
research also showed that most couples kept the malformation secret from their family, community and
colleagues. This secrecy in combination with parental reluctance to consider the health impact of their
working environment may make it difficult to combat possibly toxic working environments in Vietnam.
Conclusions: In some cases, fetal malformations may be related to a toxic working environment. Yet in
this study, hardly any of the pregnant women were ready to acknowledge that exposure to toxic chemicals
at the workplace might have played a role in causing a malformation in their fetus.
Keywords: Ultrasound scanning 3D, working environment, fetal malformation.


7

×