Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

QUẢN LÝ TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.67 KB, 11 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN

GVHD : TS. NGUYỄN HỒNG QUÂN
HỌC VIÊN : NGUYỄN HÀO QUANG
VÕ THỊ THÚY HẰNG
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
Tp.HCM, tháng 04/2013
MÔN HỌC
QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
TIỂU LUẬN:
QUẢN LÝ TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC
Tiểu luận: Quản lý tổng hợp tài nguyên nước
Hướng dẫn: TS. Nguyễn Hồng Quân
1. Đặt vấn đề
Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà tự nhiên ban tặng cho loài người,
không có nước thì không có sự sống và cũng không có một hoạt động kinh tế nào có thể
tồn tại được. Nước là khởi đầu và là nhu cầu thiết yếu của sự sống; là yếu tố quan trọng
của sản xuất; là nhân tố chính để bảo đảm môi trường Tuy vậy, nguồn tài nguyên nước
đang ngày càng khan hiếm, khối lượng và chất lượng nước ngày càng suy giảm, hạn hán
và lũ lụt xảy ra gay gắt ở cả quy mô, mức độ và thời gian trong khi nhu cầu sử dụng nước
ngày càng tăng và đó chính là nguyên nhân đã gây ra khủng hoảng về nước ở nhiều nơi
trên thế giới. Việc quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên nước có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của con người vì vậy nó đã trở
thành chủ đề quan trọng được bàn thảo nhiều nhất trên các diễn đàn Quốc tế. Ngay từ
trước những năm 90, sự suy giảm tính bền vững trong khai thác nguồn nước đã khiến
nhiều nhà quản lý đặt mối quan tâm nhiều vào giải pháp tổng hợp với mục tiêu đạt được
sự phát triển bền vững. Nước đã trở thành chủ đề rất quan trọng, mang tính thời sự đang
được cả thế giới quan tâm. Đã có nhiều cuộc hội nghị, hội thảo ở cả tầm khu vực và Quốc
tế để thảo luận xung quanh các chủ đề về nước như: Hội nghị thượng định về nước năm
1992 tại Rio với chủ đề “Nước và môi trường”; Diễn đàn nước thế giới lần thứ nhất tại


Marrakech (Marocco) năm 1997 với chủ đề “Tầm nhìn dài hạn về nước, cuộc sống và
môi trường cho thế kỷ 21”; Diễn đàn nước thế giới tại Hague (Hà Lan) năm 2000 với chủ
đề “Nước là công việc của tất cả mọi người”; Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển
bền vững tại Johannesburg năm 2002 “Nước là một trong năm chủ đề quan trọng nhất của
thế giới ”. Diễn đàn nước thế giới lần thứ ba tại Kyoto (Nhật Bản) với các chủ đề thảo
luận như: Quản lý tổng hợp nguồn nước và quản lý lưu vực sông; nước và khí hậu; nước
và nông nghiệp; khoa học công nghệ và quản lý nước… Tất cả các hội nghị khoa học trên
đều mong muốn đạt được một mục tiêu chung, đó là làm thế nào để quản lý tài nguyên
nước được tốt hơn, và bền vững hơn trong giai đoạn hiện nay.
Ở Việt Nam, quản lý tổng hợp tài nguyên nước tuy còn nhiều bất cập, song cũng
đã có những bước chuyển biến tích cực. Để đánh giá các rào cản, ảnh hưởng đến quản lý
tài nguyên nước (IWRM): cần nghiên cứu trên 3 vấn đề hạn chế nghiêm trọng nhất gồm
(a) bộ máy quan liêu rời rạc, (b) hệ thống quản lý từ trên xuống gây ra những tác động
tiêu cực đến sự tham gia của nhà đầu tư, và (c) quyền lực tập trung.
2. Định nghĩa
Khái niệm quản lý tổng hợp tài nguyên nước (IWRM) đã được biết đến từ lâu, tuy
nhiên cùng với thời gian, nội dung của nó ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Cần
Học viên cao học: Nguyễn Hào Quang
Võ Thị Thúy Hằng 1
Nguyễn Thị Huyền Trang
Tiểu luận: Quản lý tổng hợp tài nguyên nước
Hướng dẫn: TS. Nguyễn Hồng Quân
phải nói rằng cho tới nay, mặc dù quan niệm về quản lý tổng hợp lưu vực sông được
trình bày trong khá nhiều báo cáo và tài liệu quy hoạch nhưng trên thực tiễn hiếm khi
thực hành được giải pháp này. Lý do chính là do sự phân tán về quản lý đối với tài
nguyên nước về ranh giới hành chính cũng như theo các Bộ, ngành chuyên môn mà sự
phối hợp đa ngành liên lãnh thổ hiện nay rất khó thực hiện.
Hình 1: Khung quản lý tổng hợp tài nguyên nước
( />Quản lý tổng hợp tài nguyên nước (IWRM) là một quá trình xúc tiến việc phối
hợp quản lý và phát triển các nguồn nước, đất đai và các nguồn lực liên quan nhằm tối ưu

hóa hiệu quả kinh tế và phúc lợi xã hội một cách cân bằng mà không phương hại đến tính
bền vững của các hệ thống sinh thái trọng yếu (GWP, 2000).
Quản lý tổng hợp tài nguyên nước ngày nay quan tâm đặc biệt đến tác động qua
lại giữa con người và thiên nhiên, do đó tổng hợp được xem xét theo cả hai hệ: Hệ tự
nhiên và hệ con người.
Học viên cao học: Nguyễn Hào Quang
Võ Thị Thúy Hằng 2
Nguyễn Thị Huyền Trang
Tiểu luận: Quản lý tổng hợp tài nguyên nước
Hướng dẫn: TS. Nguyễn Hồng Quân
Hình 2: Khung cơ bản quản lý tổng hợp tài nguyên nước (GWP, 2000)
Tổng hợp về mặt tự nhiên bao gồm các khía cạnh sau:
- Tổng hợp quản lý nước ngọt và quản lý vùng ven biển.
- Tổng hợp quản lý “nước xanh lá cây” và “nước xanh da trời”.
- Tổng hợp nước mặt và nước dưới đất.
- Tổng hợp số lượng và chất lượng trong quản lý tài nguyên nước.
- Tổng hợp những lợi ích liên quan đến nước ở thượng lưu và hạ lưu.
Tổng hợp về mặt con người bao gồm những khía cạnh sau:
- Khi phân tích tài nguyên nước phải kết hợp phân tích các hoạt động của
con người và cơ cấu dịch vụ.
- Tổng hợp liên ngành trong quá trình lập chính sách quốc gia.
- Tổng hợp tất cả các bên liên quan trong quá trình quy hoạch và quyết định.
- Tổng hợp quản lý nước và nước thải.
Nếu làm tốt các mặt tổng hợp trên trong quan hệ hài hoà giữa ba thành tố kinh tế -
xã hội – môi trường, chúng ta sẽ đạt được sự quản lý tài nguyên nước bền vững.
Tiếp nối “Hội nghị thượng đỉnh về Trái Đất” năm 1992 và WSSD năm 2002, hiện
nay Thế giới chấp nhận rằng những ngành truyền thống và phân ngành khác làm cơ sở
cho các ngành nghiên cứu, kinh doanh và quản trị không thể nhằm vào sự phụ thuộc lẫn
Học viên cao học: Nguyễn Hào Quang
Võ Thị Thúy Hằng 3

Nguyễn Thị Huyền Trang
Tiểu luận: Quản lý tổng hợp tài nguyên nước
Hướng dẫn: TS. Nguyễn Hồng Quân
nhau và phức tạp cần thiết để tiến đến những mục tiêu về môi trường sinh thái bền vững,
xã hội như mong muốn và một nền kinh tế nhiều triển vọng trong tương lai (như sự chấp
thuận trong tuyên bố tại Hội nghị Rio năm 1992, Chương trình nghị sự 21 và Tuyên bố
tại Hội nghị Johannesburg năm 2002). Dẫn đến, một sự thay đổi toàn diện hơn cũng như
ủng hộ những mô hình tích hợp, công nhận một danh sách lớn hơn về những vấn đề và
các bên liên quan, những vấn đề môi trường ngày càng phức tạp (Margerum, 1995), đang
đồng hóa sự mở rộng phạm vi về chính trị, ranh giới tự nhiên và của các tổ chức.
Tuy nhiên, vẫn còn có cuộc tranh luận quan trọng xung quanh các chiến lược, khái
niệm và những diễn giải về "phương pháp tiếp cận tích hợp" khác nhau có thể được sử
dụng để theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững (Biswas, 2004; Medema, 2005; Mitchell
et al, 2007; Watson, 2007). Hơn nữa, sự tích hợp có thể có nhiều ý nghĩa trên một số khái
niệm và cách diễn giải từng khái niệm cụ thể sẽ phụ thuộc vào các cá nhân và những gì
họ cần lồng ghép (Gooch, 2006). Trong bối cảnh IWRM, Liên Hợp Quốc đưa ra những
khái niệm sau đây:
 " Kỹ thuật tích hợp " nơi mô tả khoa học về môi trường đang nghiên cứu được
báo cáo một cách thích hợp.
 " Thủ tục tích hợp " nơi tập hợp các cách thức được sử dụng cho tất cả các
khía cạnh của IWRM để cố gắng làm cho tất cả các thông tin truy cập theo
dạng tiêu chuẩn hoặc được biết đến.
 " Áp đặt tích hợp ", nơi một hoặc một vài cơ quan thúc đẩy quá trình và xác
định phạm vi, phương pháp, hình thức và báo cáo về những khía cạnh khác
nhau của một nghiên cứu cụ thể.
 " Báo cáo tích hợp ", nơi các khía cạnh khác nhau được tóm tắt, phân tích và
báo cáo bởi một nhóm được chỉ định hoặc đơn vị mà tích hợp các khía cạnh
khác nhau đó.
(Liên hợp quốc, năm 2008: trích dẫn trong Collins và Ison, 2009).
Các khái niệm về tích hợp không phải là mới (Biswas, 2004; Hooper, 2005).

Trong những năm 1930, Tennessee Valley Authority (TVA) được giao phát triển khu vực
tích hợp, bao gồm sự bảo vệ môi trường cũng như trách nhiệm quản lý nguồn nước và
năng lượng (Molle, 2009). Tuy nhiên, do sự thay đổi về ưu tiên chính trị ở Mỹ, phương
pháp khai thác nguồn nước chiếm ưu thế (Barrow, 1998). Trong thời hiện đại, tài liệu chỉ
ra rằng phần lớn các mô hình lớn về các kế hoạch tích hợp, phân bổ và quản lý tìm thấy
trong lĩnh vực quản lý tài nguyên thiên nhiên, hơn là lĩnh vực năng lượng. Bất kể thế nào
Học viên cao học: Nguyễn Hào Quang
Võ Thị Thúy Hằng 4
Nguyễn Thị Huyền Trang
Tiểu luận: Quản lý tổng hợp tài nguyên nước
Hướng dẫn: TS. Nguyễn Hồng Quân
trong lĩnh vực năng lượng, kế hoạch tích hợp khu vực đã có vào những năm 1980 trước
một chương trình cải cách kinh tế nhằm tư nhân hóa tài sản điện (Byrne, 2003).
3. Các nguyên tắc trong quản lý tổng hợp tài nguyên nước
3.1 Nguyên tắc Dublin
Để tiếp cận đầy đủ quan điểm phát triển bền vững tài nguyên nước theo tinh thần
hội nghị thượng đỉnh của liên hiệp quốc về môi trường và phát triển họp tại Rio de
janeiro năm 1992 và bốn nguyên tắc về nước và phát triển bền vững được hội nghị quốc
tế Dublin năm 1992 thông qua:
Nguyên tắc sinh thái: Nước sạch là nguồn tài nguyên hữu hạn, dễ bị tổn thương, cần
cho sự sống, phát triển và môi trường. Do đó tiếp cận sử dụng tổng hợp phải tính đến các
thành phần cán cân nước, hoạt động phát triển và tác động tại mỗi vùng thượng hạ lưu, sử
dụng đa mục đích, liên kết đa ngành, gắn kết xã hội loài người và thiên nhiên. Tỷ lệ dòng
chảy tự nhiên không bị khai thác phản ánh điều kiện cư trú dưới nước: 10% của dòng
chảy trung bình năm sẽ tạo nên điều kiện cư trú kém, 30% là khá và >40% là tốt.
Nguyên tắc thể chế: Phát triển và quản lý nguồn nước cần dựa trên tiếp cận có sự
tham gia của các bên có liên quan thuộc khu vực công cộng và tư nhân, các cộng đồng và
những người sử dụng nước, các nhà lập kế hoạch, hoạch định chính sách ở mọi cấp để đạt
tới các thỏa thuận chung có tính lâu dài và cùng chịu trách nhiệm, chia sẻ, chấp nhận hy
sinh để nâng cao hiệu quả dùng nước và bảo vệ nước.

Nguyên tắc xã hội: Phụ nữ có vai trò trung tâm trong việc bảo vệ, quản lý và tiết
kiệm nước, nên cần phải tính tới họ trong các dự án phát triển, dành cho họ cơ hội có
tiếng nói tham gia và được hưởng lợi.
Nguyên tắc kinh tế: Nước có giá trị kinh tế đối với mọi đối tượng sử dụng và cần phải
được coi là hàng hoá xã hội và kinh tế, được định giá, phân phối hợp lý.
3.2 Tiêu chí quản lý
Để quản lý tổng hợp tài nguyên nước cần phải biết một số tiêu chí quan trọng nhất
cần phải tính tới trong các điều kiện xã hội, kinh tế và tự nhiên:
 Hiệu suất kinh tế trong sử dụng nước: Vì sự khan hiếm nước ngày càng trầm
trọng và thiếu nguồn tài chính, bản chất xác định và dễ bị tổn thương của nước,
như một tài nguyên và nhu cầu về nước ngày càng tăng. Vì vậy nước cần được
sử dụng có hiệu quả cao nhất.
 Bình đẳng: Quyền lợi cơ bản đối với mọi người là có nước đủ về số lượng và
Học viên cao học: Nguyễn Hào Quang
Võ Thị Thúy Hằng 5
Nguyễn Thị Huyền Trang
Tiểu luận: Quản lý tổng hợp tài nguyên nước
Hướng dẫn: TS. Nguyễn Hồng Quân
an toàn về chất lượng để duy trì sự sống của loài người. Điều đó cần được ghi
nhớ.
 Tính bền vững về môi trường và sinh thái: Việc sử dụng tài nguyên hiện tại
phải được quản lý theo cách không làm suy yếu hệ thống hỗ trợ duy trì sự
sống, bằng cách dung hòa sử dụng chính nguồn tài nguyên đó cho hôm nay và
cho cả thế hệ mai sau.
4. Những rào cản đối với quá trình quản lý tổng hợp nguồn nước
Quá trình quản lý tổng hợp nguồn nước được giới thiệu lần đầu tiên tại hội nghị
Liên hợp quốc về nước diễn ra tại Mar del Plata năm 1977. Một hội nghị khác được tổ
chức tại Dublin, Ireland năm 1992 cũng thể hiện những bước tiến cơ bản để quản lý, đánh
giá và phát triển nguồn nước sạch. Những ý kiến chủ đạo ở hội nghị Dublin đã được phê
duyệt bởi Uỷ ban Liên hiệp quốc về môi trường và phát triển (UNCED) và được chấp

nhận bởi hầu hết các nước.
Từ góc độ quản lý, Margerum (2001) nhấn mạnh những vấn đề sau đây trong
IWRM: cách nhìn hoặc quá trình mang tính tổng thể hoặc hệ thống hơn là đơn ngành,
thẩm quyền hoặc tập trung vào vấn đề đơn lẻ; nhìn nhận trong mối liên quan lẫn nhau
trong toàn hệ thống chẳng hạn như vấn đề ranh giới; làm rõ mục tiêu quản lý; khả năng
tích hợp giữa chiến lược và sự tiếp cận thích ứng trong việc ra quyết định phù hợp cho sự
tham gia và các hoạt động chủ yếu. Vì vậy, nó là đối ngược lại với cách tiếp cận đi từ các
yếu tố và cách tiếp cận theo từng phần riêng rẽ trong những năm gần đây. Hơn nữa, tiếp
cận tổng hợp được áp dụng đối với các lưu vực, một quốc gia, hệ thống sông và kế hoạch
quốc gia (Westcoat & White, 2003). Mặc dù đã trở thành một vấn đề chủ đạo và đã được
thảo luận trong nhiều giai đoạn, nhưng ý tưởng này cũng phải chịu không ít những ý kiến
phản đối. Ngay trong khái niệm của IWRM cũng cho thấy sự không thống nhất và thiếu
sự nhất trí về những vấn đề cơ bản được bao gồm trong quản lý tổng hợp, làm thế nào và
ai làm hoặc thậm chí ngay cả khi kết hợp với những lĩnh vực rộng lớn như vậy liệu có khả
thi hay không (Biswas, 2004; Biswas, Varis & Tortajada, 2005). Do đó, mô hình này gần
như không thể triển khai (Edsel E. Sajor and Nguyen Minh Thu, 2009). Để hiểu rõ hơn,
nhóm tác giả sẽ phân tích trên 3 vấn đề: (a) bộ máy quan liêu rời rạc, (b) hệ thống quản lý
từ trên xuống gây ra những tác động tiêu cực đến sự tham gia của nhà đầu tư và (c) quyền
lực tập trung.
4.1Bộ máy quan liêu rời rạc:
Để hoàn chỉnh hệ thống quản lý nguồn nước cần có sự chung tay giữa các tổ chức
Học viên cao học: Nguyễn Hào Quang
Võ Thị Thúy Hằng 6
Nguyễn Thị Huyền Trang
Tiểu luận: Quản lý tổng hợp tài nguyên nước
Hướng dẫn: TS. Nguyễn Hồng Quân
chính phủ có quyền hạn tương đương dù là cấp địa phương hay trung ương và sự hòa hợp
về trách nhiệm, quyền lợi và quyền hạn. Những rào cản đó là những thách thức lớn khi
mà quyền lợi cơ bản cũng như quyền hạn của các tổ chức vốn không tương xứng (Hjorth
& Dan, 1994: Hooper, MacDonald & Mitchell, 1999). Thông thường, vấn đề về thành

phần và cấu trúc bộ máy chính phủ gây ra những trở ngại cho những đổi mới (Mackenzie,
1997; Molle, 2003). Ví dụ như thiếu sự liên kết mang tính tập thể giữa những người quy
hoạch đất và nguồn nước (Calder, 2005).
Hơn nữa, quản lý tổng hợp nguồn nước rất khó tiến hành do vấn đề đấu tranh nội
bộ, quan liêu và những tồn tại của bộ máy chính quyền; đây là một cuộc chiến lâu dài
(Biswas, 2004). Cấu trúc bộ máy cũng được dẫn ra như một lý do chính gây nên sự thất
bại trong chuyển đổi phương thức quản lý nguồn nước và ô nhiễm nguồn nước.
Tuy nhiên, nhiều phương pháp nhằm khắc phục bệnh quan liêu và hệ thống quản
lý rời rạc đã tỏ ra hiệu quả. Các cơ quan liên kết và trao đổi thông tin cần được thành lập
để đảm bảo hiệu quả sự phối hợp quản lý nguồn nước và những vấn đề liên quan đến
nguồn nước. Kế hoạch quản lý tổng hợp nguồn nước cũng tạo điều kiện liên kết và xây
dựng sự đồng thuận giữa những nhà quản lý trong một cơ cấu quản lý thống nhất
(Simalabwi, 2007). Ví dụ như ở vùng Victoria - Úc, sự hình thành hệ thống quản lý hệ
thống dẫn nước là trách nhiệm pháp lý đã giúp hình thành hệ thống quản lý sử dụng tài
nguyên đất và tài nguyên nước thông qua hệ thống dẫn nước, đồng thời quan tâm quản lý
đến chất lượng dòng sông và quản lý hệ thống vận tải. Hệ thống này đã chứng tỏ hiệu quả
của mình trong việc thu hẹp mối quan tâm, giảm thiểu tư lợi của cơ quan chịu trách
nhiệm quản lý, bảo vệ nguồn nước và hệ thống thoát nước. Kết quả là, hệ thống giúp
quản lý theo từng khúc sông với nguồn chi ngân sách giới hạn (Edsel E. Sajor and
Nguyen Minh Thu, 2009).
4.2Hệ thống quản lý từ trên xuống:
Đề cao khả năng tương tác, liên kết và hợp tác của những nhà đầu tư khác nhau là
vô cùng quan trọng trong quá trình quản lý tổng hợp tài nguyên (Margerum & Born,
2000). Tuy nhiên, phương thức quản lý truyền thống, đơn phương chỉ đạo từ trên xuống
đã kìm hãm sự phát triển luật pháp và phát triển đầu tư đa nguồn. Ở một số nước Mỹ La
tinh, hỗ trợ quá trình đa dạng hóa đầu tư được xác định và phân tích kỹ để đi tới một
quyết định hợp lý trong khuôn khổ kinh tế xã hội và môi trường (Tortajada, 2005;
Ventura & Olcese, 1996). Những nhà đầu tư cùng quản lý ở các nước phát triển và đang
phát triển tại khu vực Châu Á -Thái Bình Dương và Bắc Mỹ cần được cho phép tham gia
lên kế hoạch dự án, nghiên cứu và thực hiện các chiến lược của mình phù hợp với truyền

thống, vai trò ủy thác theo luật định (Westcoat & White, 2003). Phương thức quản lý từ
Học viên cao học: Nguyễn Hào Quang
Võ Thị Thúy Hằng 7
Nguyễn Thị Huyền Trang
Tiểu luận: Quản lý tổng hợp tài nguyên nước
Hướng dẫn: TS. Nguyễn Hồng Quân
trên xuống truyền thống cũng có khả năng làm lợi cho những người được phân phối sử
dụng nước trong khi không mang lại lợi ích và sự nhất trí của các nhà đầu tư (Calder,
2005). Những mối quan hệ thứ bậc cứng nhắc giữa các bộ cũng tạo ra đặc quyền cho các
bộ quyết định các dự án phân phối và điều hòa nước theo quy tắc từ trên xuống của chính
quyền. Sau đây là một số phương sách giúp hạn chế quy tắc từ trên xuống của chính phủ
và cổ vũ các nhà đầu tư tham gia. Ví dụ như ở Nam Phi, luật sử dụng tài nguyên nước
quốc gia ban hành năm 1998 là do các nhà đầu tư cùng hợp tác tạo ra, giúp cơ quan quản
lý hệ thống dẫn nước bao gồm đại diện của các nhà đầu tư quan trọng trong lĩnh vực quản
lý nguồn nước cùng với chính quyền địa phương, đại diện người sử dụng và cộng đồng
sử dụng nước (Schreiner, 2007). Những quan hệ liên kết đặc biệt và sự hợp tác chặt chẽ
cũng giúp quá trình phục hồi nguồn nước sông ở sông Mersey (Anh) và lưu vực sông
Siuslaw ở bang Oregon (Hoa Kỳ) và lưu vực Torbay ở miền Tây nước Úc do sự hợp tác
của các nhà đầu tư, sự đồng thuận từ phía chính phủ, sự quản lý tốt và những hoạt động
tích cực đã dẫn đến sự thành công(Edsel E. Sajor and Nguyen Minh Thu, 2009).
4.3Quyền lực tập trung:
Một trong những yêu cầu quản lý tổng hợp nguồn nước là sự phân quyền trong lập
kế hoạch, tiến hành, quyết định và điều hành quá trình quản lý nguồn nước phù hợp với
quản lý môi trường sinh thái nói chung. Ở nhiều quốc gia, các tổ chức quản lý lưu vực
sông đã được thành lập với mục đích tạo ra sự phân chia quyền lực hợp lý và tự quản lý.
Tuy nhiên, phân quyền quản lý nguồn đất và nước tập trung thu hút đầu tư cũng gây ra
những vấn đề mới cho các tổ chức chính phủ quen với phương pháp làm việc tập trung
quyền lực, từ trên xuống dưới. Hiệu quả của RBO về tổ chức quản lý lưu vực sông hiệu
quả có thể coi là một mối đe dọa đến lối làm việc theo quyền lực tập trung do tạo ra một
hoàn cảnh mới cho các bên liên quan có thể tự tìm cho mình một giải pháp thoả thuận

riêng cho vấn đề phân phối nước (Calder, 2005). Trong bài nghiên cứu về các tổ chức
điều phối nước lưu vực sông ở các nước Mỹ La tinh, Tortajada (2005) kết luận rằng thực
thi đầy đủ quá trình phân quyền cho các tổ chức là vô cùng khó khăn bởi nó rất phức tạp
và chính phủ khá miễn cưỡng từ bỏ những nề nếp sẵn có. Có thể thấy rằng nhiều chính
phủ thành lập các tổ chức quản lý chỉ là sự hoà theo xu hướng chung của toàn cầu mà
không nhận ra những lợi ích thực sự có thể đạt được khi phân quyền quản lý và hoạch
định kế hoạch quản lý nguồn nước hợp lý. Ở Thái Lan, các tổ chức điều phối nước lưu
vực sông thiếu sự ủng hộ chính trị, không được công nhận vai trò và quyền lực bởi luật
pháp và dường như chỉ là một tổ chức trên giấy tờ, quyền lực hạn chế và chỉ có vai trò cố
vấn (Sajor & Ongsakul, 2007). Ở Lào, tổ chức quản lý lưu vực sông được chính thức
công nhận nằm dưới sự quản lý của chính quyền trung ương trong khi ở Campuchia và
Mianma, những tổ chức này chỉ tồn tại vì chứng thực mục tiêu cho quốc gia (Molle,
Học viên cao học: Nguyễn Hào Quang
Võ Thị Thúy Hằng 8
Nguyễn Thị Huyền Trang
Tiểu luận: Quản lý tổng hợp tài nguyên nước
Hướng dẫn: TS. Nguyễn Hồng Quân
2003).
Những phương thức nhằm giải quyết vấn đề quyền lực tập trung này cũng đã được
đưa ra. Chúng cần những nhà quản lý mới, chuyên nghiệp và có triển vọng với những kỹ
năng cũng như khả năng quyết định, sự lựa chọn mạo hiểm cũng là cần thiết trong bối
cành này (Turton, Hattingh, Claassen, Roux & Aston, 2007). Huy động cộng đồng, tạo áp
lực từ dưới lên, sự ủy nhiệm chính thức, một tập hợp các cá nhân cùng đưa ra quyết định
là những cách khả thi để giảm thiểu quyền lực tập trung quá mức (IR, 2007).
5. Định hướng, đề xuất
Cải cách về chính sách và thủ tục hành chính hiện tại nhằm tăng cường sự tham
gia và phi tập trung hoá được bàn luận ở trên đã thực sự được ủng hộ mạnh mẽ trong toàn
bộ vấn đề môi trường nhằm đổi mới tổ chức và chính sách liên quan đến nước, điều này
nếu được kiên nhẫn theo đuổi đến cùng có thể dẫn tới sức mạnh của quản lý các lưu vực
sông, nó sẽ dẫn đến sự hợp tác quản lý tổng hợp lưu vực sông. Thêm vào đó, các cải cách

từ công cuộc đổi mới, sự mở cửa và liên kết với cộng đồng phát triển quốc tế (đặc biệt là
viện trợ) đã có kết quả tốt trong việc thay đổi các quy định luật pháp, chính trị và tiêu
chuẩn môi trường gần hơn với các nước phát triển. Tất nhiên điều này cũng bao gồm cả
những quan điểm và cách tiếp cận quản lý sông. Biến đổi khí hậu được xem là yếu tố làm
thay đổi dòng chảy mặt hiện tại và chế độ mưa. Hầu hết các mô hình cho thấy, trung bình
lượng mưa tăng cao hơn lượng bốc hơi do nhiệt độ tăng, kết quả người ta dự đoán lượng
dòng chảy trung bình sẽ tăng, khoảng 50 mm/năm (xấp xỉ lượng tăng 5%). Hầu hết lượng
mưa tăng trung bình hàng năm được dự đoán sẽ diễn ra vào các tháng mùa mưa, chỉ có
lượng nhỏ mưa tăng thêm trong mùa khô. Nếu không quản lý tài nguyên nước hiệu quả,
nước ta sẽ chịu ảnh hưởng mạnh do biến đổi khí hậu. Như vậy, để quản lý tổng hợp tài
nguyên nước đạt hiệu quả cần có các chính sách cụ thể và khả thi như sau:
 Tăng cường năng lực cho Cục Quản lý TNN cả về cơ sở vật chất, nhân lực,
phương tiện quản lý.
 Đào tạo, đào tạo lại để nâng cao kiến thức quản lý tổng hợp TNN cho cán bộ làm
việc trong lĩnh vực này.
 Hoàn thiện bộ máy quản lý TNN từ Trung ương đến địa phương, trong đó kiến
nghị lập đơn vị Thanh tra ngành nước.
 Đẩy mạnh sự hợp tác với các tổ chức quốc tế để học hỏi kinh nghiệm, tranh thủ tài
trợ về kinh phí, các phương tiện quản lý và đào tạo cán bộ chuyên ngành.
Học viên cao học: Nguyễn Hào Quang
Võ Thị Thúy Hằng 9
Nguyễn Thị Huyền Trang
Tiểu luận: Quản lý tổng hợp tài nguyên nước
Hướng dẫn: TS. Nguyễn Hồng Quân
 Nâng cao nhận thức cộng đồng, xây dựng cơ chế chính sách để động viên nhân
dân tham gia vào công tác quản lý tổng hợp TNN theo nguyên tắc: Dân biết, dân
bàn, dân làm và dân kiểm tra.
 Nghiên cứu cơ chế phối hợp phù hợp để tăng cường sự hợp tác giữa các Bộ, ngành
từ Trung ương đến địa phương trong công tác quản lý TNN.
Tài liệu tham khảo

1. Anil Agarwal, 2000. Integrated Water Resources Management
2. African Development Fund, 2000. Policy For Integrated Water Resources Management.
3. Biswas, a. K. 2004. Integrated water resources management: a reassessment. Water
International, 29, 248-256.
4. Sajor, e., & Ongsakul, R. 2007. Mixed land use and equity in water governance in peri-urban
Bangkok. International Journal of Urban and Regional Research, 31, 782-801.
5. Philippe Gourbesville, 2008. Challenges for integrated water resources management.
6. Nathan Cammerman, 2009. Integrated Water Resource Management and the Water, Energy,
Climate Change Nexus.
7. Edsel E. Sajor and Nguyen Minh Thu, 2009. Institutional and Development Issues in
Integrated Water Resource Management of Saigon River.
8. Ngô Đình Tuấn, 2013. Báo cáo hội thảo khoa học “Hợp tác vì nước”.
9. Lê Đức Năm, Hiện trạng và định hướng quản lý tổng hợp tài nguyên nước ở Việt Nam.
Học viên cao học: Nguyễn Hào Quang
Võ Thị Thúy Hằng 10
Nguyễn Thị Huyền Trang

×