Lời cám ơn
* *
*
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Lê Thái Bạt tận tình hướng dẫn tôi
thực hiện luận văn, cũng như các thày cô đã truyền đạt cho tôi những kiến
thức trong khoá học này.
Tôi xin cảm ơn các thày, các cô và các anh chị em trong phòng Đào tạo
Viện khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt nam, các đồng chí lãnh đạo Viện
Điều tra Qui hoạch rừng, Phân viện Viện Điều tra Qui hoạch rừng Tây Bắc bộ
đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu đề tài.
Tôi xin cảm ơn lãnh đạo, cán bộ và bà con nông dân huyện Tủa chùa
tỉnh Lai châu đã cộng tác, giúp đỡ tôi rất nhiệt tình trong quá trình điều tra thu
thập số liệu, thông tin, mẫu vật tại địa phương.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn Đồng giám đốc Dự án Phát triển Nông thôn
Sơn La- Lai Châu, Cố vấn trưởng Dự án Lâm nghiệp xã Hội Sông Đà, các
bạn bè, đồng nghiệp và gia đình luôn giúp đỡ động viên tôi trong hai năm học
qua.
Hà Nội, ngày tháng 9 năm 2003
K.S Phạm Văn Việt
1
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
K.S Phạm văn Việt
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 8
1. Tính cấp thiết của đề tài 8
2. Mục đích của đề tài 10
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 10
4. Phạm vi nghiên cứu 10
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Khái niệm về cộng đồng và các hình thức tổ chức cộng đồng
11
1.2 Tính bền vững 12
1.3 Nghiên cứu nước ngoài 14
1.3.1 Du canh truyền thống và du canh cải tiến 14
1.3.2 Định canh và những phương thức định canh 16
1.3.3 Nghiên cứu kiến thức bản địa ở vùng cao 18
1.4 Nghiên cứu trong nước 20
1.4.1 Tiềm năng và đặc điểm đất dốc Việt Nam 20
1.4.2 Nghiên cứu sử dụng bền vững đất dốc 22
1.4.2.1 Nghiên cứu biện pháp tổng hợp sử dụng hiệu quả đất dốc
trên cơ sở sinh thái bền vững 22
1.4.2.2 Sử dụng đất theo kiểu nông lâm kết hợp 24
1.4.3 Nghiên cứu và áp dụng kiến thức bản địa ở Việt Nam 25
CHUƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu 27
3
2.2 Nội dung nghiên cứu 27
2.3 Phương pháp nghiên cứu 27
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 34
3.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội huyện Tủa Chùa Tỉnh Lai Châu 34
3.1.1 Điều kiện tự nhiên và lịch sử vùng nghiên cứu 34
3.1.1.1 Điều kiện tự nhiên 34
3.1.1.2 Lịch sử vùng nghiên cứu
38
3.1.2 Thực trạng phát triển kinh tế xã hội huyện Tủa Chùa 40
3.2 Hiện trạng sử dụng đất và tài nguyên rừng năm 2002 của
xã Trung Thu, xã Sính Phình huyện Tủa Chùa tỉnh Lai Châu 43
3.3 Nghiên cứu nguyên nhân suy thoái tài nguyên đất và rừng 47
3.3.1 Đánh giá canh tác nông nghiệp có sự tham gia 47
3.3.2 Nguyên nhân suy thoái tài nguyên đất và rừng 49
3.3.3 Giải pháp theo kết quả PRA 49
3.3.4 Đánh giá công tác quản lý rừng có sự tham gia 50
3.3.5 Nguyên nhân suy thoái rừng 52
3.3.6 Các vấn đề của phụ nữ 52
3.4 Ảnh hưởng khách quan đến sử dụng tài nguyên đất và rừng 53
3.5 Các hình thức quản lý và sử dụng tài nguyên đất và rừng
của người H'Mông 55
3.5.1 Người quản lý và sử dụng tài nguyên đất và rừng 55
3.5.2 Hệ thống quản lý tài nguyên đất và rừng 62
3.6 Khả năng tiếp nhận các tiến bộ kỹ thuật từ bên ngoài
4
của cộng đồng người H'Mông 65
3.6.1 Các hoạt động thử nghiệm nông nghiệp tại Sính Phình và
Trung thu của Dự án Phát triển Lâm nghiệp Xã hội Sông Đà 65
3.6.2 Một số hoạt động lâm nghiệp tại Sính Phình và Trung Thu
của Dự án Phát triển Lâm nghiệp Xã hội Sông Đà từ 1996-1999 68
3.7 Các phương án quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên đất và
rừng bền vững 69
3.7.1 Mục tiêu 69
3.7.2 Các phương án quản lý tài nguyên đất và rừng bền vững 70
3.7.2.1 Các hoạt động công việc ưu tiên dựa vào kết quả đánh giá
nông thôn có sự tham gia xã Trung Thu 70
3.7.2.2 Các hoạt động công việc ưu tiên dựa vào kết quả đánh giá
nông thôn có sự tham gia xã Sính Phình 71
3.7.2.3 Lựa chọn các hình thức quản lý đất và rừng có triển vọng 72
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1 Kết luận 87
2 Đề nghị 89
Phụ lục và tài liệu tham khảo 103
5
CHỮ VIẾT TẮT
1.SP: xã Sính Phình,
2. TT: Xã Trung Thu,
MB: Xã Mường Báng,
3. THKT: Tập huấn kỹ thuật.
4. CP: Chính Phủ
5. DTTN: Diện tích tự nhiên
6. VASI: Viện Khoa học Nông
nghiệp Việt Nam
7. Bộ NN&PTNT: Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn
8. NĐ: Nghị đinh
9. IPM: Biện pháp phòng trừ sâu hại
tổng hợp
10. VDP: Kế hoạch phát triển thôn
bản
11. BĐ: Bắt đầu
12. KT: kết thức
13. UBND: Uỷ ban nhân dân
14. QL&SD: Quản lý và sử dụng
15: PRA: Công cụ đánh giá nông
thôn có sự tham gia của dân
16.HTX: Hợp tác xã
17. PTCS: Phổ thông cơ sở
20. BVTV: Bảo vệ thực vật
21. THKT: tập huấn kỹ thuật
22. KTNN: Kỹ thuật Nông nghiệp
23. TH: Tập huấn
24. TN: Thử nghiệm
25. BVR: Bảo vệ rừng
26. CT/TW: Chỉ thị/ Trung Ương
27. SP: xã Sính Phình
28. MB: xã Mường Báng
29. TT: xã Trung Thu
30. MH: Mô hình
31. NL: Nông lâm
32: DT: diện tích
33. HT: hỗ trợ
34. LNXH: lâm nghiệp xã hội
35. SX: Sản xuất
36. TTNCLN Phù Ninh: Trung tâm
nghiên cứu lâm nghiệp Phù Ninh
37. CĐ: Cộng đồng
38. CHXHCN: Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa
39. CHLB: Cộng hoà liên bang
6
18. QĐ-TCĐC: Quyết định - Tổng
Cục Địa Chính
19. KT IPM: kỹ thuật phòng trừ sâu
hại tổng hợp
40. GCNQSD Đ: Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất
41. TT-LT: Thông tư liên tịch
42. QĐ-TTg: quyết định-Thủ Tướng
Chính Phủ
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài:
Hiện nay ở Việt Nam đất chật người đông, bình quân diện tích đất tự
nhiên và tính trên đầu người so với thế giới thấp đứng thứ: 58/200 (đất tự
nhiên ), 158/200 đất nông nghiệp.
Sử dụng tài nguyên rừng và tài nguyên sinh vật chưa hợp lý đã dấn đến
đất đai và tài nguyên rừng bị thoái hóa nghiêm trọng, đặc biệt là ở các vùng
sâu, vùng xa, vùng đồi núi nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu sổ
với trình độ còn rất thấp.
Việc sử dụng hợp lý tài nguyên rừng và tài nguyên sinh vật nói chung
có ý nghĩa sống còn đối với mỗi quốc gia, mỗi địa phương.
Đất đai và rừng là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng quí giá, đất là tư
liệu sản xuất đặc biệt, là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự sống, là địa bàn
xây dựng và phát triển dân sinh, kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng. Bác Hồ
kính yêu của chúng ta đã từng nói "Rừng là vàng". Thật vậy nó là nơi cung
cấp gỗ, củi lâm đặc sản phục vụ đời sống hàng ngày của con người, là lá phổi
bảo vệ môi trường, là nơi giữ nước và điều hoà dòng chảy, bảo vệ lưu vực,
hạn chế xói mòi rửa trôi đất do mưa.
Rừng nhiệt đới trên thế giới nói chung và rừng nhiệt đới ở Việt Nam
nói riêng trong thời gian qua đang bị suy giảm nghiêm trọng, dẫn tới sự thay
đổi môi trường theo chiều hướng tiêu cực đã và đang ảnh hưởng xấu đến điều
kiện sống của con người. Do vậy việc tìm kiếm giải pháp để quản lý sử dụng
rừng bền vững là một vấn đề bức xúc.
8
Trên đường tìm kiếm các giải pháp sử dụng bền vững rừng, sử dụng đất
bền vững theo những tiến bộ khoa học và công nghệ tiên tiến là hết sức quan
trọng. Đồng thời kết hợp những kiến thức quản lý và sử dụng tài nguyên đất
và rừng theo truyền thống cũng cần nghiên cứu và phát huy những thuần
phong mỹ tục của người dân địa phương là cách làm bền vững và mang lại
hiệu quả cao cho nguời dân địa phương.
Huyện Tủa Chùa là một trong các huyện nằm trong lưu vực sông Đà
nơi cung cấp nước phục vụ cho nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, và đập thuỷ
điện Tạ Bú trong tương lai. Ở đây dân tộc H’Mông là một trong các dân tộc
thiểu số có số dân chiếm 73% dân trong huyện, cũng là một trong các dân tộc
chính tại vùng Tây Bắc. Là dân tộc sống chủ yếu bằng hệ canh tác nương rãy
truyền thống từ nhiều năm nay và sẽ còn tồn tại trong tương lai. Mối quan hệ
giữa sử dụng đất nương rãy và rừng có liên quan mật thiết với nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau. Phát triển rừng nhiều thì diện tích canh tác nương rãy luân
canh bị thu hẹp lại và ngược lại đất luân canh càng nhiều thì chứng tỏ rừng
càng bị phá nhiều. Hài hoà 2 nguồn tài nguyên trên nhằm ổn định và không
ngừng phát triển rừng đồng thời ổn định đờì sống kinh tế của đồng bào dân
tộc là một câu hỏi lớn cho các nhà khoa học, các nhà quản lý.
Đánh giá quản lý và sử dụng tài nguyên của họ nhằm phát huy những
truyền thống tốt về quản lý tài nguyên và vận dụng hợp lý linh hoạt các tiến
bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất lương thực, quản lý và bảo vệ, sử dụng
rừng nhằm nâng cao đời sống của đồng bào dân tộc H’Mông đồng thời giữ
vững và phát triển nguồn tài nguyên quí giá.
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang chuyển sang kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghiã, sự phát triển kinh tế xã hội trên lãnh thổ vùng
Tây Bắc có những biến đổi rõ rệt. Thông qua sự vận động của người dân
trong vùng, sự hỗ trợ từ bên ngoài qua các chương trình phát triển nông thôn
Miền núi của Chính Phủ và các chương trình viện trợ không hoàn lại từ nhiều
9
nước trên thế giới đã tạo cơ hội cho các ngành giao thông phát triển, tạo điều
kiện thuận lợi cho dân H'Mông tiếp xúc với nền văn minh, dẫn tới nhu cầu vật
chất và văn hoá ngày càng lớn. Nếu không đánh giá đúng hiện trạng quản lý
tài nguyên đất và rừng của họ dân sẽ dẫn tới sự đầu tư kém hiệu quả, nảy sinh
mâu thuẫn, nhân dân mất lòng tin vào Đảng và Nhà Nước, làm cản trở sự phát
triển của vùng.
Do đó chúng tôi đã “ Đánh giá quản lý tài nguyên đất và rừng của
người H’Mông tại huyện Tủa Chùa tỉnh Lai Châu, góp phần đưa ra giải
pháp quản lý và sử dụng tài nguyên đất, rừng hợp lý có sự tham gia của
người dân của cộng đồng người H’Mông tại 2 xã Trung Thu và xã Sính
Phình huyện Tủa Chùa tỉnh Lai Châu”.
2. Mục đích của đề tài:
- Đánh giá sự quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên đất và rừng hiện có
của người H’Mông.
- Đưa ra những đề xuất về giải pháp quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên
đất và rừng phù hợp với điều kiện cụ thể xã Trung Thu, xã Sính Phình, huyện
Tủa Chùa tỉnh Lai Châu
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Mối quan hệ giữa quản lý, đất và rừng luôn ở trạng thái động, đan xen
nhau, có tác động qua lại mật thiết, vừa bị chi phối, vừa bị khống chế bởi các
qui luật tự nhiên, qui luật kinh tế. Con người có thể căn cứ vào mục đích kinh
tế và mục đích phòng hộ để lựa chọn phương thức quản lý sử dụng nguồn tài
nguyên đất và rừng theo nhiều cách khác nhau, nhưng đồng thời cũng bị điều
kiện tự nhiên và qui luật tự nhiên khống chế. Do đó trong thực tiễn quản lý và
sử dụng tài nguyên đất và rừng cần chú ý đến yếu tố con người và xã hội, tuân
thủ các qui luật khách quan, bao gồm cả qui luật kinh tế, qui luật tự nhiên để
quản lý và sử dụng một cách hợp lý nhất.
10
Quản lý và sử dụng đất và rừng hợp lý là tập hợp nhiều hệ thống quản
lý sản xuất nương rãy và rừng để điều hoà mối quan hệ giữa yêu cầu đáp ứng
lương thực đáp ứng yêu cầu cung cấp gỗ, củi, lâm đặc sản cho cuộc sống sinh
hoạt hàng ngày của người dân địa phương, nhằm đạt tới hiệu quả kính tế, xã
hội, sinh thái cao nhất.
Xã Sính Phình, xã Trung Thu huyện Tủa Chùa đất chật, người đông,
các ngành kinh tế khác chưa phát triển, điều kiện canh tác nương rẫy trên địa
hình cao, dốc, sự luân canh nương rãy ngày càng thu hẹp. Việc quản lý, sử
dụng đất nương rãy, rừng không hợp lý sẽ dẫn tới lãng phí trong việc sử dụng
đất, nguồn tài nguyên rừng ngày càng cạn kiệt, gây ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển kinh tế - xã hội nói chung của huyện Tủa Chùa.
Vì vậy, nghiên cứu đánh giá quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên đất,
rừng nhằm phát huy thuần phong mỹ tục của Người H’Mông đồng thời áp
dụng các phương án quản lý tài nguyên hợp lý có một ý nghĩa khoa học, đồng
thời là mô hình cho các xã nguời H’Mông lân cận học tập là việc làm cấp
bách hiện nay. Đồng thời làm tài liệu tham khảo cho các Dự án tài Tủa Chùa
đầu tư đúng theo yêu cầu nguyện vọng của dân.
4. Phạm vi nghiên cứu : Xã Trung Thu, xã Sính Phình huyện Tủa Chùa
tỉnh Lai Châu.
11
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ
TÀI
1.1. Khái niệm về cộng đồng và các hình thức tổ chức của cộng đồng:
1.1.1. Khái niệm về cộng đồng
Theo ( Dr. Nguyễn Hồng Quân - Mr. Tô Đình Mai ) [01], Từ ngữ
"cộng đồng" theo thực tế xã hội nước ta có thể được định nghĩa chung nhất là:
"Cộng đồng bao gồm toàn thể những người sống thành một xã hội có những
điểm giống nhau và có các mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau". Như vậy
tính chất giống nhau về một đặc điểm hoặc một điểm nào đó là yếu tố hình
thành nên những quan hệ cộng đồng trong xã hội.
Có nhiều loại cộng đồng khác nhau: cộng đồng sắc tộc, cộng đồng làng
(thôn, bản), xã, cộng đồng tôn giáo... Sự gắn bó của một cộng đồng thường
thể hiện qua các lệ tục, các qui ước thành văn bản hoặc không thành văn bản
nhiều hơn là thể hiện bằng một hình thức tổ chức của một pháp nhân kinh tế.
Do đó, để quản lý tài nguyên rừng một cách hiệu quả và bền vững,
không thể bỏ qua việc phát huy vai trò của cộng đồng người dân sống gần
rừng trong việc bảo vệ và phát triển rừng.
b. Hình thức tổ chức cộng đồng
Theo báo cáo đánh giá sơ bộ về hiện trạng quản lý rừng cộng đồng ở
Việt Nam - Hà công Tuấn - Cục Kiểm lâm thì hình thức tổ chức của cộng
đồng cũng rất đa dạng, với qui mô khác nhau, có thể được phân thành 2 nhóm chủ
yếu sau:
Cộng đồng hình thành theo tổ chức dòng tộc (dòng họ), nhóm dân tộc
12
Hình thức tổ chức cộng đồng này, các hoạt động sinh hoạt, tổ chức sản
xuất kinh doanh cũng như tổ chức quản lý bảo vệ rừng gắn bó chặt chẽ với
những tập quán truyền thống và hệ tư tưởng của cộng đồng, vai trò của người
trưởng tộc hoặc già làng là rất quan trọng. Hầu hết các công việc quản lý rừng
của họ đều có sự phân công, các thành viên thực hiện tự giác và nghiêm túc.
Cộng đồng được tổ chức theo làng (bản, thôn, xóm, buôn, ấp)
Đây là hình thức tổ chức cộng đồng chủ yếu hiện nay. Hình thức tổ
chức này dựa trên cơ sở địa lý và khu vực người dân sinh sống, thường thì
mỗi thôn có một dòng họ thuộc một dân tộc chủ yếu. Ngoài ra, còn có những
người thuộc dòng họ khác hoặc dân tộc khác cùng sinh sống.
Phương thức quản lý của cộng đồng thông qua sự thống nhất của hội
nghị toàn thể các thành viên, dưới sự chủ trì của trưởng thôn. Trưởng thôn
điều hành các công việc chung của cộng đồng.
1.2. Tính bền vững:
Trong những năm gần đây tính bền vững đã trở thành một mối quan
tâm lớn trong phát triển Nông Lâm nghiệp. Vấn đề tính bền vững đòi hỏi một
định nghĩa khác về một hệ thống nông nghiệp thành công chỉ dựa trên việc
hạch toán là thu hoạch được bao nhiêu thùng đấu.
Nó đòi hỏi một hướng nhìn về tương lai. Năng xuất cây trồng có thể
tiếp tục kéo dài được bao lâu và với bao nhiêu đầu tư? Ảnh hưởng tương lai
tới môi trường của các kỹ thuật nông nghiệp ngày nay sẽ là những gì ?
Những đề nghị cải tiến của chúng ta sẽ làm lợi cho tầng lớp nào và gây thiệt
hại cho những ai ?
Việc phát triển hệ thống nông nghiệp sinh thái tự túc, đa dạng, có tính
chất kinh tế bền vững và qui mô nhỏ... thích ứng cho môi trường địa phương,
vừa tầm với các nguồn lực của nông dân sẽ không dễ.
Phát triển bền vững
13
Các quan điểm
Phát triển bền vững là sự phát triển đem lại lợi ích lâu dài về mặt kinh
tế, xã hội và môi trường mà nó quan tâm đến nhu cầu của thế hệ tương lai. Uỷ
ban môi trường và phát triển thế giới đã định nghĩ là:' Sự phát triển nhằm thoả
mãn những nhu cầu mà thế hệ hiện tại không làm tổn thương đến khả năng
thoả mãn nhu cầu của các thế hệ mai sau.
Như vậy việc làm thoả mãn những nhu cầu và ước vọng của con người
là mục tiêu chính của sự phát triển. Sự phát triển bền vững quan tâm đến tài
nguyên thiên nhiên, chú ý đến chọn lựa và bảo vệ kế hoạch hành động thoả
mãn nhu cầu cho mọi đối tượng. Nó cho phép sử dụng tốt nhất nguồn tài
nguyên có thể bị suy thoái, và chú ý đến việc dùng thay thế bằng một tài
nguyên khác đúng lúc. Sự phát triển bền vững kêu gọi hơn nữa việc bảo vệ hệ
thống nhiên nhiên và nguồn tài nguyên cơ sở mà mọi sự phát triển đều phải
dựa vào nó.
Quan điểm phát triển bền vững là sự phát triển trước mắt và lâu dài
không mâu thuẫn, phát triển trước mắt phải tạo cơ sở cho phát triển lâu dài.
Phát triển là sự biến đổi theo thời gian, theo nhịp điệu và theo luỹ tiến, các
quá trình của các giai đoạn phát triển đều được biểu thị bởi véc tơ định hướng
bền vững, hài hoà giữa mục tiêu sinh thái và mục tiêu kinh tế, véc tơ định
hướng đó được đo bằng véc tơ tổng hợp GDP, các tiêu chuẩn chất lượng cuộc
sống và tiêu chuẩn môi trường.
Tuy nhiên mọi sự phát triển đều có tính mâu thuẫn, nó diễn ra đấu tranh
giữa các xu thế đối lập. Trong sinh thái học, đó là mâu thuẫn giữa sinh vật
thích nghi với môi trường, giữa phát triển với bảo vệ môi trường.
Phát triển bền vững là mục tiêu, là phương châm cho các hoạt động phát
triển xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
14
Phát triển bền vững là quan hệ tổng hợp giữa kinh tế, xã hội và môi
trường trong đó tài nguyên thiên nhiên là cơ sở cho sự phát triển kinh tế. Tăng
trưởng kinh tế phụ thuộc vào công nghệ sản xuất, vào tổ chức, vào thể chế
quản lý và nguồn lực trong xã hội. Tăng trưởng kinh tế chưa phải là phát triển
kinh tế, còn phát triển kinh tế là tăng trưởng của hệ thống kinh tế theo qui mô
và trạng thái cân đối giữa thành phần kinh tế của hệ thống kinh tế.
1.3. Tình hình nghiên cứu nước ngoài
1.3.1. Du canh truyền thống và du canh cải tiến.
Du canh là phương thức canh tác rất phổ biến ở các nước nghiệt đới ẩm
và gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng trong sử dụng đất. Du canh là một kiểu
canh tác đất rừng hoặc cây bụi được phát quang để trồng trọt vài năm với cây
hàng năm hoặc cây bán lưu niên, sau đó bỏ hoá trong một thời gian dài. (Dale
V.H.1993)[67].
Coinlin (1957)[65] thì định nghĩa” du canh được coi là những hệ thống
nông nghiệp, trong đó đất được phát quang để canh tác trong thời gian ngắn
hơn là thời gian bỏ hoá”.
Kyuma.K (1993)[81] coi du canh như là một hệ thống luân canh gồm”
canh tác cây trồng + rừng bỏ hoá”. Rừng thứ cấp hay cây bụi được chặt vào
đầu mùa khô và đốt vào cuối mùa khô để đảm bảo giải phóng được tối đa
nguyên tố dinh dưỡng trong tro. Thời kỳ bỏ hoá nhằm giúp tái tạo lại độ phì
đất.
Dù tên gọi khác nhau nhưng du canh có những đặc điểm chung là: canh
tác dựa vào độ phì nhiêu tự nhiên, do đó sau khi kết thúc thời kỳ canh canh
tác cần có một thời kỳ bỏ hóa để phục hồi độ phì đất tự nhiên.
Thời kỳ bỏ hoá đất trống đóng vai trò rất quan trọng trong chu trình du
canh. Theo Sanchez (1976)[92] thì những canh tác gây giảm năng xuất như sự
suy thoái độ phì đất, nạn cỏ dại, sâu bệnh xuất hiện sẽ được khắc phục trong
15
thời gian bỏ hoá. Chừng nào mà mật độ dân số chưa cao, thời gian bỏ hoá còn
đủ dài để phục hồi năng xuất thì phương thức canh tác này còn thích ứng vì
còn đáp ứng với nhu cầu lương thực và các nhu cầu tự cấp khác của cư dân
bản địa.
Lorri Ann Thripp và Cs (1997)[83] tổng kết các kết quả nghiên cứu và
quan điểm về nông nghiệp du canh truyền thống cho rằng: du canh truyền
thống theo kiểu quay vòng là một trong những hình thái sử dụng, quản lý tài
nguyên rừng và đất một cách khôn ngoan của người dân bản địa. Thực chất
đây là hình thức sử dụng đất tương đối hợp lý bằng cách quản lý chu trình
dinh dưỡng đất ( độ phì) vùng nhiệt đới thông qua quản lý thảm thực vật.
Theo Kynma. K và Pairitra C. (1983)[80] thì với thời kỳ bỏ hoá còn đủ dài
để đảm bảo cho du canh truyền thống đạt được những hiệu quả sau đây:
- Chất dinh dưỡng như ( P,K) từ tro đốt rãy và từ phân giải chất hữu cơ
đất (như N) đủ cung cấp cho cây trồng không cần đến phân bón.
- Hạn chế xói mòn, giúp cây bụi dễ mọc trở lại nhờ thời kỳ canh tác
ngắn so với thời kỳ bỏ hoá.
Thông thường người ta phân biệt 3 kiểu nông nghiệp du canh:
- Nông nghiệp du canh quay vòng.
- Nông nghiệp du canh cải tiến.
- Nông nghiệp du canh hỗ trợ.
Theo Chorlay và Kennedy (1971)[63] thì du canh là phương thức canh
tác tự cấp tốt nhất mà sự đầu tư duy nhất chỉ là lao động. Nó giữ được gần
như bền vững khi mật độ dân số còn thấp, nhưng không phù hợp với mật độ
dân số tăng nhanh.
Du canh là phương thức cổ truyền của nhân dân ở nhiều vùng rừng núi
thuộc Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ. Đó là các hệ thống sử dụng đất rất đa
16
dạng và phức tạp được phổ biến rộng rãi từ 10.000 năm trước công nguyên ở
nhiều vùng sinh thái khác nhau từ vùng rừng núi đến vùng đồng bằng, từ rừng
nhiệt đới đến đồng cỏ Savan.
Hệ thống nông nghiệp theo kiểu du canh và du mục ở vùng Tiểu Á có
từ cách đây 7000 năm, ở lục địa Trung Hoa và Trung Mỹ từ 3000 năm đến
4000 năm, sau đó lan tràn ra vùng núi Địa Trung Hải, lục địa Châu Âu, Châu
Á (Dufunier, 1992)[12], (Phạm Chí Thành, Trần văn Diễn và CS , 1993)[46].
Theo Ota keizaburo, tanaka Ichir và CS (1981)[33], Nhật Bản, đến triều
đại Nawabun trước công nguyên khoảng 200 năm mới có nền móng nông
nghiệp ruộng nước, truớc đó đã có nông nghiệp nương rãy theo kiểu sử dụng
đất: phát đốt, chọc lỗ bỏ hạt.
Về tính phổ biến thì cho đến ngày nay du canh còn khá phổ biến ở miền
núi các nước nhiệt đới, các nước đang phát triển mặc dù về lịch sử đó là
phương thức canh tác cổ xưa.
Ở Đông Bắc Ấn Độ thời gian bỏ hoá trước kia dài 40 năm, nay rút
xuống chỉ còn 5 năm thấp hơn nhiều so với yêu cầu ( 10 năm) để đất có khả
năng phục hồi bằng con đường tái sinh tự nhiên (Goswami, 1985)[76] và
Rama Krisma, 1992) [90].
Nghiên cứu ở Zambia, Cludumayo (1987)[64] cho thấy rằng: người dân
du canh ở đây đã rút ngắn thời gian bỏ hoá từ 25 năm trước kia còn 12 năm.
Do rút ngắn thời kỳ bỏ hoá nên phải đối mặt với thách thức mới; độ phì
của đất chưa được phục hồi, đất bị xói mòn nên bị chua, xuất hiện nhiều độc
tố trong đất, các chất dinh dưỡng bị suy giảm nhiều và cỏ dại phát triển.
Kiểu du canh rút ngắn thời kỳ bỏ hoá và sử dụng các kỹ thuật hỗ trợ
kèm theo để duy trì canh tác được gọi chung là:”du canh cải tiến hay "du
canh chuyển tiếp".
17
Điều khác biệt giữa du canh truyền thống và du canh cải tiến là không
chỉ ở chỗ rút ngắn thời gian bỏ hoá mà còn ở cách bỏ hoá: cách bỏ hoá tự
nhiên thay thế bằng cách bỏ hoá có quản lý.
Bỏ hoá quản lý được gọi là bỏ hoá tích cực là cách bỏ hoá làm sao súc
tiến nhanh sự phục hồi chất dinh dưỡng trong đất.
Ví dụ trồng các cây họ đậu làm phân xanh và phủ đất trong thời kỳ bỏ hoá.
1.3.2. Định canh và những phương thức định canh.
Chuyển từ du canh truyền thống sang du canh cải tiến sang định canh
với nhiều loại hình sử dụng đất khác nhau ở miền núi chẳng những phải đối
mặt với nhiều thách thức với điều kiện tự nhiên mà còn phải lựa chọn giải
pháp phù hợp hệ kinh tế - xã hội của từng vùng.
Dale (1993)[67] trình bày quá trình này như là quá trình tăng tiến đầu
tư lao động dẫn đến tăng hệ số canh tác và được diễn giải theo sơ đồ sau:
Hệ số canh tác
120% v Định canh đa canh
100 %
80% Định canh cây hàng năm
60% Du canh cải tiến
40% Du canh cây bụi
20% Du canh rừng
Đầu tư lao động/diện tích
Đồ thị I.1 Tiến triển các loại hình sử dụng đất theo sự gia tăng dần đầu
tư lao động/diện tích.
Santoso và Sukristiyonubowo (1996)[95] cho rằng: hai yêu cầu cơ bản
để canh tác bền vững trên đất dốc là quản lý độ phì và kiểm soát xói mòn. Về
kiểm soát độ phì đã nhấn mạnh vai trò cây họ đậu và bón liều cao quặng phốt
18
Vườn nhà
Cây lưu niên
phát nghiền. Hệ thống cây trồng và hệ thống canh tác có ý nghĩa rất lớn đối
với các yêu cầu trên.
Hệ thống cây trồng được bố trí sao cho độ che phủ mặt đất để đảm bảo
hạn chế xói mòn mặt đất trong mùa mưa đồng thời vẫn đạt năng xuất khá đảm
bảo được an toàn lương thực. Hệ thống cây trồng tổ hợp giữa Ngô và Đậu,
Ngô - Lạc là rất hứa hẹn vừa cho năng xuất cao, thu nhập khá và lại có phụ
phẩm bón cho đất hoặc chăn nuôi.
Nghiên cứu hệ thống canh tác ở Sumatra (Inđônêxia) cho thấy hệ thống
canh tác kết hợp giữa cây lương thực, cây lưu niên và chăn nuôi đại gia súc
cho lợi nhuận cao nhất, chăn nuôi có thể đóng góp đến 24% tổng thu nhập.
Chọn các cây trồng và giống cây chống chịu chua (Von Uex kiill,
1986)[103] cũng là một giải pháp sinh học. Dứa, sắn, một số cây lúa nương,
một số giống Mía là những cây chịu chua, Ngô, Đậu Tương là cây nhạy cảm
với độ chua đất.
Để lựa chọn loại hình sử dụng đất thích hợp theo hướng định canh thì
cần dựa vào hệ thống "phân loại khả năng đất" "land capability classification"
nghĩa là tuỳ theo độ dốc, tầng dày đất và các tính chất khác của đất mà lựa
chọn cây trồng thích hợp.
Nghiên cứu sử dụng đất ở Jamaica, Sheng (1989)[97] đã giới thiệu một
hệ thống phân loại khả năng đất gồm 24 nhóm, căn cứ vào độ dốc (6 cấp độ
dốc: <7, 7-15, 15-20, 20-25, 25- 30, >30) và tầng dày đất ( 4 cấp).
Căn cứ vào đó tác giả sắp xếp thành 7 nhóm loại hình sử dụng đất:
- Đất canh tác C: 4 loại C1, C2, C3, C4, đất tốt nhất dành cho C1.
- Đất đồng cỏ.
- Đất cây lưu niên (FT).
- Đất lâm nghiệp (F).
19
Theo Santoso và Sukristiyonubowo (1996)[95] ở Sumatra (Inđônêxia)
cơ cấu cây trồng được bố trí như sau:
Cây lưu niên độ dốc 45%
Cây lưu niên kết hợp cây hàng năm
Rừng gỗ độ dốc > 45%,
Phân bón đặc biệt là phân lân và vôi là một biện pháp hoá học để duy
trì canh tác lâu bên trên đất dốc.
Ví dụ dưới đây của Von Uexkiill (1986)[103] so sánh đất canh tác
trước phát quang và sau quá trình canh tác 8 năm (20 vụ thu hoạch) áp dụng
chế độ luân canh lúa - ngô - đậu tương và bón phân đầy đủ thì độ phì đất được
duy trì và một số mặt được cải thiện.
Tính chất đất Ban đầu chưa phát quang Sau 8 năm canh tác
(độ sâu 0-15 cm)
PH nước 4,0 5,7
Chất hữu cơ % 2,13 1,55
Al trao đổi meq/ 100g đất 2,27 0,06
Ca trao đổi meq/100g đất 0,26 4,98
K trao đổi meq/100g đất 0,10 0,11
Bón phân hữu cơ và tận dụng phụ phẩm cây trồng sau thu hoạch vùi
vào đất là một biện pháp duy trì và cải thiện chất hữu cơ trong đất. Ngay cả
khi dùng phân hoá học khi đảm bảo cân đối giữa phân hữu cơ và khoáng là
một yêu cầu cấp thiết để canh tác lâu bền.
20
Những biện pháp nêu trên nhằm góp phần vào việc định canh trên đất
dốc được bền vững. Tuy nhiên đối với cây hàng năm việc liên tục canh tác là
một thách thức lớn đối với đất dốc. Xu hướng định canh là trồng cây lưu niên
hoặc cây hàng hoá lưu niên hoặc theo xu hướng nông lâm kết hợp.
1.3.3. Nghiên cứu kiến thức bản địa ở vùng cao.
Kiến thức bản địa (Indigenouse knowledge) còn gọi tắt là kiến thức địa
phương (local knowledge) các nhà khoa học đã coi thuật ngữ trên là đồng
nghĩa và khái niệm như sau:
Kiến thức bản địa là hệ thống kiến thức của các dân tộc bản địa, hoặc
của một cộng đồng tại một khu vực cụ thể nào đó nó tồn tại và phát triển
trong những hoàn cảnh nhất định với sự đóng góp của mọi thành viên trong
cộng đồng (người già, trẻ, đàn ông, phụ nữ) tại một vùng địa lý xác định (Gr.
Louise .G) [1996].
Khái niệm về kiến thức bản địa bao hàm rất nhiều lĩnh vực liên quan
đến đời sống sản xuất nông, lâm nghiệp, quản lý tài nguyên và quản lý cộng
đồng.
Thí dụ: Kiến thức về trồng trọt: Các giống cây trồng bản địa, kinh
nghiệm xác định đất nào cây ấy, lịch thời vụ và dự đoán thời tiết, các kinh
nghiệm về tưới tiêu, sử dụng phân bón, cách thu hoạch và cất trữ lương thực,
các kinh nghiệm sản xuất trên đất dốc, luân canh nương dãy.
Kiến thức quản lý về rừng cộng đồng: khai thác chế biến lâm sản, quản
lý rừng để phục vụ nguồn nước sinh hoạt, nước tưới tiêu đồng ruộng.
Kinh nghiệm về săn bắt thú rừng
Kiến thức về chăn nuôi: kinh nghiệm chọn giống gia súc, quản lý đất
đai, bãi chăn thả theo mùa, các cây làm thức ăn cho gia súc. Cây lấy thuốc gia
súc truyền thống.
21
Kiến thức về tổ chức cộng đồng và kinh nghiệm truyền thụ kinh
nghiệm cho con cháu thông qua các hoạt động văn hoá tín ngưỡng, tập tục
dân cư.
Câu hỏi cần đạt ra là tại sao cần quan tâm đến kiến thức bản địa ?
Trong khoa học kỹ thuật hiện đại, bằng chứng ở các nước đang phát
triển ở Châu Á và Châu Phi trong vài thập kỷ qua cho thấy rằng: công nghệ
mới và cách mạng xanh tại nhiều khu vực đã dẫn tới sự suy thoái môi trường
và kinh tế, cách tiếp cận khoa học và công nghệ của phương tây, không đủ để
đáp ứng những quan niệm phức tạp và đa dạng của nông dân cũng như những
thách thức về xã hội, kinh tế, chính trị và môi trường mà ngày nay chúng ta
đang phải đương đầu (Gr. Louise .G )[1996].
Việc kế hoạch hoá ở tầm vĩ mô cho quốc gia thường bị thất bại trong
quá trình thực thi và quản lý ở cấp địa phương. Sự phát triển theo các kế
hoạch áp đặt không có người dân tham gia đã tạo ra những áp lực chưa từng
thấy đối với tài nguyên đất, nước, rừng và các tài nguyên khác trên hành tinh
chúng ta. Tình trạng đó sẽ làm tăng nạn đói và suy thoái môi trường. (WC
ED)[ 1987].
Các giải pháp kỹ thuật được xây dựng từ nước ngoài, đặc biệt ở các
nước phát triển không có khả năng khả thi về mặt kinh tế và khó chấp nhận về
văn hoá, do đó có thể bị dân địa phương từ chối.
Ngược lại rất nhiều kỹ thuật truyền thống đã đưa lại hiệu quả cao, được
thử thách qua hàng thế kỷ, có sẵn ở địa phương, rẻ tiền và phù hợp về văn
hoá, xã hội.
1.4. Tình hình nghiên cứu trong nước:
1.4.1 Tiềm năng và đặc điểm đất dốc Việt Nam.
22
Theo Nguyễn tử Siêm, Thái Phiên (1999)[43] đất đồi núi Việt Nam
chiếm 3:4 diện tích toàn quốc. Trong số 12,087 triệu ha đất chưa sử dụng thì
đất đồi chiếm 8,548 triệu ha (70,72% đất chưa sử dụng của cả nước).
Theo Bùi Quang Toản (1991) [52], đất dốc đang sử dụng cho nông
nghiệp Việt nam là 1,55 triệu ha, cho lâm nghiệp là 9,6 triệu ha. Tối đa nước
ta có thể mở rộng thêm cho đất sản xuất nông nghiệp là 4,15 triệu ha, đưa
tổng diện tích đất nông nghiệp lên 11 triệu ha.
Còn theo số liệu của Tổng cục Địa Chính (1995)[55], năm 1994 quĩ đất
chưa sử dụng của cả nước còn tới 13,98 triệu ha trong đó đất đồi núi là 10,05
triệu ha. Số liệu thống kê năm 2000 [56] cả nước có tổng diện tích là
32,924100 ha trong đó đất nông nghiệp chiếm 9,345,400 ha; đất lâm nghiệp
có rừng 11,575,400 ha đất chuyên dùng: 1,532,800 ha, đất ở 443,200 ha như
vậy đất chưa sử dụng : 10,027,300 ha.
Riêng tỉnh Lai châu có tổng diện tích tự nhiên: 1.691.923,00 ha, trong
đó đất nông nghiệp: 91.873,66 ha, đất có rừng: 459.926,88 ha, đất chuyên
dùng: 6.731,31ha, đất ở: 3.049,10 ha, đất chưa sử dụng: 1.130.342,05 ha
Theo Tôn gia Huyên (1992)[16], ở Việt Nam chỉ số bình quân đất đai
theo đầu người: m2/người rất thấp và có su hướng giảm dần, đặc biệt là đất
nông nghiệp. Năm 1999 có 1080 m2/ người giảm 232 m2/người so với năm
1980.
Dự báo của tổng cục Địa Chính (1995)[55] đến năm 2020 dân số nước
ta sẽ có 126 triệu người khi đó bình quân đất nông nghiệp theo đầu người chỉ
còn 793 m
2
/người.
Theo Nguyễn Tử Siêm và Thái Phiên (1999)[43] ở miền núi và cao
nguyên nước ta có 10 nhóm đất chính:
- Nhóm đất mùn alit và mùn thô than bùn núi cao phân bố ở độ cao trên
2000 m.
23
- Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi (16,14%) diên tích tự nhiên phân bố
ở độ cao từ 900-2000m, gồm 5 đơn vị đất:
+ Đất mùn đỏ nâu trên đá vôi (Hv): đất ít dốc, dày, tơi xốp, cấu tượng
tốt, tầng mùn khá dày, thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng. Đất thích
hợp nhiều loại cây trồng.
+ Đất mùn nâu đỏ trên đá Macma Bazơ và trung tính (Hk): tầng mặt có
lớp mùn dày 20 -30 cm, màu đen, tầng đất sâu từ 1,0 -1,5 m. Hàm lượng hữu
cơ cao ở tầng mặt 8-10%, đất chua, lân tổng số trung bình nhưng lân dễ tiêu
nghèo, thành phần cơ giới nặng đến sét.
+ Đất mùn vàng đỏ trên đá sét và biến chất (Hs) chất hữu cơ tầng mặt
khoảng 5-6%, PHkcl : 4,1 4,2. Đạm và lâm tổng số khá đến giàu. Lân dễ tiêu
nghèo, kali tổng số và dễ tiêu từ nghèo đến khá, thành phần cơ giới trung bình
đến nặng, cấu tượng bền, độ phì tự nhiên khá.
+ Đất vàng đỏ trên đá Macma Axit (Ha), đất có quá trình phong hoá
yếu, bào mòn và rửa trôi mạnh, tầng đất mỏng, đá lộ đầu nhiều, đất chua, hàm
lượng đạm tổng số khá cao, lân tổng số và lân dễ tiêu nghèo, cation trao đổi
và độ no Bazơ thấp.
+ Đất mùn vàng nhạt trên đá Cát (Hq): hình thành trên địa hình cao, hiểm
trở.
- Nhóm đất đỏ vàng (72,6% DTTN và 78,6 % đất đỏ vàng toàn quốc)
nằm ở độ cao địa hình 500 -1000m. Diện tích đất dốc trên 25 độ chiếm 64,3
%. Đặc tính chung của nhóm đất: Chua, độ nobazơ thấp, khả năng hấp thu
không cao, khoáng sét chủ yếu là kaolimit, các chất dễ hoà tan như kim loại
kiềm, kiềm thổ bị rửa trôi, tích luỹ sắt, nhôm, đa số đất có cấu trúc tốt.
Nhóm đất này có 8 đơn vị đất:
+ Đất đỏ nâu trên đá Vôi (Hv).
+ Đất nâu đỏ và nâu vàng trên đá Macmabazơ và trung tính (Fk,Fu).
24
+ Đất đỏ vàng trên đá Sét và Biến Chất (Fs).
+ Đất đỏ vàng trên đá Macma Axit (Fa).
+ Đất vàng nhạt trên đá Cát (Fq).
+ Đất nâu vàng trên Phù Sa Cổ ( Fp).
+ Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước (Fl).
- Nhóm đất đen (0,8% DTTN) có độ phì cao, ít dốc, rất thích hợp với
cây trồng Ngô, Đậu Đỗ và cây lương thực phẩm khác. Có 3 đơn vị đất:
+ Đất nâu sẫm trên đá Macmabazơ và trung tính (Ru).
+ Đất đen trên sản phẩm bồi tụ của đá Macmabazơ và trung tính (Rk)
+ Đất đen cacbonat (Rv).
- Nhóm đất xám bạc màu ( 3,9%DTTN) là nhóm đất giữa núi và đồng
bằng thung lũng. Đất chua, nghèo mùn, đạm lân tổng số thấp, nghèo kation
kiềm. Trồng cây Cao Su, Điều, Mía có hiệu quả kinh tế cao. Có thể trồng rau,
đậu, củ nếu thâm canh hợp lý.
- Nhóm đất đỏ và xám nâu vàng bán khô hạn (0,6% DTTN) đất ít chua,
trung tính, nghèo mùn đạm và lân tổng số, tổng lượng cation kiềm trao đổi
khá, thành phần cơ giới từ thịt năng đến sét nhẹ. Trồng cây ăn quả chịu hạn
thích hợp.
- Nhóm đất phù sa và nhóm đất thung lũng dốc tụ (2,5%DTTN) tầng
đất mịn dày, thành phần cơ giới trung bình đến nặng, đồ phì từ khá đến giàu.
Thích hợp trồng Đậu Đỗ và những cây ngắn ngày khác.
- Nhóm đất phèn và đất lầy thụt (0,4% DTTN) nằm lọt trong ranh giới
vùng núi cao.
- Nhóm đất Cát biển ( C ) 0,25% DTTN.
25