Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

(TIỂU LUẬN) bài THẢO LUẬN THỨ BA GIAO DỊCH dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.79 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH KHOA CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO
TẠO ĐẶC BIỆT LỚP CLC46E

BÀI THẢO LUẬN THỨ BA

GIAO DỊCH DÂN SỰ

Giảng viên: PGS.TS. Lê Minh Hùng
Bộ môn: Những Quy Định Chung Về Luật Dân Sự, Tài sản và Thừa kế
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Kiều Như
Mã số sinh viên: 2153801012165

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 03 năm 2022


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ Luật Dân sự


MỤC LỤC
PHẦN I. KHÁI NIỆM DÂN SỰ........................................................................1
1.1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa
về giấy tờ có giá......................................................................................................1
1.2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá khơng? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho
câu trả lời khơng?...................................................................................................1
1.3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả
lời khơng? Vì sao?...................................................................................................2
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan


đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ
khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước
ngoài)..3
1.5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản khơng? Vì sao?.............................................4
1.6. Suy của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”...............................5
1.7. Bitcoin là gì?....................................................................................................5
1.8. Theo Tịa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam khơng?................6
1.9. Pháp luật nước ngồi có coi Bitcoin là tài sản khơng? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết........................................................................................6
1.10. Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối
quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam...............................................................7
1.11. Quyền tài sản là gì?........................................................................................7
1.12. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?...............................................................................................7
1.13. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?...............................................................8


1.14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài
sản)?........................................................................................................................ 8

PHẦN II. CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU........................................ 10
2.1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị
về khẳng định này của Tòa án?............................................................................. 11
2.2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ

của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?.......................................................... 11
2.3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?................................................................ 13
2.4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu cơng khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?.......................................................... 14
2.5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo khơng cịn
là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của Tòa án?............................................................................................ 15
2.6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất
có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền khơng? Vì sao?.......16

PHẦN III. CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN...................................... 18
3.1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời............................................................................................................... 18
3.2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.......................................................................................................................... 18
3.3. Bà Dung có phải thanh tốn tiền mua ghe xồi trên khơng? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.................................................................................................. 19

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................20


PHẦN I. KHÁI NIỆM DÂN SỰ
1.1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ
minh họa về giấy tờ có giá.
_Giấy tờ có giá là một dạng đặc biệt của tài sản, mà theo quy định tại khoản 1
Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Tuy
nhiên BLDS 2015 và các BLDS trước đó đều khơng có quy định trực tiếp về giấy tờ

có giá mà loại tài sản này được quy định trong các luật chuyên ngành, văn bản dưới
luật và theo khoản 8 Điều 6 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 quy định:
“Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy
tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả
lãi và các điều kiện khác”.
_Giấy tờ có giá là giấy tờ trị giá được bằng tiền, có thể có mệnh giá hoặc
khơng có mệnh giá, có thể dùng để thay thế trong lưu thơng, thanh tốn. Giấy tờ có
giá chỉ được coi là tài sản khi được phát hành hợp pháp (được phát hành bởi Nhà
nước, ngân hàng, tổ chức có chức năng kinh doanh hoặc doanh nghiệp), trong khoảng
thời gian có hiệu lực xác định như quy định trong khoản 1 Điều 1 Nghị định số
11/2012/NĐ-CP quy định: “Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu,
kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo
quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch”.
_Một số ví dụ minh họa về giấy tờ có giá:
+Cổ phiếu, trái phiếu
+Hợp đồng góp vốn đầu tư
+Quyền mua cố phần

1.2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá khơng? Quyết định số 06 và Bản án
số 39 có cho câu trả lời không?
_Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” khơng phải là giấy tờ có giá, vì:

NGUYỄN KIỀU NHƯ

1


+Tịa án nhân dân tối cao ban hành cơng văn số 141/TANDTC-KHXX

hướng dẫn thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận tài sản: “Theo
Công văn 141, các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản (Giấychứng nhận quyền sử
dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy đăng ký xemô tô, xe máy, Giấy
đăng ký xe ô tô ...) không phải là giấy tờ có giá theo quy định tại Điều 163 của BLDS
2005; do đó, nếu có u cầu Tịa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy
tờ này thì Tịa án khơng thụ lý giải quyết.” (Điều 2 cơng văn số 141/TANDTCKHXX).
+Quyết định số 06 của TAND tỉnh Khánh Hịa có đề cập: “Như vậy,
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử
dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tải sản và không thể xem là loại
giấy tờ có giá.”.
+Bản án số 39 của TAND huyện Long Hồ nhận định rằng: “Giấy chứng
nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất,
quyền sử dụng nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử
dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất
nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự.”.
=>Như vậy, cả Quyết định số 06 và Bản án số 39 đều cho rằng giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà đều không phải là giấy tờ có giá.

1.3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản khơng? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có
cho câu trả lời khơng? Vì sao?
_Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” không phải là tài sản, vì:
+Căn cứ theo Điều 105 BLDS 2015 Quy định về tài sản:
1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể

là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
+Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 quy định:
“Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy


NGUYỄN KIỀU NHƯ

2


tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả
lãi và các điều kiện khác”.
+Điều 115 BLDS 2015 quy định về quyền tài sản như sau: “Quyền tài sản
là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở
hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.
+Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định: “Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý
để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền
với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở
hữu tài sản khác gắn liền với đất”.
+Quyết định số 06 cho rằng: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là
văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không
phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.
+Bản án số 39 của TAND huyện Long Hồ nhận định rằng: “Giấy chứng
nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất,
quyền sử dụng nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử
dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất
nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự.”.
=>Do đó, chứng thư pháp lý và cũng theo các quy định trên nên các loại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đã nêu không phải là tài sản.

1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên
quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
nhìn từ khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước

ngoài).
_Về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” không phải là tài sản là chưa phù
hợp với quy định của bộ luật hiện hành, vì:
+Theo khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy
tờ có giá và quyền tài sản.”. Theo định nghĩa tại điều luật trên, có thể thấy “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” có thể được xem là vật
(tài sản hữu hình). Vì “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” là vật liệu tồn tại dưới một hình thức vật chất nhất định, thậm chí có hình dáng
NGUYỄN KIỀU NHƯ

3


cụ thể (là tờ giấy), nằm trong khả năng chiếm hữu của con người (có thể thực hiện
việc nắm giữ, chiếm giữ, quản lý đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Đặc
biệt “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” cịn có giá trị
sử dụng thông qua việc chứng minh quyền sử dụng hợp pháp của người chiếm giữ
giấy chứng nhận đó. Việc “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” khơng thể tham gia vào q trình trao đổi mua bán không thể làm mất đi
bản chất tài sản của nó bởi trong thực tế vẫn có nhiều loại tài sản Nhà nước cấm lưu
thơng như vũ khí quân dụng, ma túy, phương tiện chuyên dùng quân sự, các loại đồ
chơi nguy hiểm,…
_Bên cạnh đó việc coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà khơng phải là tài sản cịn ảnh hưởng đến quyền của chủ thể sủ dụng. Cụ thể
theo Điều 115 BLDS 2015 quy định về Quyền tài sản thì: “Quyền tài sản là quyền
trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”. Nếu giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà không phải là tài sản đồng nghĩa với việc chủ thể sẽ
khơng có quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp đối với loại giấy tờ này, từ đó dẫn tới

việc tịa án khơng có cơ sở để thừa nhận việc bảo hộ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp
pháp đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà khi có
tranh chấp.

1.5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản khơng? Vì sao?
_Áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà khơng là tài sản, vì:
+Căn cứ theo Điều 105 BLDS 2015 Quy định về tài sản
1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể

là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
+Mà theo Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định: “Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là
chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài
sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.
NGUYỄN KIỀU NHƯ

4


=> Do đó, giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước
xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp
pháp của người có quyền sử dụng đất; không phải là tài sản theo quy định của pháp
luật.
1.6. Suy của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.
Theo như hướng giải quyết trong Bản án số 39 thì chưa hợp lí. Vì giấy chứng

nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở, tài sản gắn liền với đất, có hàm chứa nội dung liên quan đến
quyền tài sản thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự. Về bản chất, căn cứ theo
Điều 105 BLDS năm 2015 quy định: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ giá và quyền tài
sản.2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là
tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”, khoản 16 Điều 3 Luật đất đai
năm 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”, căn cứ Điều 115
BLDS năm 2015 quy định về quyền tài sản: “Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác”, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thuộc
diện là quyền tài sản và nó cũng khơng hàm chứa nội dung gì liên quan đến quyền tài
sản mà chỉ đơn thuần là “chứng thư pháp lý” ghi nhận lại quyền sử dụng đất của
người sở hữu tài sản. Và trên thực tế, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể
đem ra khai thác để đem về hoa lợi, lợi tức. Theo đó, việc Tòa án vẫn thụ lý và giải
quyết vụ án là không thuyết phục bởi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khơng phải
là tài sản nên nó khơng thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự. Vì vậy, việc
buộc bà Nguyễn Thị Thủy T giao trả cho ông Võ Văn B và bà Bùi Thị H giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là chưa hợp lí, cũng như án phí dân sự sơ thẩm khơng phải do
bà Nguyễn Thị Thủy T nộp mà phải do bên nguyên đơn chi trả.

1.7. Bitcoin là gì?
_Bitcoin là một loại tiền mã hóa, được phát minh một cá nhân hoặc tổ chức vô
danh dùng tên Satoshi Nakamoto dưới dạng phần mềm mã nguồn mở từ năm 2009.
NGUYỄN KIỀU NHƯ

5



Bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối Internet mà không cần
thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào
_Bitcoin có cách hoạt động khác hẳn so với các loại tiền tệ điển hình: khơng có
một ngân hàng trung ương nào quản lý nó và hệ thống hoạt động dựa trên một giao
thức mạng ngang hàng trên Internet. Sự cung ứng Bitcoin là tự động, hạn chế, được
phân chia theo lịch trình định sẵn dựa trên các thuật toán. Bitcoin được cấp tới các
máy tính "đào" Bitcoin để trả cơng cho việc xác minh giao dịch Bitcoin và ghi chúng
vào cuốn sổ cái được phân tán trong mạng ngang hàng, thông qua công nghệ
blockchain. Cuốn sổ cái này sử dụng Bitcoin là đơn vị kế tốn. Mỗi bitcoin có thể
được chia nhỏ tới 100 triệu đơn vị nhỏ hơn gọi là satoshi.1
1.8. Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam khơng?
Theo Tịa án, Bitcoin khơng phải là tài sản, không phải là tiền theo pháp
luật Việt Nam. Trong phần nhận định của Tòa án của Bản án số 22/2017/HC-ST,
Tòa án có trình bày:
“Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có bất cứ một văn bản quy phạm pháp luật
nào quy định tiền kỹ thuật số (tiền ảo) là hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất,
kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam
....Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo là
tiền tệ, phương tiện thanh toán hợp pháp, đồng thời Nghị định số 96/2014/NĐ-CP
ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy định chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi phát hành, cung ứng và sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp như
Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự”.

1.9. Pháp luật nước ngồi có coi Bitcoin là tài sản khơng? Nếu có, nêu hệ
thống pháp luật mà anh/chị biết.
_Hiện tại, bitcoin được nhiều nước trên thế giới công nhận sử dụng như
một loại tiền tệ có giá trị .
+Hoa Kỳ: Tháng 9 năm 2015, Ủy ban giao dịch hàng hố tương lai Mỹ
(CFTC) cơng bố, Bitcoin đã chính thức được đưa vào danh sách hàng hóa được phép

giao dịch tại Mỹ. Phần lớn các cơ quan trong chính phủ Mỹ đều đã tán thành việc sử
1 />
NGUYỄN KIỀU NHƯ

6


dụng Bitcoin. Đơn cử, Ủy ban bầu cử liên bang Mỹ (FEC) muốn chấp nhận quyên
góp qua Bitcoin.2
+Tuy nhiên, có một số nước coi Bitcoin là hợp pháp nhưng bị cấm trong
giao dịch ngân hàng ví dụ như Canada. Kể từ tháng 4 năm 2018, Ngân hàng Montreal
(BMO) đã thông báo rằng họ sẽ cấm khách hàng sử dụng thẻtín dụng và thẻ ghi nợ
của mình tham gia mua tiền điện tử bằng thẻ của họ. Việc này diễn ra sau một lệnh
cấmkhác của ngân hàng Toronto Dominion (TD) ở Canada.3
1.10. Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong
mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.
_Điều 163 BLDS 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và
các quyền tài sản”. Trong đó:
+Vật: là một bộ phận tồn tại khách quan trong thế giới vật chất, con người
có khả năng chiếm hữu, kiểm sốt được;
+Tiền: là phương tiện thanh toán do Ngân hàng Nhà nước phát hành, dùng
để định giá các loại tài sản khác, gồm nội tệ và ngoại tệ;
+Giấy tờ có giá: là loại giấy tờ trị giá được bằng tiền và có khả năng
chuyển giao trong giao lưu dân sự.
+Quyền tài sản: là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong
giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ. Quyền này phải trị giá được thành tiền
hay nói cách khác là tương đương với một đại lượng vật chất nhất định.
=> Dựa vào những cách hiểu về những bộ phậnc ấu thành nên tài sản theo quy
định của pháp luật Việt Nam thì Bitcoin khơng là tài sản.
=>Vì vậy, quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái

niệm tài sản ở Việt Nam là hợp lý, phù hợp với pháp luật hiện hành.

1.11. Quyền tài sản là gì?
Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền
2 />3

/>
NGUYỄN KIỀU NHƯ

7


sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Theo đó, quyền tài sản là quyền trị giá được
tính bằng tiền, khơng địi hỏi phải có sự chuyển giao trong giao dịch dân sự”.

1.12. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản
là quyền tài sản khơng?
Hiện nay chưa có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua
tài sản là quyền tài sản.

1.13. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?
Đoạn [1] phần nhận định của Tòa án của quyết định số 05 cho thấy TAND
tối cao theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản (theo Điều 172 BLDS 1995
quy định thì quyền tài sản là tài sản):
“...Như vậy, cụ T là người có cơng với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét
cấpnhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm
cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên.
Như vậy, cụ T là người có cơng với cách mạng, nên được Qn khu 7 xét cấp nhà số

63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết
năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy
định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, quyền mua hóa
giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho
các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ơng T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua
hóa giá nhà của cụ T.”

1.14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái
niệm tài sản)?
_Hướng giải quyết trong Bản án số 05 là hợp lý, vì:
+Căn cứ theo Điều 172 Bộ luật Dân sự 1995: “Tài sản bao gồm vật có
thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản.”.

NGUYỄN KIỀU NHƯ

8


+Điều 188 Bộ luật Dân sự 1995: “Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ quy
định tại Phần thứ sáu của Bộ luật này.”.
+Điều 634 Bộ luật Dân sự 1995: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định
đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật;
hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.”.
+Quyền thuê, quyền mua cũng cần được thiết lập giữa hai bên là bên người
thuê, người mua (chủ thể có quyền) và bên người cho thuê, người bán (chủ thể có
nghĩa vụ). Bên thuê, mua có quyền yêu cầu bên cho thuê, bán phải cung cấp dịch vụ,
thông tin dịch vụ... và bên cho thuê, bán có nghĩa vụ phải thực hiện yêu cầu của bên
kia.

+Theo như Tòa án nhân dân tối cao, trong trường hợp này Tòa án đã coi
quyền thuê, quyền mua như là tài sản, chính xác hơn là coi quyền th, mua hóa giá
nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao để thừa kế.
+Cụ T được Quân đội (Quân khu 7) cấp căn nhà tại số 63 (tầng 2) đường V,
Phường X, quận I (nay là đường B, phường H, quận I, Thành phố Hồ Chí Minh) theo
tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đây được coi là tài sản riêng của cụ T. Cụ T có quyền
thuê, quyền mua hóa giá căn nhà trên hợp pháp theo Nghị định của Chính phủ số 61CP ngày 05 tháng 7 năm 1994 về Mua bán và kinh doanh nhà ở. Vì vậy, quyền thuê,
quyền mua của cụ T được coi là quyền tài sản vì nó trị giá được bằng tiền và có thể
chuyển giao trong giao dịch dân sự.
=> Vì vậy, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số
05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản) là hợp lý.

NGUYỄN KIỀU NHƯ

9


PHẦN II. CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
Tóm tắt Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
Nhà số 2, Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội là tài sản riêng của cụ
Dư Thị Hảo. Năm 1954, cụ Hảo vào Sài Gịn bn bán, giao nhà số 2 Hàng Bút cho
vợ chồng con trai là ơng Nguyễn Đắc Chính và bà Nguyễn Thị Châu quản lý. Năm
1968, vợ chồng ông Chính, bà Châu đi cơng tác nên cho ơng Nhữ Duy Hải thuê.
Nhưng chị Vân lại khai là ông nội thuê nhà số 2 Hàng Bút từ cụ Hảo từ năm 1954. Chị
không biết cụ Hảo, chị chỉ biết ông Chính là người cho nhà chị thuê nhà. Khi cho thuê
có lập giấy tờ nhưng sau này bị mất. Sau khi ơng phải chết thì cháu ơng là Nhữ Thị
Vân vẫn sử dụng đến nay. Năm 1999, vợ chồng bà Châu gặp chị Vân để đòi nhà. Chị
Vân yêu cầu tìm nhà khác nhưng khi tìm được nhà thì chị Vân không đồng ý nên hai
bên không thỏa thuận được. Năm 2001, chị Vân bán nhà tầng 1 nhà số 2 Hàng Bút

cho vợ chồng chị Dương Thị Ngọc Lan và anh Nguyễn Hồng Sơn. Giấy mua bán nhà
là giấy viết tay có chữ ký của ba anh em là chị Vân, anh Lâm, anh lân, giấy mua bán
nhà không có xác nhận của cơ quan thẩm quyền. Anh chị đã sửa chửa nhà hết
25.000.000 đồng. Cùng năm 2004, cụ Hảo có di chúc giao quyền bất động sản nhà số
2 Hàng Bút cho chị Nguyễn Thị Châu toàn quyền sở hữu (di chúc có xác nhận của
UBND xã Kim Chung). Tháng 1/2007 Cụ hảo chết. Bà Châu yêu cầu chị Vân trả lại
nhà số 2 Hàng Bút tầng 1 có diện tích 32,05m² và đồng ý thanh tốn tiền sửa chữa nhà
là 25.000.000 đồng cho chị Lan, anh Sơn. Tại tòa sơ thẩm số 15 ngày 12/4/2005, Tòa
án quận Hồn Kiếm quyết định: chấp nhận u cầu địi nhà của cụ Hảo đối với chị
Vân và chị Lan. Buộc phải trả nhà cho cụ Hảo tầng 1 nhà số 2 Hàng Bút. Việc mua
bán nhà giữa chị vân và chị Lan mà xảy ra tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác.
Sau khi xét xử sơ thẩm thì chị Nhữ Thị Vân và chị Dương Thị Ngọc Lan có đơn
NGUYỄN KIỀU NHƯ


kháng cáo. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 90/2011/DS-PT ngày 30/05/2011, Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội quyết định: hủy bản án dân sự sơ thẩm. Sao hồ sơ cho tịa
án nhân dân quận Hồn Kiếm giải quyết lại. Sau khi xét xử phúc thẩm anh Nguyễn
Hồng Sơn, chị Dương Thị Ngọc Lan, anh Nhữ Duy Lâm có đơn kháng cáo. Tại phiên
tịa giám đốc thẩm, Tịa quyết định hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số
90/2011/DSPT ngày 30/05/2011 và bản án dân sự sơ thẩm 49/2010/DS-ST ngày
31/08/2019 về vụ án địi nhà vì Tịa cho rằng gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này
trên 30 năm, là chiếm hữu ngay tình, liên tục và công khai theo quy định tại Khoản 1
Điểm 247 BLDS 2005.

2.1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tịa án?
_Tịa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp
trên 30 năm ở phần Xét thấy của Quyết định giám đốc thẩm số 111/2013/DS-GĐT

của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 09/09/2013:
“Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị
Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị th nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà
cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm
1954, ơng Chính cũng khơng xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ơng
Chính quản lý căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân sống tại nhà
số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và
chị Vân tiếp tục ở. Mặc dù phía ngun đơn khai có địi nhà đối với gia đình chị Vân
từ sau năm 1975 nhưng khơng có tài liệu chứng minh chỉ có biên bản hịa giải tại Ủy
ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001); đến đầu năm 2004 cụ Hảo mới có đơn
khởi kiện ra tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là khơng có căn cứ vì thực tế cụ Hảo
khơng cịn là chủ nhà sợ hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị vân đã ở tại căn nhà
này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, cơng khai theo quy định tại khoản
1 Điều 247 BLDS về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu…”.
_Khẳng định này của Tịa án là HỢP LÍ vì cho dù là chưa rõ gia đình chị Vân
đã thuê nhà của cụ Hảo từ năm 1954 (60 năm cho đến lần khởi kiện đầu tiên năm
2004) hay th nhà của ơng Chính từ năm 1968 (30 năm cho đến lần khởi kiện đầu
tiên năm 2004) thì thời hạn gia đình chị Vân chiếm hữu nhà đất có tranh chấp đến nay
NGUYỄN KIỀU NHƯ


đều là trên 30 năm. Do đó, khẳng định của Tịa án gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà
đất có tranh chấp trên 30 năm là hợp lí.

2.2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
_Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có
tranh chấp trên 30 năm ở phần Xét thấy của Quyết định giám đốc thẩm số
111/2013/DS-GĐT của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày

09/09/2013:
“Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị
Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị th nhà của cụ Hảo và nộp tiền th nhà
cho ơng Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm
1954, ơng Chính cũng khơng xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ơng
Chính quản lý căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân sống tại nhà
số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và
chị Vân tiếp tục ở. Mặc dù phía ngun đơn khai có địi nhà đối với gia đình chị
Vân từ sau năm 1975 nhưng khơng có tài liệu chứng minh chỉ có biên bản hịa
giải tại Ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001); đến đầu năm 2004 cụ Hảo
mới có đơn khởi kiện ra tịa án u cầu chị Vân trả nhà là khơng có căn cứ vì thực
tế cụ Hảo khơng cịn là chủ nhà sợ hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị vân đã ở tại
căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, cơng khai theo quy định
tại khoản 1 Điều 247 BLDS về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu…”.
_Khẳng định của tòa án là KHƠNG HỢP LÍ, vì:
+Căn cứ theo Điều 189 BLDS 2005 quy định về chiếm hữu khơng có căn
cứ pháp luật nhưng ngay tình thì: “Người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm
hữu tài sản đó là khơng có căn cứ pháp luật”, do đó quyết định của tịa án chưa phù
hợp với quy định của điều luật này.
+Gia đình chị Vân khơng biết hoặc khơng thể biết việc gia đình chị chiếm
hữu ngơi nhà trên là có căn cứ pháp luật theo quy định tại Điều 183 BLDS 2005.
Chiếm hữu có căn cứ pháp luật:

NGUYỄN KIỀU NHƯ


“Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong các trường hợp
sau đây:
1. Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;

2. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;
3. Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù

hợp với quy định của pháp luật;
4. Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ

sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ qn, bị chơn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các
điều kiện do pháp luật quy định;
5. Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù

hợp với các điều kiện do pháp luật quy định;
6. Các trường hợp khác do pháp luật quy định”.

Mà chị có khai trong hồ sơ rằng: “Chị có nghe ơng nội th nhà số 2 Hàng Bút của cụ
Dư Thị Hảo từ năm 1954. Chị khơng biết cụ Hảo mà chị chỉ biết ơng Chính là người
cho gia đình chị thuê nhà số 2 Hàng Bút; hàng năm gia đình chị đóng tiền th nhà
cho ơng Chính. Sau khi ơng nội chết (năm 1995) thì gia đình chị khơng đóng tiền th
nhà cho ơng Chính nữa. Sau đó bố chị và chị tiếp tục quản lý. Năm 1997, bố chị chết
thì chị tiếp tục ở tại nhà số 2 Hàng Bút (tầng 1), chị không trả tiền thuê nhà cho ai...”,
tức là gia đình chị biết chủ sở hữu của ngôi nhà chị đang chiếm hữu là ai và nhà đang
cho thuê nhưng gia đình chị lại không thực hiện nghĩa vụ của bên thuê là phải trả tiền
nhà theo khoản 2 Điều 495 BLDS 2005: “Trả đủ tiền thuê nhà đúng kỳ hạn đã thoả
thuận” và khi bên cho th địi nhà thì chị khơng chịu trả lại nhà. Do đó gia đình chị
Vân chiếm hữu khơng ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm. Vì thế quyết định
của tồn án là không hợp lý.

2.3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tịa án?
_Tịa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh

chấp trên 30 năm ở phần Xét thấy của Quyết định giám đốc thẩm số 111/2013/DSGĐT của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 09/09/2013:
NGUYỄN KIỀU NHƯ


“Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị
Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền th nhà cho
ơng Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ơng
Chính cũng khơng xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ơng Chính quản lý
căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân sống tại nhà số 2 Hàng Bút từ
năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở.
Mặc dù phía ngun đơn khai có địi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975
nhưng khơng có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hịa giải tại Ủy ban nhân dân
phường Hàng Bồ năm 2001); đến đầu năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra
tịa án u cầu chị Vân trả nhà là khơng có căn cứ vì thực tế cụ Hảo khơng cịn là
chủ nhà sợ hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị vân đã ở tại căn nhà này trên 30
năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, cơng khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247
BLDS về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu…”.
_Khẳng định của Tòa án là HỢP LÍ, vì:
+Căn cứ theo Điều 190 BLDS 2005 thì: “Việc chiếm hữu tài sản được thực
hiện trong một khoảng thời gian mà khơng có tranh chấp về tài sản đó là chiếm hữu
liên tục, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu”. Mà gia đình chị thuê
nhà từ năm 1954, trễ nhất là năm 1968 đến lần khởi kiện đầu tiên năm 2004 là đã 36
năm liên tục. Tuy nhiên, căn nhà chị Vân chiếm hữu đã nhiều lần địi lại từ phía
ngun đơn từ sau năm 1975 nhưng khơng có tài liệu pháp lý phù hợp chứng minh
(chỉ có biên bản hịa giải tại Ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001), do đó
thiếu cơ sở để chứng minh căn nhà này có tranh chấp giữa hai bên. Vì thế, quyết định
của tịa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp
trên 30 năm là khơng hợp lí.

2.4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị

Vân đã chiếm hữu cơng khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tịa án?
_Tịa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu cơng khai nhà đất có
tranh chấp trên 30 năm ở phần Nhận thấy và Xét thấy của Quyết định giám đốc
thẩm số 111/2013/DS-GĐT của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
ngày 09/09/2013:

NGUYỄN KIỀU NHƯ


“Chị có nghe ơng nội th nhà số 2 Hàng Bút của cụ Dư Thị Hảo từ năm
1954. Chị không biết cụ Hảo mà chị chỉ biết ơng Chính là người cho gia đình chị thuê
nhà số 2 Hàng Bút; hàng năm gia đình chị đóng tiền th nhà cho ơng Chính. Sau
khi ơng nội chết (năm 1995) thì gia đình chị khơng đóng tiền th nhà cho ơng
Chính nữa. Sau đó bố chị và chị tiếp tục quản lý. Năm 1997, bố chị chết thì chị tiếp
tục ở tại nhà số 2 Hàng Bút (tầng 1), chị không trả tiền thuê nhà cho ai, quá trình
ở thì bố chị có nâng cao nền nhà, thay cửa, cịn chị khơng sửa chữa gì thêm” và
“Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có
lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ơng
Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ơng Chính
cũng khơng xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ơng Chính quản lý căn nhà.
Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân sống tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm
1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở . Mặc
dù phía ngun đơn khai có địi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng
khơng có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải tại Ủy ban nhân dân phường
Hàng Bồ năm 2001); đến đầu năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra tịa án u
cầu chị Vân trả nhà là khơng có căn cứ vì thực tế cụ Hảo khơng cịn là chủ nhà sợ
hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm
hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS về xác
lập quyền sở hữu theo thời hiệu…”.

_Khẳng định của Tịa án là HỢP LÍ, vì:
+Căn cứ theo Điều 191 BLDS 2005 thì: “Việc chiếm hữu tài sản được coi
là chiếm hữu công khai khi thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản
đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, cơng dụng và được người chiếm hữu
bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình”. Mà gia đình chị Vân đã sử dụng căn
nhà tranh chấp một cách một cách minh bạch với mục đích chủ đạo là làm nơi sinh
sống và sinh hoạt, sử dụng không giấu giếm, sử dụng căn nhà theo đúng tính năng,
cơng dụng của nó (dùng để ở, cho thuê, đem bán...) và gia đình chị bảo quản, giữ gìn
như tài sản của mình (bố chị có nâng nền nhà, thay cửa,...). Do đó, quyết định của Tịa
án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu cơng khai nhà đất có tranh chấp trên 30
năm là hồn tồn hợp lí.

NGUYỄN KIỀU NHƯ


2.5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo
khơng cịn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?
_Tòa án khẳng định cụ Hảo khơng cịn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp
ở phần Xét thấy của Quyết định giám đốc thẩm số 111/2013/DS-GĐT của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 09/09/2013:
“Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị
Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền th nhà cho
ơng Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ơng
Chính cũng khơng xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ơng Chính quản lý
căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân sống tại nhà số 2 Hàng Bút từ
năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở.
Mặc dù phía nguyên đơn khai có địi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975
nhưng khơng có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hịa giải tại Ủy ban nhân dân
phường Hàng Bồ năm 2001); đến đầu năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra

tịa án u cầu chị Vân trả nhà là khơng có căn cứ vì thực tế cụ Hảo khơng cịn là
chủ nhà sợ hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm
là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS
về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu…”.
_Khẳng định của tịa án là KHƠNG HỢP LÍ, vì:
+Căn cứ theo Điều 171 BLDS 2005. Căn cứ chấm dứt quyền sở hữu:
“Quyền sở hữu chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu của mình cho người khác;
2. Chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình;
3. Tài sản bị tiêu hủy;
4. Tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu;
5. Tài sản bị trưng mua;
6. Tài sản bị tịch thu;
7. Vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước

di chuyển tự nhiên mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu trong các điều kiện

NGUYỄN KIỀU NHƯ


do pháp luật quy định; tài sản mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu theo quy
định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật này;
8. Các trường hợp khác do pháp luật quy định.”
Thì trường hợp của cụ Hảo khơng có trong quy định của điều luật này. Hơn thế nữa,
theo như lời khai của bà Nguyễn Thị Châu và anh Nguyễn Thanh Lâm thì năm 2004
cụ Hảo có di chúc giao quyền bất động sản số 2 Hàng Bút cho bà Nguyễn Thị Châu
toàn quyền sở hữu (di chúc có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Kim Chung) tuy
nhiên căn cứ vào khoản 1 Điều 667 BLDS 2005 thì: “Di chúc có hiệu lực pháp luật
từ thời điểm mở thừa kế” mà theo khoản 1 Điều 633 BLDS 2005: “Thời điểm mở
thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tồ án tun bố một

người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81
của Bộ luật này” thì di chúc của cụ Hảo chưa có hiệu lực vì thời điểm khởi kiện năm
2004 cụ Hảo vẫn còn sống, cho đến tháng 1/2007 thì cụ Hảo mới mất do đó quyền sở
hữu vẫn thuộc về cụ Hảo cho đến thời điểm năm 2007 khi cụ đã mất thì người được
hưởng thừa kế là bà Nguyễn Thị Châu. Vì thế khẳng định của Tịa án cụ Hảo khơng
cịn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp là khơng hợp lí.

2.6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với
nhà đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền khơng? Vì
sao?
Theo tơi gia đình chị Vân khơng được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất
có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền.
Vì theo khoản 1 Điều 247 BLDS 2005 quy định: “Người chiếm hữu, người được
lợi về tài sản khơng có căn cứpháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai trong thời
hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở
hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2
Điều này”, tuy gia đình chị đã chiếm hữu cơng khai trong thời hạn 30 năm đối với bất
động sản dù tính theo trường hợp thuê nhà của cụ Hảo từ năm 1954 hay th nhà của ơng
Chính từ năm 1968 nhưng về tính chiếm ngay tình theo Điều 189 BLDS 2005. Chiếm
hữu khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình thì: “Người chiếm hữu tài sản khơng có
căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà khơng biết và khơng thể biết
việc chiếm hữu tài sản đó là khơng có căn cứ pháp luật” và chiếm hữu liên tục theo Điều
190 BLDS 2005. Chiếm hữu liên tục thì: “Việc
NGUYỄN KIỀU NHƯ


chiếm hữu tài sản được thực hiện trong một khoảng thời gian mà khơng có tranh
chấp về tài sản đó là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài sản được giao cho người khác
chiếm hữu” thì chưa được thỏa mãn và phù hợp.


PHẦN III. CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN
3.1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Điều 162 BLDS 2015. Chịu rủi ro về tài sản
1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp

có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm
vi quyền của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc Bộ

luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
Điều 441 BLDS 2015. Thời điểm chịu rủi ro
NGUYỄN KIỀU NHƯ


1. Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua,

bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác.
2. Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải

đăng ký quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký,
bên mua chịu rủi ro kể từ thời điểm hồn thành thủ tục đăng ký, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác.

3.2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
_Tại thời điểm cháy chợ, bà Dung chính là chủ sở hữu số xồi, vì:
+Theo tình huống nêu ra, “Bà Dung có mua của bà Thủy 01 ghe xồi trị
giá 16.476.250 đồng. Tuy nhiên ghe xoài này đã bị hư do cháy chợ sau khi bà Dung

nhận hàng”.
+Hơn thế nữa, căn cứ khoản 1 Điều 161 BLDS 2015. Thời điểm xác lập
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản:
“Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thực hiện theo
quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; trường hợp luật khơng có quy định
thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp luật khơng quy định và các bên
khơng có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là
thời điểm tài sản được chuyển giao.
Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người đại
diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản”.
Do đó, có thể kết luận, tại thời điểm xảy ra cháy chợ, ghe xoài này đã thuộc quyền sở
hữu của bà Dung nên về nguyên tắc, bà Dung phải chịu những rủi ro về tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình.

3.3. Bà Dung có phải thanh tốn tiền mua ghe xồi trên khơng? Vì sao?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Bà Dung phải thanh tốn tiền ghe xồi, vì có thể thấy trong tình huống, ghe
xồi bị hư do cháy chợ sau khi bà Dung nhận hàng nên căn cứ theo khoản 1 Điều
NGUYỄN KIỀU NHƯ


162 BLDS 2015: “Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định
khác” và khoản 1 Điều 441 của luật này: “Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước
khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm
nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.Vì thế
nên, tại thời điểm xảy ra cháy chợ, bà Dung đã nhận ghe xoài này, bắt đầu từ thời
điểm ấy, ghe xoài thuộc quyền sở hữu của bà Dung, không phải bà Thủy, nên theo các
quy định của pháp luật nêu trên, bà Dung phải thanh toán 16.476.250 đồng cho bà
Thủy.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]

/>
[2]

/>
hoa.1654484.
[3]

/>
cryptocurrency/.
[4]

Bộ Luật dân sự 2005

[5]

Bộ Luật dân sự 2005.

[6]

Bộ Luật dân sự 2015.
NGUYỄN KIỀU NHƯ


[7]


Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010.

[8]

Nghị định số 11/2012/NĐ-CP.

[9]

Luật Đất đai 2013.

[10]

Cơng văn số 141/TANDTC-KHXX của Tịa án nhân dân tối cao.

[11]

Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh

Khánh Hòa.
[12]

Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ

tỉnh Vĩnh Long.
[13]

Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

[14]


Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10-4-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa

án nhân dân tối cao.
[15]

Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng thẩm phán

Tòa án nhân dân tối cao.

Chiếm hữu: có CCPL (chủ thể có quyền định đoạt) và khơng có CCPL (khơng có
quyền định đoạt; và có 2 loại: ngay tình, khơng ngay tình; trường hợp buộc phải biết
nhưng lại không biết là không ngay tình: mua tài sản giá tài sản quá rẻ hơn so với giá
thị trường, mua bán xe máy, ô tô, tàu biển, máy bay,… phải đi công chứng, không
công chứng là khơng ngay tình.)

NGUYỄN KIỀU NHƯ


×