TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
~~~~~~*~~~~~~
BÀI THẢO LUẬN
Môn: Hội nhập kinh tế quốc tế
Đề tài: Ảnh hưởng của Hiệp định Đối tác xun Thái Bình Dương (CPTPP)
đối với xuất khẩu nơng sản Việt Nam
Danh sách thành viên nhóm 6:
1.
Phạm Thùy Linh ( nhóm trưởng)
2.
Bùi Văn Tiệp
3.
Nghiêm Trà Giang
4.
Bùi Phương Thảo
5.
Hà Tống Lệ
1
MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................2
A. LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................2
B. NỘI DUNG......................................................................................................3
I. Tổng quan về Hiệp định Đối tác tồn diện xun Thái Bình Dương
(CPTPP)............................................................................................................3
1.1 Q trình hình thành CPTPP....................................................................3
1.2. Nội dung chính của Hiệp định CPTPP....................................................5
1.3. Sự khác nhau giữa CPTPP và TPP..........................................................6
II. Tình hình chung ngành xuất khẩu nơng sản Việt Nam khi ký kết
CPTPP..............................................................................................................8
2.1. Trước khi Hiệp định có hiệu lực..............................................................8
2.2 Sau khi có Hiệp định CPTPP.................................................................10
III. Ảnh hưởng của CPTPP đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam..........19
3.1 Cơ hội.....................................................................................................19
3.2. Một số thách thức khi tham gia CPTPP................................................21
3.3. Đánh giá tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam ở một số nước chủ lực
trong CPTPP.................................................................................................24
IV. Giải pháp thúc đấy nông sản Việt Nam nhằm khai khác cơ hội của
CPTPP............................................................................................................25
4.1. Đối với Nhà nước................................................................................25
4.2. Đối với doanh nghiệp………………………………………………..27
C. KẾT LUẬN..................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................30
2
A. LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, để phát triển hơn nữa việc hợp tác kinh tế quốc tế giữa các nước,
ngoài những hiệp định đã có một số nước vẫn tiếp tục tham gia vào những hiệp
định mới với sự mở cửa hợp tác rộng hơn, trong đó phải kể đến là Hiệp định đối
tác chiến lược Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương ( Comprehensive
and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership ). Hơn cả việc tham
gia vào Tổ chức Thương mại thế giới ( WTO), Hiệp định toàn diện và tiến bộ
đối với với quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được coi như
Hiệp định thương mại tự do ‘thế hệ mới’ đầy tham vọng và tiêu chuẩn cao; là
một thỏa thuận khu vực mở rộng, linh hoạt và tồn diện. Đặc Biệt là đối với
ngành nơng sản, phát triển xuất khẩu nông sản luôn là chiến lược phát triển xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam. Nơng sản khơng chỉ có kim ngạch xuất khẩu lớn,
mà cịn có thị trường xuất khẩu tới nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản,
Canada, Australia…. CPTPP tạo nhiều cơ hội thuận lợi đối với Nông sản như
giảm thuế, miễn thuế . Tuy nhiên, bên cạnh những triển vọng cũng như cơ hội
mà CPTPP có thể đem lại, nơng sản Việt Nam cũng sẽ gặp phải những thách
thức khơng nhỏ địi hỏi phải có những bước đi thận trọng và đúng hướng.
CPTPP đã chính thức có hiệu lực ở Việt Nam vào ngày 14/01/2019, Ngành
Nông sản được kỳ vọng sẽ hưởng lợi nhiều từ CPTPP bên cạnh những ngành
gỗ, dệt may,... Bên cạnh những cơ hội to lớn, không thế không kể đến những
thách thức từ Hiệp định, vì vậy nhóm chúng em đã chọn đề tài ‘Ảnh hưởng của
Hiệp định Đối tác tồn diện và tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP) đối với
xuất khẩu nông sản Việt Nam để tìm hiểu sâu hơn.
Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm đã cố gắng tìm hiểu các nguồn
thơng tin trên mạng và sách báo có liên quan, kết hợp với các thơng tin thu được
trong q trình học tập. Song song do những hạn chế về trình độ và khả năng
nghiên cứu, khơng tránh khỏi những sai lầm thiếu sót. Kính mong cơ giúp đỡ
chỉnh sửa bổ sung để bài làm của nhóm thêm hồn thiện.
3
Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn!
B. NỘI DUNG
I. Tổng quan về Hiệp định Đối tác toàn diện xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP)
1.1 Quá trình hình thành CPTPP
Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương gọi tắt là
Hiệp định CPTPP, là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, gồm 11
nước thành viên là: Ốt-xtrây-li-a, Bru-nây, Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Ma-laixi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Peru, Singapore và Việt Nam.
Hiệp định đã được ký kết ngày 08 tháng 3 năm 2018 tại thành phố San-tia-gơ, Chi-lê, và chính thức có hiệu lực từ ngày 30 tháng 12 năm 2018 đối với
nhóm 6 nước đầu tiên hoàn tất thủ tục phê chuẩn Hiệp định gồm Mê-hi-cô, Nhật
Bản, Xinh-ga-po, Niu Di-lân, Ca-na-đa và Ốt-xtrây-lia. Đối với Việt Nam, Hiệp
định có hiệu lực từ ngày 14 tháng 01 năm 2019.
Khởi đầu, Hiệp định TPP có 4 nước tham gia là Bru-nây, Chi-lê, Niu Dilân, Xinh-ga-po và vì vậy được gọi tắt là Hiệp định P4.
Ngày 22 tháng 9 năm 2008, Hoa Kỳ tuyên bố tham gia vào P4 nhưng đề
nghị không phải trong khuôn khổ Hiệp định P4 cũ, mà các bên sẽ đàm phán một
Hiệp định hoàn toàn mới, gọi là Hiệp định Đối tác xun Thái Bình Dương
(TPP). Ngay sau đó, các nước Ốt-xtrây-lia và Peru cũng tuyên bố tham gia TPP.
Năm 2009, Việt Nam tham gia TPP với tư cách là quan sát viên đặc biệt.
Sau 3 phiên đàm phán, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp định này nhân Hội
nghị Cấp cao APEC tổ chức từ ngày 13 đến ngày 14 tháng 11 năm 2010 tại
thành phố Yokohama (Nhật Bản).
4
Cùng với quá trình đàm phán, TPP đã tiếp nhận thêm các thành viên mới
là Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Ca-na-đa và Nhật Bản, nâng tổng số nước tham gia lên
thành 12.
Trải qua hơn 30 phiên đàm phán ở cấp kỹ thuật và hơn 10 cuộc đàm phán
ở cấp Bộ trưởng, các nước TPP đã kết thúc cơ bản toàn bộ các nội dung đàm
phán tại Hội nghị Bộ trưởng tổ chức tại Át-lan-ta, Hoa Kỳ vào tháng 10 năm
2015. Ngày 04 tháng 02 năm 2016, Bộ trưởng của 12 nước tham gia Hiệp định
TPP đã tham dự Lễ ký để xác thực lời văn Hiệp định TPP tại Auckland, Niu Dilân.
Tuy nhiên, vào ngày 30 tháng 01 năm 2017, Hoa Kỳ đã chính thức tuyên
bố rút khỏi Hiệp định TPP. Trước sự kiện này, các nước TPP cịn lại đã tích cực
nghiên cứu, trao đổi nhằm thống nhất được hướng xử lý đối với Hiệp định TPP
trong bối cảnh mới.
Tháng 11 năm 2017, tại Đà Nẵng, Việt Nam, 11 nước còn lại đã thống
nhất đổi tên Hiệp định TPP thành Hiệp định CPTPP với những nội dung cốt lõi.
Ngày 08 tháng 3 năm 2018, các Bộ trưởng của 11 nước tham gia Hiệp
định CPTPP đã chính thức ký kết Hiệp định CPTPP tại thành phố San-ti-a-gơ,
Chi-lê.
1.2. Nội dung chính của Hiệp định CPTPP
Hiệp định CPTPP gồm 07 Điều và 01 Phụ lục quy định về mối quan hệ
với Hiệp định TPP đã được 12 nước gồm Ốt-xtrây-lia, Bru-nây Đa-rút-xa-lam,
Ca-na-đa, Chi-lê, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Peru,
Singapore và Việt Nam ký ngày 06 tháng 2 năm 2016 tại Niu Di-lân; cũng như
xử lý các vấn đề khác liên quan đến tính hiệu lực, rút khỏi hay gia nhập Hiệp
định CPTPP.
5
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định TPP
(gồm 30 chương và 9 phụ lục) nhưng cho phép các nước thành viên tạm hỗn
20 nhóm nghĩa vụ để bảo đảm sự cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các
nước thành viên trong bối cảnh Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP. 20 nhóm nghĩa
vụ tạm hoãn này bao gồm 11 nghĩa vụ liên quan tới Chương Sở hữu trí tuệ, 2
nghĩa vụ liên quan đến Chương Mua sắm của Chính phủ và 7 nghĩa vụ còn lại
liên quan tới 7 Chương là Quản lý hải quan và Tạo thuận lợi Thương mại, Đầu
tư, Thương mại dịch vụ xuyên biên giới, Dịch vụ Tài chính, Viễn thơng, Mơi
trường, Minh bạch hóa và Chống tham nhũng. Tuy nhiên, toàn bộ các cam kết
về mở cửa thị trường trong Hiệp định TPP vẫn được giữ nguyên trong Hiệp định
CPTPP.
Cam kết của các nước theo một số nhóm hàng nơng sản:
Gạo
Với việc được hưởng thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực, gạo sẽ
có khả năng tiếp cận và tăng trưởng tại thị trường Ca-na-đa. Mê-hi-cô cũng là
thị trường mới, xuất khẩu khoảng 70.000 tấn/năm và sẽ được hưởng thuế 0%
vào năm thứ 11 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Riêng gạo xuất khẩu sang Nhật
Bản vẫn chịu sự điều chỉnh bởi hạn ngạch thuế quan theo cam kết của Nhật Bản
trong WTO. Tuy nhiên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và
Bộ Nông nghiệp Nhật Bản đã ký Thỏa thuận Hợp tác Phát triển Chuỗi Giá trị
Gạo nhằm cải thiện khả năng gạo Việt Nam trúng thầu hạn ngạch thuế quan
WTO của Nhật.
Cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều
Các mặt hàng này sẽ được hưởng mức thuế suất 0% ngay khi Hiệp định
có hiệu lực. Riêng Mê-hi-cơ xóa bỏ thuế cà phê hạt Robusta vào năm thứ 16 kể
từ khi Hiệp định có hiệu lực, cà phê hạt Arabica và cà phê chế biến giảm mức
6
thuế suất 50% so với mức thuế hiện hành vào năm thứ 5 và năm thứ 10 kể từ
khi Hiệp định có hiệu lực.
1.3. Sự khác nhau giữa CPTPP và TPP
Về nội dung
Hiệp định CPTPP cơ bản giữ nguyên các cam kết chính của Hiệp định
TPP, đặc biệt là các cam kết mở cửa thị trường nhưng cho phép các nước tạm
hoãn thực thi khoảng 20 nghĩa vụ trong các lĩnh vực quan trọng như sở hữu trí
tuệ, đầu tư, mua sắm chính phủ, dịch vụ tài chính v.v.
Về số lượng thành viên và dân số
Hiệp định CPTPP có 11 thành viên cịn Hiệp định TPP có 12 thành viên
gồm 11 thành viên của CPTPP và Hoa Kỳ.
Về đóng góp vào thương mại và GDP tồn cầu
Giá trị đóng góp vào GDP và thương mại toàn cầu của Hiệp định TPP
tương ứng là 40% và 30% trong khi giá trị đóng góp của Hiệp định CPTPP
tương ứng là 15% và 15%.
1.4. Vị trí và vai trị của Việt Nam trong CPTPP
Việt Nam đóng vai trị quan trọng trong việc hồn tất đàm phán và đã
chứng tỏ vai trò trong việc thúc đẩy thương mại tự do và hội nhập kinh tế khu
vực.
Đại sứ Australia tại Việt Nam Craig Chittick nhận định về “Trào lưu bảo
hộ đang nổi lên ở nhiều nơi trên thế giới đã đe doạ sẽ đảo ngược nhiều thành
tựu kinh tế trong vài thập kỷ qua. Đây là lý do tại sao kết quả các cuộc đàm
phán về CPTPP tại APEC ở Việt Nam lại rất quan trọng. Việt Nam đóng vai trị
quan trọng trong việc hồn tất các cuộc đàm phán và chứng tỏ vai trò của mình
7
trong việc thúc đẩy thương mại tự do và hội nhập kinh tế trong khu vực Ấn Độ Thái Bình Dương”.
Đối với Việt Nam, việc quyết định tham gia, đàm phán và ký kết Hiệp
định TPP trước đây và sau này là CPTPP được nhận định là đã trải qua một q
trình dài với sự chuẩn bị tích cực, chủ động và bám sát vào những định hướng,
chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ và các cấp có thẩm
quyền. Kết quả đàm phán đạt được, về cơ bản, đã đảm bảo được các lợi ích cốt
lõi của Việt Nam cũng như dành được nhiều bảo lưu, linh hoạt để thực thi Hiệp
định hiệu quả, có lợi cho đất nước.
Tham gia CPTPP với tư cách là một trong những thành viên đầu tiên giúp
Việt Nam thể hiện mạnh mẽ chủ trương chủ động hội nhập quốc tế của Đảng,
Nhà nước, khẳng định vai trò và vị thế địa - chính trị quan trọng của Việt Nam
trong khu vực Đông Nam Á cũng như Châu Á - Thái Bình Dương, thực sự nâng
cao vị thế của Việt Nam trong khối ASEAN, trong khu vực cũng như trên
trường quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình chính trị - an ninh thế giới và
khu vực đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường, tham gia
CPTPP vừa giúp Việt Nam có điều kiện nâng cao nội lực để ứng phó, vừa giúp
củng cố vị thế để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa,
đa dạng hóa đi đơi với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Hiệp định
CPTPP khi đi vào triển khai sẽ góp phần tăng cường sự đan xen lợi ích, làm sâu
sắc hơn mối quan hệ giữa ta với nhiều đối tác chiến lược là thành viên CPTPP,
tạo thế tốt hơn cho ta trong quan hệ kinh tế quốc tế và cân bằng quan hệ với các
nước lớn.
II. Tình hình chung ngành xuất khẩu nơng sản Việt Nam khi ký kết CPTPP
8
2.1. Trước khi Hiệp định có hiệu lực
Là 1 trong 11 thành viên của CPTPP, Việt Nam là quốc gia đất chật
người đơng, do đất nước trải dài có nhiều vùng khí hậu khác nhau nên có nhiều
sản phẩm nơng sản theo các mùa vụ khác nhau. Chính vì vậy, nơng sản, thủy
sản ln là một trong những nhóm mặt hàng quan trọng trong tổng thể cơ cấu
hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Trước khi tham gia Hiệp định xuyên Thái Bình Dương CPTPP, Việt
Nam khai thác xuất khẩu hầu hết các mặt hàng ở đa dạng các ngành nhằm nâng
cao thặng dư thương mại. Nhưng sau khi có CPTPP là các mặt hàng nông sản
xuất khẩu chủ lực của Viêtœ Nam vào CPTPP là gỗ, sản phẩm gỗ và thủy sản
(trong đó chủ yếu là tơm và cá tra) có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, chiếm tỷ
trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp. Hiênœ nay,
hoạt đô œng xuất khẩu nông sản của Viê œt Nam mới chỉ tâpœ trung vào môtœ số mặt
hàng chính và mơ œt số ít bạn hàng lớn trong CPTPP.
Trước khi tham gia CPTPP, điểm yếu của ngành nông sản Việt Nam là
phần lớn xuất thơ. Ngun nhân có nhiều, song ngun nhân chính là cơng
nghiệp chế biến của chúng ta chưa phát triển. Sự kết hợp giữa xuất khẩu hàng
hóa với các phương tiện vận tải cịn kém. Chi phí logistic, đặc biệt đối với vận
tải hàng tươi sống, cịn q cao và khơng đồng bộ. Bên cạnh đó, các nước nhập
khẩu cphẩm nơng sản như cà phê, hạt tiêu, hạt điều là nguyên liệu. Họ bảo hộ
khâu chế biến, khâu giá trị gia tăng cao và đánh thuế cao cho những nông sản
chế biến nhập khẩu vào nước họ. Ví dụ, cà phê rang xay, hịa tan nhập vào các
nước nhập khẩu từ 7 - 25%, thậm chí như Đức đánh thuế Excise tax lên đến 2
Euro/ kg cà phê rang.
Hơn nữa, trước đó Việt Nam phải đối mặt với rào cản thuế quan đối với
các mặt hàng nơng sản khơng chỉ ở trong nước mà cịn ở nước ngoài như New
Zealand; Canada hay AustraliaNhiều thập kỷ đã coi đồng bằng Nam bộ là bát
9
cơm của châu Á “Rice Bowl of Cụ thể, trước năm 2019, cụ thể là năm 2017 khi
Việt Nam chưa ký kết tham gia CPTPP
Về nông nghiệp, sản lượng lúa cả năm 2017 ước tính đạt 42,84 triệu tấn,
giảm 318,3 nghìn tấn so với năm 2016 do cả diện tích và năng suất đều giảm so
với năm trước. Diện tích lúa cả năm 2017 ước tính đạt 7,72 triệu ha, giảm 26,1
nghìn ha so với năm 2016; năng suất lúa cả năm đạt 55,5 tạ/ha, giảm 0,2 tạ/ha.
Kết quả sản xuất hoa màu và một số cây hàng năm: Sản lượng ngơ đạt
5,13 triệu tấn, giảm 114,6 nghìn tấn so với năm 2016 do diện tích gieo trồng
giảm 52,9 nghìn ha (năng suất ngô tăng 1,1 tạ/ha). Sản lượng khoai lang đạt
1,35 triệu tấn, tăng 81,9 nghìn tấn (diện tích tăng 1,6 nghìn ha); mía đạt 18,32
triệu tấn, tăng 1,11 triệu tấn (diện tích tăng 12,8 nghìn ha); sản lượng sắn đạt
10,34 triệu tấn, giảm 569,1 nghìn tấn (diện tích giảm 34,4 nghìn ha); sản lượng
đậu các loại đạt 162,3 nghìn tấn, giảm 5,3 nghìn tấn (diện tích giảm 10 nghìn
ha).
Sản lượng cây ăn quả năm nay đạt khá do nhiều cây trồng tăng về diện
tích và có thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định. Sản lượng cam đạt 772,6 nghìn
tấn, tăng 20,4% so với năm trước; quýt đạt 175,5 nghìn tấn, tăng 6,3%; bưởi đạt
571,3 nghìn tấn, tăng 13,4%; xồi đạt 788,2 nghìn tấn, tăng 8,3%; chuối đạt
2.066,2 nghìn tấn, tăng 5,2%; thanh long đạt 952,8 nghìn tấn, tăng 14,2%.
Chăn ni trâu, bị nhìn chung ổn định, ni gia cầm đạt khá, riêng chăn
ni lợn cịn gặp khó khăn do thị trường tiêu thụ chưa có nhiều chuyển biến, giá
thịt lợn ở mức thấp khiến quy mô đàn giảm. Theo kết quả điều tra chăn nuôi, tại
thời điểm 01/10/2017, đàn trâu cả nước có 2,5 triệu con, giảm 1,1% so với cùng
thời điểm năm trước; đàn bị có 5,7 triệu con, tăng 2,9%, đàn lợn có 27,4 triệu
con, giảm 5,7%; đàn gia cầm có 385,5 triệu con, tăng 6,6%
10
2.2 Sau khi có Hiệp định CPTPP
Cùng với Việt Nam là Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản,
Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore hiệp định có hiệu lực
14/1/2019, cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với hàng hóa của Việt Nam ngay
khi Hiệp định có hiệu lực khoảng 78 – 95% số dịng thuế và cam kết xóa bỏ
hồn tồn từ 97% đến 100% số dòng thuế nhập khẩu đối với hàng hóa có xuất
xứ từ Việt Nam, tùy theo cam kết của từng nước.
Ngày 26/6, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký Nghị định số
57/2019/NĐ-CP ban hành Biểu thuế xuất khẩu ưu đãi, Biểu thuế nhập khẩu ưu
đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ
xun Thái Bình Dương (CPTPP) giai đoạn từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 đến
hết ngày 31 tháng 12 năm 2022.
Trên toàn thế giới, CPTPP tạo ra một trong những thị trường thương mại
tự do lớn nhất thế giới, trải dài cả 3 châu lục Á, Mỹ và Đại Dương với thị
trường lên tới gần 500 triệu dân và GDP vào khoảng hơn 13.000 tỷ USD, chiếm
13% GDP tồn cầu.
Các mặt hàng nơng sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như cao su, gỗ,
cà phê, ca cao, điều, tiêu, gạo, rau quả, thủy sản… chiếm tỷ trọng cao trong tổng
kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp đều được xem là sẽ có nhiều lợi
thế.
Về cơ bản, các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của ta như nơng thủy
sản, điện, điện tử đều được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Với
mức độ cam kết như vậy, theo nghiên cứu chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, xuất khẩu của Việt Nam có thể sẽ tăng thêm 4,04% đến năm 2035.
Nhiều mặt hàng nông sản, thực phẩm đông lạnh, xơ sợi bông sẽ được
hưởng mức thuế ưu đãi 0% khi nhập khẩu từ 6 nước tham gia CPTPP.
11
Theo đó, nghị định ban hành được áp dụng với Mexico, Nhật Bản,
Singapore, New Zealand, Canada và Australia. Đây là những quốc gia mà Hiệp
định CPTPP đã có hiệu lực theo quy định về điều kiện để được hưởng thuế suất
thuế xuất khẩu ưu đãi và thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt.
Theo biểu thuế này, từ năm 2019, một số loại trái cây, gạo nếp, thịt động
vật, gia cầm sống, cá tươi hoặc ướp lạnh, xơ, sợi bông nhập khẩu từ Mexico sẽ
được hưởng mức thuế ưu đãi 0%.
Biểu thuế xuất nhập khẩu Việt Nam trong CPTPP
Các mặt hàng thịt trâu bị tươi, ướp lạnh hoặc đơng lạnh, thịt cừu, dê, các
loại sữa, trứng gia cầm, cà chua, rau đậu, đồ gỗ nội thất của các nước Australia,
Canada, Nhật bản, New Zealand, Singapore cũng sẽ giảm về 0% theo lộ trình từ
2020 – 2022.
Về thuế xuất khẩu ưu đãi thực hiện Hiệp định CPTPP, Biểu thuế xuất
khẩu ưu đãi gồm 519 dịng thuế; các mặt hàng khơng thuộc Biểu thuế xuất khẩu
ưu đãi này sẽ áp dụng thuế xuất khẩu ưu đãi 0% khi xuất khẩu sang lãnh thổ các
nước thành viên mà Hiệp định CPTPP đã có hiệu lực. Để được hưởng thuế suất
thuế xuất khẩu ưu đãi, hàng hóa xuất nhập khẩu phải có chứng từ vận tải và tờ
12
khai nhập khẩu thể hiện đích đến thuộc lãnh thổ các nước thành viên mà Hiệp
định CPTPP đã có hiệu lực.
Về biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt gồm 10.647 dòng thuế theo cấp
độ 8 số và 350 dòng thuế được chi tiết theo cấp độ 10 số và Danh mục hàng hóa
và thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt đối với xe ô tô đã qua sử dụng áp dụng hạn
ngạch thuế quan để thực hiện Hiệp định CPTPP.
Hàng hóa được nhập khẩu vào Việt Nam từ các nước thành viên của Hiệp
định CPTPP đã có hiệu lực bao gồm cả hàng hóa từ khu phi thuế quan nhập
khẩu vào thị trường trong nước; được vận chuyển vào Việt Nam từ các nước
thành viên của Hiệp định CPTPP đã có hiệu lực và đáp ứng các quy định về
xuất xứ hàng hóa và có chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hoá theo quy định
của Hiệp định CPTPP.
Về cơ bản, những cam kết xóa bỏ thuế quan mạnh mẽ của CPTPP đã góp
phần tạo ra những tác động tích cực trong việc thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu.
Hiê œp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mở
ra “sân chơi” với quy mơ thị trường chiếm khoảng 13,5% GDP toàn cầu và bao
trùm thị trường gần 500 triệu dân, mang lại những cơ hội lớn đi kèm thách thức
cho xuất khẩu (XK) nông sản Việt Nam.
Ví dụ cụ thể, tính riêng 10 tháng năm 2019, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang thị trường các thành viên đã thực thi CPTPP có tốc độ tăng trưởng
dương (trừ Australia giảm 13% do ảnh hưởng từ việc giảm mạnh xuất khẩu dầu
thô sang thị trường này).
Tăng trưởng xuất khẩu tập trung vào các mặt hàng mà Việt Nam có thế
mạnh xuất khẩu như điện thoại các loại và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ
phụ tùng khác; hàng thủy sản; hàng dệt may.
13
Đáng chú ý, một số thị trường mới trong CPTPP có mức tăng tốt ngay sau
khi Hiệp định có hiệu lực là Canada và Mexico. Cụ thể, 10 tháng năm 2019,
xuất khẩu sang Canada tăng 28,6%; xuất khẩu sang Mexico tăng 29%...
Nhật Bản tuy không phải là một thị trường mới có Hiệp định Thương mại
tự do (FTA) với Việt Nam, nhưng nhờ tác động của CPTPP, xuất khẩu cũng tăng
8,9% trong 10 tháng năm 2019.
Do đó, cán cân thương mại đến từ hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt
Nam và các nước đã thực thi CPTPP là thặng dư 3,5 tỷ USD, tăng 161% so với
cùng kỳ năm 2018.
Dự kiến, với mức độ cam kết sâu rộng trong Hiệp định CTPPP, trong bối
cảnh các điều kiện kinh tế căn bản được giữ ngun, Ngân hàng Thế giới (WB)
tính tốn xuất khẩu của Việt Nam có thể sẽ tăng thêm 4,2%; và với giả định có
sự tăng trưởng về năng suất, mức tăng xuất khẩu sẽ là 6,9% vào năm 2030.
"Bên cạnh đó, việc có quan hệ FTA với các nước CPTPP sẽ giúp nơng
sản Việt Nam có cơ hội cơ cấu lại thị trường xuất nhập khẩu theo hướng cân
bằng hơn (hiện đang dựa quá nhiều vào các thị trường tại Đông Á như Trung
Quốc, Hàn Quốc và một số nước ASEAN). Đây là yếu tố then chốt giúp Việt
Nam nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế", Bộ trưởng Trần Tuấn Anh
nhấn mạnh.
=> Việt Nam bước đầu tận dụng được hiệu quả các cam kết trong CPTPP
để thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nông sản và tham gia
chuỗi cung ứng toàn cầu cũng tham gia vào các thị trường tiêu thụ lớn trên thế
giới
2.3. Đánh giá quy mô xuất khẩu gạo của Việt Nam ở một số nước chủ lực
trong khn khổ Hiệp định Tồn bộ và Tiến bộ xun Thái Bình Dương
( CPTPP)
14
2.3.1. Nhật Bản
Nhật Bản là đối tác nhập khẩu gạo trực tiếp từ Viêt Nam, nhưng năm gần
đây tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu gạo sang Nhật Bản ngày càng gia tăng.
Theo Bộ Công Thương, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế
giới nhưng chỉ xuất sang Nhật được 20 triệu USD, chiếm khoảng 3% kim ngạch
nhập gạo của Nhật Bản, không tương xứng với quan hệ kinh tế-thương mại giữa
hai nước. Tuy vậy, sự khởi đầu này cũng đáng mừng vì sau nhiều năm, gạo Việt
Nam đã quay trở lại thị trường Nhật do vướng mắc lớn nhất là Luật Vệ sinh an
toàn thực phẩm của Nhật Bản rất nghiêm ngặt.
Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản khuyến cáo để đẩy mạnh xuất khẩu
các mặt hàng nông sản, nhất là đối với mặt hàng gạo sang các thị trường khó
tính như Nhật Bản, các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu tâm nâng cao chất
lượng gạo bằng giống gạo ngon, phát triển vùng sản xuất nguyên liệu chất
lượng cao hoặc có thể xuất khẩu chế phẩm từ gạo như tinh bột hay bánh quy
bột.
Nhu cầu về mặt hàng nông sản của Nhật Bản ngày càng tăng do tỷ lệ
nông nghiệp ngày càng nhỏ đi trong cơ cấu GDP của Nhật, từ 13% năm 1960
nay chỉ xuống dưới 1%. Do vậy tỷ lệ đảm bảo tự cấp lương thực của Nhật giảm
trong nhiều năm qua. Gần đây, Nhật Bản cũng nới lỏng tiêu chí về dự kháng
sinh đối với gạo nhằm tăng lượng nhập khẩu gạo so với trước đây. Tuy nhiên
việc nhập khẩu gạo vào thị trường Nhật Bản nhiều doanh nghiệp của Việt Nam
vẫn còn lúng túng và gặp nhiều khó khăn khi thâm nhập vào thị trường này
trong khi đó Trung Quốc là quốc gia cạnh tranh với Việt Nam.
Mặt khác thị trường Nhật Bản cũng là một thị trường khó tính cho tất cả
mặt hàng, vì vậy khiến nhiều mặt hàng của Việt Nam bị cấm. Vì vậy cần có giải
15
pháp của nhà tư vấn xuất nhập khẩu am hiểu về thị trường Nhật Bản để xuất
khẩu lưu thông sản phẩm gạo một cách dễ dàng.
2.3.2. Malaysia
Số liệu thống kê mới nhất cho thấy trong 5 tháng đầu năm 2018, kim
ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam sang Malaysia đạt gần 122,4 triệu USD, tăng
177% so với cùng kỳ năm 2017. Với sự tăng trưởng ấn tượng trên, gạo đứng thứ
4 trong số 5 mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Malaysia trong 5 tháng đầu năm
đạt kim ngạch trên 100 triệu USD, gồm: điện thoại và linh kiện; máy vi tính, sản
phẩm điện tử và linh kiện; sắt thép các loại; gạo; thủy tinh và các sản phẩm từ
thủy tinh.
Sở dĩ xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Malaysia tăng trưởng
mạnh là do nguồn cung từ các nước khác giảm, các doanh nghiệp Việt Nam đẩy
mạnh xuất khẩu các sản phẩm gạo thơm, gạo dẻo… mà Việt Nam có lợi thế về
giá. Bên cạnh đó, các hoạt động xúc tiến thương mại mặt hàng gạo, bao gồm
tham gia các hội chợ, triển lãm lớn về nông sản, thực phẩm; các chương trình
hội thảo, kết nối kinh doanh với doanh nghiệp Malaysia cũng được tăng cường
với sự hỗ trợ của cơ quan thương vụ. Cụ thể gần đây, cơ quan thương vụ đã hỗ
trợ Hapro phối hợp với công ty ZNTEC của Malaysia xây dựng, quảng bá
thương hiệu gạo Hapro bán độc quyền tại các bang Sabab, Sarawak… đồng thời
cũng đang phối hợp với Lộc Trời xây dựng thương hiệu gạo thơm Jasmine Lộc
Trời trên thị trường Malaysia.
Với những nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và sự hỗ trợ của
Bộ Công Thương trong việc đẩy mạnh hoạt động quảng bá, xúc tiến thương
mại, thời gian tới gạo Việt Nam sẽ ngày càng có vị trí vững vàng và có thương
hiệu được ghi nhận tại thị trường Malaysia.
16
Trong 5 tháng đầu năm 2018 hàng hóa của Việt Nam xuất sang Malasyia
đều có kim ngạch tăng trưởng, trong đó gạo, sắt thép, xăng dầu, gỗ và sản phẩm
là những nhóm hàng có tốc độ tăng mạnh vượt trội.
Malaysia hiện là đối tác thương mại lớn thứ 8 của Việt Nam, chiếm thị
phần 2,4%, sau Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Đài
Loan (Trung Quốc) và Thái Lan.
Nhìn chung, 5 tháng đầu năm 2018 xuất khẩu sang Malaysia các mặt
hàng đều có tốc độ tăng trưởng chiếm 75% và ngược lại nhóm hàng với tốc độ
suy giảm chỉ chiếm 25%.
Trong nhóm hàng với kim ngạch tăng trưởng phải kể đến gạo, sắt thép,
xăng dầu, gỗ và sản phẩm có tốc độ tăng mạnh vượt trội so với các nhóm hàng
khác.
2.3.3. Australia
Người dân Australia tiêu thụ khoảng 300.000 tấn gạo mỗi năm, trong đó
nhập khẩu chiếm khoảng một nửa tổng lượng tiêu thụ - trung bình là 173.000
tấn giai đoạn 2009-2010 và 2018-2019.
Hầu hết gạo nhập khẩu là dòng gạo hạt dài đến từ các quốc gia châu Á,
như Việt Nam, Thái Lan, Pakistan và Ấn Độ. Các nguồn nhập khẩu này cung
cấp cho Australia một khối lượng gạo ổn định hơn so với nguồn sản xuất nội địa
dễ bị thay đổi. Sự không ổn định của hoạt động sản xuất gạo nội địa Australia,
đặc biệt là trong niên vụ 2019-2020, cho thấy nhu cầu chủ động gia tăng nhập
khẩu.
Một dấu ấn khác về xuất khẩu các mặt hàng nơng sản của Việt Nam có
thể kể đến trong hoạt động xuất khẩu nông sản Việt Nam sang Australia là mặt
hàng gạo. Australia đang có xu hướng giảm mạnh nhập khẩu gạo từ nước ngoài.
17
Thêm vào đó, dịch COVID-19 khiến cho hoạt động phân phối, quảng bá
gạo tại nhiều địa phương của Australia bị ách tắc, trong khi chi phí vận chuyển
tăng cao.
Mặc dù vậy, theo thông tin từ Thương vụ, gạo Việt Nam xuất khẩu sang
thị trường Australia vẫn tăng trưởng ấn tượng. Kim ngạch xuất khẩu gạo trong
giai đoạn từ tháng 1-7/2021 cao hơn 37,03% so với cùng kỳ năm trước.
Để quảng bá mạnh hơn nữa gạo Việt Nam, từ ngày 18/8-27/9, Thương vụ
đã phối hợp với các nhà nhập khẩu tại Australia tổ chức chương trình xúc tiến
mời dùng thử gạo, có tên là “Việt Nam - vùng đất của gạo ngon nhất thế
giới.”Chương trình này được thực hiện tại ba thành phố lớn là Melbourne (bang
Victoria), Perth (bang Tây Australia) và Sydney (bang New South Wales), trong
đó có chuỗi các sự kiện, như mời dùng thử gạo Việt Nam, tặng gạo cho 10.000
khách hàng dùng thử, mời ăn cơm Việt Nam…
Ngoài ra, một số triển lãm trực tuyến gạo Việt Nam cũng sẽ được tổ chức,
trong khuôn khổ triển lãm trực tuyến Nguồn hàng Việt Nam ngành nông thủy
sản, để kết nối giao thương.
2.3.4. Singapore
Tiềm năng và nhu cầu xuất khẩu các sản phẩm gạo chất lượng cao của
Việt Nam, đặc biệt là gạo thơm sang Singapore còn khá lớn.
Nhằm thúc đẩy hơn nữa xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị
trường Singapore, trong đó có mặt hàng gạo, Cục Xuất Nhập khẩu, Bộ Công
Thương đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Hiệp hội
Lương thực Việt Nam, Thương vụ Việt Nam tại Singapore tổ chức Đoàn xúc
tiến thương mại gạo cùng với 8 doanh nghiệp hàng đầu sang Singapore vào đầu
tháng 8.
18
Riêng đối với mặt hàng gạo, hiện Việt Nam xuất khẩu sang Singapore
chiếm 20% thị phần tại nước này (với kim ngạch xuất khẩu đạt gần 80 triệu
SGD, 80.000-90.000 tấn/năm), là nhà xuất khẩu gạo lớn thứ 3 vào Singapore
chỉ sau Ấn Độ và Thái lan.
Các loại gạo nhập khẩu chủ yếu của Singapopre hiện nay là gạo trắng,
gạo thơm, gạo Thái Hom Mali, gạo lứt hoặc gạo nâu, gạo nếp, gạo đồ và gạo
tấm; trong đó Việt Nam hiện xuất khẩu sang Singapore chủ yếu là gạo trắng
chiếm khoảng 81%, gạo nếp chiếm 14% và gạo tấm 7%.
Hiện phía Singapore cho biết vẫn có nhu cầu và tiếp tục đa dạng hóa
nguồn nhập khẩu hàng nơng sản, thực phẩm từ nhiều quốc gia trên thế giới vì
nước này hàng năm phải nhập khẩu đến hơn 90% lương thực, thực phẩm để đáp
ứng nhu cầu trong nước.
Do vậy, để có thể xuất khẩu nhiều hơn nữa và đưa trực tiếp mặt hàng gạo
của Việt Nam vào hệ thống siêu thị Singapore thì vấn đề quan trọng nhất là Việt
Nam cần chú trọng đến việc xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam, đảm bảo yêu
cầu về chất lượng và giá cả cạnh tranh.
Ngồi ra, phía Singapore cho biết sẵn sàng hợp tác với Bộ Công Thương,
Thương vụ Đại sứ quán Việt Nam tại Singapore tổ chức Hội chợ hay Tuần hàng
Việt Nam tại hệ thống các siêu thị vào năm tới để góp phần tuyên truyền, quảng
bá các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam có chất lượng cao đến người tiêu
dùng Singapore.
III. Ảnh hưởng của CPTPP đối với xuất khẩu nơng sản Việt Nam
3.1 Cơ hội
Lợi ích về xuất khẩu
19
Tham gia CPTPP là mô œt cơ hô œi tốt giúp Viêtœ Nam mở rô œng xuất khẩu
sang các thị trường lớn, như: Nhật bản, Mexico, Australia và Canada cũng như
đa dạng hóa các mặt hàng nơng sản xuất khẩu.
Cụ thể với hiệp định CPTPP là một thị trường lớn với hơn 40 triệu dân,
GDP chiếm trên 13,5% GDP toàn cầu với tổng kim ngạch thương mại hơn
10.000 tỷ đồng. Việc Hiệp định CPTPP có hiệu lực, các mặt hàng thủy sản được
hưởng thuế suất 0% khi xuất khẩu một số mặt hàng: Cá tuyết, surimi, tôm,
cua… vào thị trường Canada và Nhật Bản. Sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực,
mặt hàng thủy sản cá tra, cá basa xuất khẩu lớn sang Mexico. Riêng mặt hàng
gạo xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% ngay khi CPTPP có hiệu lực, nhờ đó
gạo sẽ có khả năng tiếp cận và tăng trưởng tại thị trường Canada và thị trường
mới là Mexico.
Ngoài ra, thị trường Peru cam kết xóa bỏ thuế quan các mặt hàng nông
sản vốn là thế mạnh của Việt Nam như: Hạt điều, chè, tiêu, rau quả, một số loại
cà phê; Brunei xóa bỏ thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực đối với thịt gà, lợn và
sản phẩm chế biến, sản phẩm chăn nuôi khác sơ chế và chế biến… Nông, lâm,
sản khi xuất khẩu vào các nước trong khối CPTPP với thuế xuất phổ biến từ 510% hiện nay cũng được hạ xuống 0%, trước mắt là xuất khẩu sang Canada và
Nhật Bản. Đây được đánh giá là cơ hội lớn cho các mặt hàng nông sản xuất
khẩu của Việt Nam.
Việc các nước, trong đó có các thị trường lớn như Nhật Bản và Ca-na-đa
giảm thuế nhập khẩu về 0% cho hàng hóa của ta sẽ tạo ra những tác động tích
cực trong việc thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu. Theo đó, doanh nghiệp Việt Nam
khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước thành viên Hiệp định CPTPP
sẽ được hưởng cam kết cắt giảm thuế quan rất ưu đãi.
Việc có quan hệ FTA với các nước CPTPP sẽ giúp Việt Nam có cơ hội cơ
cấu lại thị trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn. Theo một nghiên
20
cứu của Ngân hàng Thế giới được công bố vào tháng 3 năm 2018, dự báo đến
năm 2030, xuất khẩu của Việt Nam sang các nước CPTPP sẽ tăng từ 54 tỷ đô-la
Mỹ lên 80 tỷ đô-la Mỹ, chiếm 25% tổng lượng xuất khẩu.
Lợi ích về việc tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu
Các nước CPTPP chiếm 13,5% GDP toàn cầu với tổng kim ngạch thương
mại hơn 10.000 tỷ USD, lại bao gồm các thị trường lớn như Nhật Bản, Ca-nađa, Ốt-xtrây-lia sẽ mở ra nhiều cơ hội khi chuỗi cung ứng mới hình thành. Tham
gia CPTPP sẽ giúp xu hướng này phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn, là điều
kiện quan trọng để nâng tầm trình độ phát triển của nền kinh tế, tăng năng suất
lao động, giảm dần việc gia công lắp ráp, tham gia vào các cơng đoạn sản xuất
có giá trị gia tăng cao hơn, từ đó bước sang giai đoạn phát triển các ngành điện
tử, công nghệ cao, sản phẩm nông nghiệp xanh... Đây là cơ hội rất lớn để nâng
tầm nền kinh tế Việt Nam trong 5 - 10 năm tới.
Đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu đầu vào
Có lợi thế nhờ các cam kết cắt giảm thuế quan, đồng thời sẽ được đa dạng
hóa nguồn cung nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp cũng như nâng
cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa nhờ cắt giảm
thuế nhập khẩu của Việt Nam
Lợi ích về việc làm, thu nhập
Tham gia CPTPP sẽ tạo ra các cơ hội giúp nâng cao tốc độ tăng trưởng. Vì
vậy, về mặt xã hội, hệ quả là sẽ tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và
góp phần xố đói giảm nghèo. Theo kết quả nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, CPTPP có thể giúp tổng số việc làm tăng bình quân mỗi năm khoảng 20.000 26.000 lao động. Đối với lợi ích về xóa đói giảm nghèo, theo nghiên cứu của
Ngân hàng Thế giới, đến năm 2030, CPTPP dự kiến sẽ giúp giảm 0,6 triệu người
21
nghèo ở mức chuẩn nghèo 5,5 đô-la Mỹ/ngày. Tất cả các nhóm thu nhập dự kiến
sẽ được hưởng lợi.
Phát triển khoa học – công nghệ và kỹ năng lao động
Mở rô œng thương mại là hoạt đô œng đầu tư xuyên quốc gia đi kèm với khoa
học công nghê œ và nâng cao trình đơ œ kỹ năng lao đơ œng. Khi đã ký kết CPTPP, một
số nước khơng có lợi thế về nông nghiệp, hàng rào bảo hộ nông nghiệp giảm bớt
thì có thể họ sẽ chuyển nguồn đầu tư sang Việt Nam.
Khi có đầu tư nước ngồi, bên cạnh việc tạo thêm việc làm, tăng thu nhập,
điều quan trọng nhất là nền nông nghiệp Việt Nam sẽ hấp thụ được khoa học kỹ
thuật mới, thay đổi được cách làm truyền thống, nâng cao hiệu quả. dưới áp lực
cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ tiếp cận tốt hơn với công nghệ, cải thiện tối đa
năng lực quản lý và khả năng tự đổi mới của mình
3.2. Một số thách thức khi tham gia CPTPP
Mặc dù đã có nhiều cải thiện thời gian qua, nhưng nhiều mặt hàng nông sản
xuất khẩu vẫn cịn chủ yếu dưới dạng thơ, cạnh tranh về giá ở phân khúc thấp;
Những hạn chế này đến từ nội tại ngành sản xuất nông nghiệp Việt Nam tạo nên
những thách thức không nhỏ đối với mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt
Nam vào thị trường các nước trong CPTPP .
Thứ nhất, một trong những thách thức lớn đối với xuất khẩu nông sản Việt
Nam là khi CPTPP được ký kết, các nước tham gia có thể giảm thuế suất nhưng
họ sẽ nâng cao các hàng rào phi thuế quan nghiêm ngặt hơn. Để xâm nhâpœ và
chiếm lĩnh được những thị trường giá trị cao và quy mô lớn như Nhât œ Bản, những
sản phẩm Viêtœ Nam đang có lợi thế xuất khẩu, như: Gạo, cà phê, tiêu, điều, thủy
sản… cần vượt qua được các hàng rào kỹ thuâtœ (TBT) và các biênœ pháp kiểm dịch
vê œ sinh, an toàn thực phẩm (SPS) để chiếm lĩnh được các thị trường này. Nếu
22
không, dù thuế suất nhâ œp khẩu của các thị trường này bằng 0% thì sản phẩm nơng
nghiê œp Viê œt Nam cũng không thể tiếp câ œn được. Bên cạnh đó, các quy định khác
của Hiệp định CPTPP về bảo vệ bản quyền giống, thuốc bảo vệ thực vật, phân
bón, thuốc thú y, vấn đề lao đơng,
œ nguồn gốc xuất xứ… cũng rất chặt chẽ.
Tại Việt Nam, phương thức nuôi trồng và thực tiễn sản xuất vẫn chưa phù
hợp để đáp ứng được các biện pháp kiểm dịch nghiêm ngặt. Để đáp ứng được các
tiêu chuẩn, tuân thủ các quy trình theo chuẩn quốc tế địi hỏi các doanh nghiệp
phải điều chỉnh hoạt động sản xuất hoặc phương pháp sản xuất, áp dụng công
nghệ tiên tiến..., dẫn tới chi phí tuân thủ bị gia tăng, tạo áp lực về tài chính cho
các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, để hàng nơng sản Việt Nam có thể thâm
nhập sâu vào thị trường , vấn đề đặt ra là một mặt Việt Nam cần phát triển sản
xuất hàng nông sản xuất khẩu chú trọng gắn liền với tiêu chuẩn về chất lượng, an
toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn khắt khe của cptpp; mặt khác, ở góc độ
quốc gia cần tiếp tục thúc đẩy quan hệ thương mại, đàm phán để tránh việc bị các
nước áp các rào cản kỹ thuật khơng hợp lý. Bên cạnh đó, người nơng dân và
doanh nghiệp phải đưa công nghệ truy xuất nguồn gốc vào từng khâu trong q
trình sản xuất nơng sản xuất khẩu.
Thứ hai, khó khăn từ phía các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc tiếp cận
thị trường nông sản. Nguyên nhân của thực trạng này là do năng lực nội tại về
vốn, con người,… của các doanh nghiệp xuất khẩu còn hạn chế. Các nhà sản xuất,
xuất khẩu cũng thường thiếu thông tin và hướng dẫn về những quy định của các
nước trong CPTPP trong khi các quy định này thường xuyên được thay đổi. Từ
đó, thời gian các doanh nghiệp có được để đáp ứng các yêu cầu về các biện pháp
vệ sinh và kiểm dịch đã bị giảm đáng kể, dẫn đến tăng chi phí hoặc có thể hạn chế
khả năng xuất khẩu. Bên cạnh đó, hoạt động xúc tiến thương mại sang thị trường
cũng chưa triển khai được tại tất cả các nước thành viên và phần nào chưa đi sâu
vào đối tượng thụ hưởng. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải nâng cao năng lực của
23
các doanh nghiệp xuất khẩu, đồng thời thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương
mại đối với hàng nông sản tại thị trường này.
Thứ ba, vấn đề sở hữu trí tuệ chưa được nhiều doanh nghiệp quan tâm đúng
mức, trong khi đó, đây là nội dung được nhiều nước đặt lên hàng đầu. Tương tự
như vậy, một số doanh nghiệp mới chỉ chú trọng tới số lượng xuất khẩu, chưa
thực sự quan tâm đến xây dựng thương hiệu. Cụ thể, thống kê của Cục Sở hữu
công nghiệp cho thấy, hiện mới chỉ có khoảng 15% trong hơn 90.000 thương hiệu
hàng hóa được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam là của các doanh nghiệp trong nước
và có đến hơn 80% hàng nông sản của ta được bán ra thị trường thế giới thơng
qua các thương hiệu nước ngồi.Tương tự, ở trong nước, cũng có khoảng 80% sản
phẩm nơng sản được tiêu thụ mà khơng có nhãn hiệu. Đây là bất lợi lớn, khiến
sức cạnh tranh của các loại nông sản Việt trên thị trường cả trong và ngồi nước
cịn yếu và chịu nhiều thiệt thịi. Vì vậy, việc quan tâm xây dựng và phát triển
thương hiệu đã và đang là vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay đối với các mặt hàng
nơng sản của nước ta. Ngồi ra, xuất khẩu nơng sản của Việt Nam cịn gặp khó
khăn do chi phí logistics trong xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nơng sản nói
riêng cịn cao và chịu cạnh tranh mạnh mẽ từ nhiều quốc gia trong khu vực như
Nhật Bản , canada, Indonesia,...
3.3. Trong bối cảnh đại dịch covid-19 hiện nay
Chia sẻ kết quả nghiên cứu Cơ hội và thách thức đối với thương mại nông
sản Việt Nam trong bối cảnh dịch COVID-19, xuất khẩu gạo tăng do nhu cầu
tăng, dẫn tới giá tăng và kim ngạch tăng; xuất khẩu thủy sản và trái cây giảm do
chuỗi cung ứng đứt gãy, vận chuyển gián đoạn, chi phí cao,… Thương mại nông
sản tuy giảm nhưng thấp hơn mức giảm của thương mại hàng hóa chung, bởi
lương thực thực phẩm là mặt hàng thiết yếu.
Với mặt hàng thủy sản, xuất khẩu thủy sản năm 2020 giảm 1,9% so với
năm 2019. Tác động lớn nhất của đại dịch COVID-19 đối với xuất khẩu thủy
24
sản là chi phí đầu vào tăng, thiếu lao động trầm trọng do giãn cách xã hội, công
suất sản xuất vì thế giảm mạnh.
Tuy nhiên, đến quý I/2021, xuất khẩu thủy sản có dấu hiệu tăng trưởng,
với mức tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2020. Nguyên nhân được cho là kim
ngạch xuất khẩu tăng mạnh ở hầu hết các sản phẩm và thị trường.
Một số thị trường nhập khẩu như Australia, Canada, Nhật Bản, Malaysia,
Nhật Bản tiếp tục tăng nhập khẩu; các nước khu vực châu Á và một số nước sản
xuất cạnh tranh như Ấn Độ, Thái Lan vẫn đang đối phó với dịch COVID-19
nghiêm trọng. Từ đó, thêm cơ hội cho Việt Nam đẩy mạnh sản xuất - xuất khẩu
giành thị phần. Tuy nhiên, xuất khẩu sẽ vẫn bị tác động bởi các gói cước vận
chuyển và các chi phí đầu vào tăng ngồi khả năng kiểm soát.
Về vấn đề sản xuất và thương mại rau quả
Mặc dù rau quả Việt Nam từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ mặc dù bị tác
động của dịch khiến giá trị xuất khẩu mặt hàng này giảm, sự sụt giảm không lớn
và chỉ trong thời gian ngắn. Trong sự sụt giảm đó vẫn có những mặt hàng tăng
trưởng như sản phẩm chế biến và sự gia tăng về chủng loại. Năm 2021, sản
xuất, tiêu thụ rau quả của Việt Nam sẽ khôi phục và tiếp tục đà tăng trưởng
mạnh.
Trước những khó khăn của doanh nghiệp trong bối cảnh đại dịch
COVID-19, các doanh nghiệp Việt Nam mong muốn tiếp tục thực hiện các giải
pháp hỗ trợ doanh nghiệp theo hướng dễ tiếp cận và hiệu quả hơn như miễn
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; giãn thuế, gia hạn nộp thuế; giảm hoặc gia
hạn khoản đóng góp bảo hiểm xã hội, phí cơng đồn.
IV. Giải pháp thúc đấy nơng sản Việt Nam nhằm khai khác cơ hội của CPTPP
4.1. Đối với Nhà nước
25