HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015)
CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC) – CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM
THE ASEAN ECONOMIC COMMUNITY (AEC) – OPPORTUNITIES AND
CHALLENGES FOR AGRICULTURAL EXPORT ENTERPRISES IN VIETNAM
ThS. Lê Thị Hồng Nghĩa; ThS. Đào Thị Ly Sa
Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kontum
TÓM TẮT
Việc gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ mang lại một sân chơi mới và công bằng cho các doanh
nghiệp Việt Nam trong đó bao gồm cả doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. Bài viết tập trung phân tích tình hình sản
xuất và xuất khẩu sản phẩm nơng nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua để nhìn nhận rõ nét những mặt được và
hạn chế về sản phẩm nông nghiệp; làm rõ cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản khi Việt
Nam gia nhập AEC. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp chính nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách
thức góp phần tăng khối lượng và kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: AEC, xuất khẩu, nơng sản, cơ hội, thách thức.
ABSTRACT
Joining ASEAN Economic Community (AEC) will bring a new and level playing field for Vietnamese enterprises,
including exporters of agricultural products. This paper focuses on analyzing the current situation of agricultural
products’ production and export in Vietnam to recognize the pluses and minuses of agricultural products; clarifying
the opportunities and challenges for agricultural export enterprises when Vietnam engages in AEC. A number of
solutions is proposed to help Vietnam take advantage of opportunities as well as overcome challenges and hence be
able to increase the volume and value of agricultural export in the near future.
Key words: AEC, export, agriculture, opportunities, challenges.
1. Đặt vấn đề
AEC là một bộ phận của Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN 2009 - 2015, với 4 thành tố chính
gồm: một thị trƣờng chung và cơ sở sản xuất thống nhất; một khu vực kinh tế có sức cạnh tranh; phát
triển kinh tế đồng đều; hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Thời điểm Cộng đồng kinh tế ASEAN hình
thành đã sắp tới nhƣng mức độ sẵn sàng tham gia của mỗi nƣớc không giống nhau bởi chênh lệch về trình
độ phát triển; sự chủ động và tích cực của các chính phủ, các hiệp hội và các doanh nghiệp ở các nƣớc
cũng khác nhau.
Là một đất nƣớc có thế mạnh về nơng nghiệp, khi có sự giao thƣơng thì ranh giới của các quốc gia
sẽ bị xóa nhòa và nhƣ vậy sẽ tạo ra hiệu quả kinh tế lớn hơn. Các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam sẽ có
nhiều cơ hội bƣớc chân sang các nƣớc và ngƣợc lại, nông sản của các nƣớc cũng sẽ rộng cửa vào Việt
Nam. Đi kèm những cơ hội là thách thức về một thị trƣờng hơn 600 triệu dân, với thị trƣờng rộng mở
nhƣng ràng buộc về các tiêu chuẩn và sự cạnh tranh cơng bằng thì liệu doanh nghiệp sản xuất hàng nơng
sản Việt Nam đã có đƣợc gì và sẽ phải chuẩn bị những gì cho lộ trình hội nhập chỉ còn đếm theo ngày.
2. Giới thiệu về cộng đồng kinh tế ASIAN (AEC)
ASEAN – Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – đƣợc thành lập ngày 08/08/1967 tại Bangkok,
Thái Lan trên cơ sở Tuyên bố ASEAN (hay Tuyên bố Bangkok) đƣợc ký kết bởi các thành viên sáng lập
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Tiếp đó, sự gia nhập của Vƣơng quốc Brunei
vào ngày 07/01/1984, Việt Nam ngày 28/07/1995, Lào và Myanmar ngày 23/07/1997, sau đó là
Cambodia ngày 30/04/1999 nâng tổng số thành viên ASEAN hiện tại lên đến con số 10.
181
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Năm 2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đã hoạch định tầm nhìn ASEAN 2020 bao gồm ba trụ cột
chính là cộng đồng an ninh – chính trị ASEAN (APSC), cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và cộng đồng
văn hóa – xã hội ASEAN (ASCC).
Ý tƣởng cho việc thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đƣợc đƣa ra lần đầu trong Hội nghị
thƣợng đỉnh khơng chính thức các nƣớc ASEAN lần thứ 2 tại Kuala Lumpur vào năm 1997. Tại đây, các
nhà lãnh đạo ASEAN đã thơng qua Tầm nhìn ASEAN 2020 về phát triển kinh tế và hội nhập khu vực,
hƣớng tới phát triển đồng đều và bền vững. Tầm nhìn đã đƣợc cụ thể hóa thơng qua tun bố của các nhà
lãnh đạo ASEAN trong Hiệp định ASEAN II hay Hiệp định Bali II ngày 7 tháng 10 năm 2003. Tại Hội
nghị Thƣợng đỉnh ASEAN lần thứ 12 tại Cebu vào ngày 9 tháng 1 năm 2007, các nhà lãnh đạo cam kết sẽ
tiến tới thành lập một Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Tuyên bố Hua Hin Cha-am về Lộ trình xây
dựng Cộng đồng ASEAN (2009-2015) cũng đã đƣợc ký kết ở Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 14 tại
Thái Lan năm 2009.
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đƣợc thành lập nhằm mục đích tạo dựng một thị trƣờng và cơ
sở sản xuất thống nhất cho các quốc gia thành viên ASEAN, thúc đẩy dòng chu chuyển tự do của hàng
hóa, dịch vụ, đầu tƣ, lao động có tay nghề trong ASEAN. Mục tiêu của AEC là thúc đẩy phát triển kinh tế
một cách công bằng, thiết lập khu vực kinh tế có năng lực cạnh tranh cao mà với năng lực cạnh tranh này,
ASEAN có thể hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Một thị trƣờng đơn nhất và một không gian sản
xuất chung.
3. Tổng quan tình hình sản xuất và xuất khẩu nơng sản Việt Nam
Tăng trƣởng nơng nghiệp đóng vai trị quan trọng đối với nền kinh tế nƣớc ta. Với xu thế hội nhập
hóa thƣơng mại đang diễn ra mạnh mẽ trong mỗi khu vực và trên toàn thế giới, nông nghiệp Việt Nam
đang đứng trƣớc cánh cửa mở rộng của thị trƣờng chung, nơi mà đòi hỏi sản xuất nông nghiệp phải tạo ra
những nông sản giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên với thực trạng sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu hàng nông
sản của Việt Nam hiện nay thì vấn đề nghiên cứu để nhìn nhận và đƣa ra các giải pháp để chúng ta có thể
theo kịp và không bị mất sân chơi khi gia nhập là cần thiết. Trong bài viết này, nông sản đƣợc xác định
theo Hiệp định Nông nghiệp của WTO bao gồm: Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản nhƣ lúa gạo, lúa mỳ,
bột mỳ, sữa, động vật sống, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chè, rau quả tƣơi…; Các sản phẩm phái sinh nhƣ
bánh mỳ, bơ, dầu ăn, thịt…; Các sản phẩm đƣợc chế biến từ sản phẩm nông nghiệp nhƣ bánh kẹo, sản
phẩm từ sữa, xúc xích, nƣớc ngọt, rƣợu, bia, thuốc lá, bông xơ, da động vật thô…Như vậy, theo WTO thì nơng
sản khơng bao gồm các sản phẩm thuộc lĩnh vực thuỷ sản, lâm nghiệp và diêm nghiệp.
3.1. Tình hình sản xuất nơng sản
Nhìn nhận ở góc độ cơ cấu kinh tế phân chia theo ngành, những năm qua, nền kinh tế Việt Nam
duy trì khá ổn định cơ cấu kinh tế với 18-20% GDP thuộc về khu vực nơng nghiệp, cơng nghiệp - xây
dựng đóng góp khoảng trên 38% và phần còn lại từ 42-43% do dịch vụ mang lại. Tuy nhiên, cơ cấu lao
động không hợp lý khi tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp chiếm khoảng 47% tổng việc làm; khu vực
công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm tỷ trọng lần lƣợt khoảng 21% và 32% (Bảng 1). Điều này chứng tỏ,
cơ cấu lao động chuyển dịch rất chậm chạp và vẫn tập trung chủ yếu ở ngành nơng nghiệp trong khi tỷ
trọng đóng góp của ngành này thấp nhất trong các ngành. Có thể nói, năng suất lao động nơng nghiệp
thấp, chủ yếu lao động tay chân, chƣa thực hiện cơng nghiệp hóa để mang lại giá trị kinh tế cao.
Bảng 1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo ngành (%)
182
HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015)
(Nguồn:Niên giám thống kê)
Nhìn nhận ở góc độ riêng đối với nhóm ngành nơng sản bao gồm chăn ni, trồng trọt, dịch vụ
nơng nghiệp qua các năm có sự dao động nhẹ nhƣng đóng vai trị quan trọng nhất trong nông nghiệp Việt
Nam với giá trị chiếm khoảng 75% trong cơ cấu nơng, lâm, thủy sản (Hình 1).
Hình 1: Cơ cấu nông – lâm – thủy sản Việt Nam 2013-2014
(Nguồn: Niên giám thống kê)
Mặc dù sản lƣợng nông sản luôn phụ thuộc vào tính chất của khí hậu, tính thời vụ và dịch bệnh
nhƣng sản lƣợng nông sản hàng năm của Việt Nam vẫn lớn. Đóng góp vào tăng trƣởng kinh tế, giải quyết
vấn đề lao động và cung cấp đầy đủ cho lƣơng thực quốc gia.
Điển hình một số sản phẩm của nông sản Việt Nam qua các năm có thể thấy sản lƣợng nơng nghiệp
nhìn chung đều tăng nhƣng mức độ tăng không đáng kể (Bảng 2). Tốc độ tăng trƣởng nông sản năm 2014
cao hơn so với 3 năm trở lại đây khắc phục đƣợc xu hƣớng giảm dần nhƣng vẫn thấp hơn so với giai đoạn
2006-2010. Tăng trƣởng GDP toàn ngành đạt 3,49% (năm 2013 đạt 2,67%). Nhiều loại nông sản tăng cả
về sản lƣợng và giá bán, tiêu thụ tốt bảo đảm lợi nhuận cho nơng dân.
Nhƣng cần nhìn lại vấn đề khi Nhà nƣớc cố gắng xây dựng nền nơng nghiệp có tính chất hàng hoá,
kỹ thuật tiên tiến, cơ cấu kinh tế đa ngành nhƣng nơng nghiệp nói chung vẫn chủ yếu phát triển ―quảng
canh‖, chƣa thật rõ định hƣớng tới một nền nông nghiệp hiện đại, phát triển theo chiều sâu, chất lƣợng và
hiệu quả. Tuy năm 2014 đánh dấu sự chuyển hƣớng trong tái cơ cấu ngành, song xu hƣớng chi phối vẫn
là ―sản lƣợng cao, tiêu tốn nhiều nguồn lực, chất lƣợng thấp và giá trị gia tăng thấp‖. Điểm sáng của
ngành là đã có những đột phá mạnh trong ứng dụng rộng rãi khoa học kĩ thuật, công nghệ cao với sự
tham gia của ngày càng nhiều doanh nghiệp lớn vào sản xuất nông nghiệp. Xu hƣớng tuy mới bắt đầu
nhƣng có khả năng lan tỏa nhanh.
183
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Bảng 2. Sản lượng một số sản phẩm của nông sản ở Việt Nam
(Nguồn: Niên giám thống kê)
3.2. Tình hình xuất khẩu nông sản
Xuất khẩu nông sản những năm gần đây tăng về sản lƣợng nhƣng có xu hƣớng giảm tỷ trọng so với
các năm trƣớc điển hình tăng 35% so với năm 2010 nhƣng giảm mạnh xuống còn 7% năm 2012, và 6,6%
2013 (Hình 2). Tuy nhiên, theo báo cáo Bộ nơng nghiệp, nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng
mạnh nhƣ cà phê tăng 32,2%; hạt điều: 21,1%; hồ tiêu: 34,1%; rau quả: 34,9% và gạo (không kể xuất
khẩu tiểu ngạch): 5,3%.
Bên cạnh đó, theo thống kê của Vụ nông nghiệp – Bộ kế hoạch đầu tƣ năm 2014, các mặt hàng
nông sản xuất khẩu đạt „tỷ đô” năm 2014 gồm: cà phê: 3,6 tỷ USD; gạo: 3,0 tỷ USD; điều: 2 tỷ USD;
cao su: 1,8 tỷ USD; tiêu: 1,2 tỷ USD; sắn: 1,12 tỷ USD; rau quả: 1,47 tỷ USD. Hạt điều, hạt tiêu có giá
trị xuất khẩu cao nhất thế giới và đƣợc đánh giá cao về chất lƣợng; gạo, cà phê đứng thứ hai; cao su đứng
thứ 4; thủy sản đứng thứ 5; chè đứng thứ 7… Đây là những mặt hàng có sức cạnh tranh cao, chiếm đƣợc
vị thế quan trọng trên thị trƣờng thế giới. Bảng 3 biểu thị một số thị trƣờng có mặt hàng nơng sản Việt
Nam xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn năm 2014.
Theo báo cáo tổng quan về tình hình xuất khẩu nhóm hàng nơng sản, thủy sản Việt Nam năm 2013
cho thấy số lƣợng thị trƣờng xuất khẩu nhóm hàng nơng sản của Việt Nam trong 5 năm qua đã tăng khá
nhanh, cụ thể năm 2008, các mặt hàng nơng sản của nƣớc ta mới có mặt tại 107 thị trƣờng trên toàn cầu,
năm 2010 là 117 thị trƣờng thì đến hết năm 2013, con số này đã tăng tới 129 thị trƣờng. Điều này chứng
tỏ rằng Chính phủ cũng nhƣ cộng đồng doanh nghiệp xuất khẩu nhóm hàng này trên cả nƣớc đã có nỗ lực
rất lớn trong việc giữ ổn định thị phần và tìm kiếm thêm bạn hàng mới trên các thị trƣờng truyền thống,
thâm nhập và mở rộng thị trƣờng mới ở khắp các châu lục trên phạm vi toàn cầu (kể cả các thị trƣờng có
dung lƣợng nhỏ và có khoảng cách địa lý xa Việt Nam). Tuy nhiên, một thực tế hiện nay là hàng nông sản
Việt Nam thƣờng thua kém các nƣớc khác từ 15-50% về giá trị do những chênh lệch về chất lƣợng, điều
này cũng đồng nghĩa với việc hàng hóa của Việt Nam cạnh tranh kém trên thị trƣờng, đặc biệt là tại các
thị trƣờng đòi hỏi chất lƣợng cao.
184
HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015)
Hình 2: Giá trị xuất khẩu nơng sản qua các năm (Nguồn: Tổng cục thống kê)
Bảng 3. Một số thị trường có mặt hàng nơng sản Việt Nam xuất khẩu chiếm tỉ trọng lớn năm 2014
(Nguồn:
Tổng cục Hải quan)
Việt Nam là nƣớc xuất khẩu rịng về các sản phẩm nơng sản nhƣng sản phẩm lại chƣa chiếm đƣợc
thị trƣờng trong nƣớc, nhập khẩu vẫn còn nhiều trong khi những mặt hàng đó có thể tận dụng từ nguồn
cung trong nƣớc.Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của Việt Nam hiện nay cịn yếu về cơng nghệ sản
xuất, chế biến vì thế đầu vào nơng nghiệp cịn phải nhập khẩu nhiều. Ngoài ra, giá cả bị chi phối với giá
cạnh tranh trên thị trƣờng thế giới.
Nhìn chung, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản không ngừng nỗ lực nâng cao chất lƣợng sản
phẩm, giá trị xuất khẩu. Đa phần các mặt hàng qua các năm tăng, các doanh nghiệp duy trì tốt và mở rộng
thị trƣờng xuất khẩu làm cho thị trƣờng xuất khẩu ngày càng đƣợc khai thác thêm nhƣng với việc tham
gia vào cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ đòi hỏi các sản phẩm xuất khẩu từ khâu sản xuất, chế biến đến tiêu
185
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
thụ phải đổi mới để đáp ứng đƣợc nhu cầu và đạt đƣợc những tiêu chuẩn của thị trƣờng có nhiều đối thủ
cạnh tranh trong ngành.
4. Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp xuất khẩu nông – lâm – thủy sản Việt Nam khi Việt
Nam gia nhập AEC
4.1. Cơ hội cho doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam
Việc Việt Nam gia nhập AEC sẽ đem lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản
Việt Nam, đặc biệt là:
Thứ nhất, cơ hội có đƣợc từ việc cắt giảm thuế quan, mở rộng xuất khẩu. Đối với nơng sản Việt
Nam, thuế suất giảm xuống rất có lợi cho nhà sản xuất và chế biến. Hiện nay, đối với các doanh nghiệp
chế biến và xuất khẩu nông sản, quan trọng nhất là đầu ra, nếu đầu ra không phải chịu thêm loại thuế nào
vào sản phẩm, nông dân sẽ không chịu cảnh bị ép giá, hạ giá. Đây sẽ là cơ hội lớn cho việc xuất khẩu
nông sản của Việt Nam. Trong đó, ASEAN là một thị trƣờng quy mô tiềm năng lớn cho các doanh nghiệp
Việt Nam với doanh số 600 triệu ngƣời và GDP khu vực khoảng 2.200 tỷ USD. Khi AEC đi vào hoạt
động sẽ tạo ra một thị trƣờng đơn nhất, khai thác đƣợc tối đa các hiệp định thƣơng mại tự do (FTA) mang
lại, thuế suất lƣu thơng hàng hố giữa các nƣớc trong khu vực sẽ đƣợc cắt giảm dần về 0%. Các doanh
nghiệp nơng sản Việt Nam có thể bán hàng sang các nƣớc ASEAN gần nhƣ bán hàng trong nƣớc.
Thứ hai, cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị phần. Một số mặt hàng nông sản của
Việt Nam hiện nay đang chiếm giữ vị thế cao trên thị trƣờng quốc tế nhƣ hạt điều, hạt tiêu (đứng thứ
nhất); gạo, cà phê (đứng thứ hai); chè (đứng thứ sáu), … Các mặt hàng khác cũng đang có tiềm năng tăng
trƣởng xuất khẩu trong tƣơng lai nhƣ các loại rau, củ, quả, hoa tƣơi, … Khi AEC đƣợc thành lập, doanh
nghiệp Việt Nam sẽ có thị trƣờng rộng lớn hơn với các đối tác nhƣ Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, Ấn Độ,
Australia, New Zealand thông qua các hiệp định thƣơng mại tự do riêng giữa ASEAN với các đối tác
kinh tế lớn cũng nhƣ nỗ lực xây dựng Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), từ đó doanh
nghiệp Việt Nam có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng khu vực. Bên cạnh đó, khi thuế
suất trong ASEAN giảm xuống 0%, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện giảm chi phí, hạ giá
thành hàng xuất khẩu, góp phân nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tóm lại, khi Việt Nam tham gia AEC thì cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị
trƣờng xuất khẩu của nông sản Việt Nam là có, nhƣng cơ hội này khơng phải là lớn và AEC không phải
là ―đại tiệc‖ đối với hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
4.2. Thách thức cho doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam
Bên cạnh những cơ hội từ việc gia nhập AEC mang lại, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt
Nam cũng sẽ phải đối mặt với khơng ít những thách thức đặc biệt với lĩnh vực nông nghiệp rất dễ bị tổn
thƣơng.
Thứ nhất, thách thức từ chất lƣợng sản phẩm và quy định về kỹ thuật. Thực tế, tập quán sản xuất
của nông dân Việt Nam là sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh để bảo vệ cây trồng, vật nuôi
trƣớc những đợt bệnh, dịch hại vẫn chƣa chấm dứt triệt để. Do đó, điểm yếu về chất lƣợng sản phẩm sẽ
tạo ra thách thức lớn cho cả ngành nông nghiệp. Dù thuế nhập khẩu vào các nƣớc có đƣợc cắt bỏ hết
nhƣng việc kiểm dịch, kiểm tra dƣ lƣợng kháng sinh, các đòi hỏi về nhãn mác bao gói... của các nƣớc lại
là một rào cản lớn đối với nông sản Việt Nam. Để nâng cao đƣợc khả năng cạnh tranh cũng nhƣ tăng
cƣờng xuất khẩu nông sản, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng nâng cao chất lƣợng sản phẩm đáp
ứng yêu cầu hội nhập.
186
HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015)
Thứ hai, thách thức liên quan đến chất lƣợng lao động, năng suất lao động. Các chuyên gia trong
lĩnh vực lao động cho biết, hiện có khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu nhƣ chƣa qua
đào tạo. Các lĩnh vực khác đƣợc đào tạo thì trình độ chƣa cao, khả năng ngoại ngữ rất kém. Chất lƣợng
nguồn nhân lực không cao, dẫn đến năng suất lao động thấp đang thực sự là một cảnh báo. Nguy cơ của
nền kinh tế chỉ dựa vào lao động giá rẻ và năng suất thấp là rất cao. Bởi vì lao động chất lƣợng thấp đồng
nghĩa với tính kém đa dạng của các loại kỹ năng, khả năng sáng tạo cũng nhƣ hiệu quả tổ chức. Điều này
ảnh hƣởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nhiệp.
Thứ ba, sự cạnh tranh gay gắt khốc liệt. Với việc đẩy mạnh tự do hóa thƣơng mại nội khối, hàng
rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nƣớc thành viên AEC sẽ dần bị xóa bỏ. Tính đến tháng 7 năm
2013, Việt Nam đã giảm thuế nhập khẩu cho hơn 10.000 dòng thuế xuống mức 0 - 5% theo ATIGA,
chiếm khoảng 98% số dòng thuế trong biểu thuế. Với mức giảm thuế sâu nhƣ vậy, trong tƣơng lai, việc
mở cửa thị trƣờng dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng luồng hàng nhập khẩu từ các nƣớc ASEAN vào Việt
Nam với giá cả cạnh tranh. Nhiều sản phẩm hàng hóa nơng nghiệp, do quy mơ sản xuất nhỏ lẻ, năng suất
lao động cịn thấp, áp dụng tiến bộ khoa học hạn chế nên giá thành sản phẩm cịn cao. Trong khi đó, sản
phẩm nơng sản nhập khẩu có chất lƣợng cao và giá cả cạnh tranh hơn. Vì vậy, việc mở cửa thị trƣờng ít
nhiều sẽ tác động đến những sản phẩm hàng hóa này. Hệ quả tất yếu là doanh nghiệp phải đối mặt với sự
cạnh tranh gay gắt, thị phần hàng hóa nông nghiệp của Việt Nam sẽ bị thu hẹp, thậm chí là nguy cơ mất
thị phần nội địa.
Tóm lại, khi Việt Nam gia nhập AEC thì khó khăn và thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam nói
chung và doanh nghiệp nơng sản nói riêng là khá lớn bởi sự cạnh tranh gay gắt, lợi thế cạnh tranh về sản
xuất giá rẻ cũng sẽ giảm đi. Do đó, các doanh nghiệp nông sản Việt Nam cần phải chuẩn bị sẵn sàng chủ
động để hội nhập.
5. Một số giải pháp góp phần đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu nông sản của Việt Nam
5.1. Về phía nhà nước
Nhà nƣớc cần tăng cƣờng cơng tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức doanh nghiệp về AEC. Một
nghiên cứu đƣợc thực hiện ở thành phố Hồ Chí Minh về nhận thức của các doanh nghiệp TP. Hồ Chí
Minh về Cộng đồng Kinh tế ASEAN của TS. Vƣơng Đức Hoàng Quân (2015) nhận định rằng các doanh
nghiệp nhìn chung chƣa nhận thức đầy đủ về những thách thức cũng nhƣ chƣa sẵn sàng tận dụng cơ hội
của AEC. Do đó, các cơ quan hữu trách cần phải chủ động nâng cao vai trị của mình hơn nữa, cần có
nhiều hình thức khác nhau để cung cấp và hỗ trợ thông tin hiệu quả hơn cho doanh nghiệp nhằm nâng cao
nhận thức của doanh nghiệp về AEC.
Nhà nƣớc cần chú trọng cải cách thể chế, tái cơ cấu kinh tế. Theo diễn đàn kinh tế thế giới xếp
hạng về thể chế của Việt Nam cho thấy nền quản lý hành chính lạc hậu, nhiều thủ tục rƣờm rà gây ảnh
hƣởng tiêu cực nghiêm trọng đến năng lực cạnh tranh, chi phí về thời gian và tiền bạc của doanh nghiệp
Việt Nam, đơn cử nhƣ việc các doanh nghiệp Việt Nam cần đến 872 giờ/năm để đóng thuế trong khi con
số bình qn của dịch vụ đó ở các nƣớc ASEAN-6 chỉ là 172 giờ/năm. Thực tế này cho thấy, cải cách thể
chế, tái cơ cấu kinh tế là đòi hỏi cấp thiết đặt ra cho Việt Nam khi gia nhập AEC.
Đồng thời, Nhà nƣớc cần đƣa ra những chiến lƣợc cụ thể hỗ trợ cho nông dân và doanh nghiệp
kinh doanh nông sản. Trong Quốc hội thảo luận về tình hình phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà
nƣớc những tháng đầu năm 2015, Đại biểu đến từ An Giang nhận định ―Nếu không giải quyết đƣợc bài
tốn nơng dân làm gì thì hội nhập mới chỉ đƣợc 50%. Phải hỗ trợ nông dân bằng những chính sách chiến
lƣợc cụ thể và đi vào thực tế‖. Trong xây dựng cơ chế cần khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp tham gia
tiêu thụ, mở rộng thị trƣờng nông sản, trái cây; tránh đầu tƣ quy mô tràn lan, tăng cƣờng hợp tác với nông
187
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
dân để tiêu thụ nơng sản. Bên cạnh đó, cần xây dựng chuỗi liên ngành chuyển giao công nghệ để sản
phẩm nông nghiệp của Việt Nam xâm nhập mạnh mẽ vào các thị trƣờng.
5.2. Về phía doanh nghiệp
Trên cơ sở những cơ hội và thách thức mà hội nhập từ AEC mang lại, để nâng cao năng lực cạnh
tranh và đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu nông sản các doanh nghiệp Việt Nam cần phải:
Thứ nhất, nâng cao chất lƣợng nông sản. Để đảm bảo việc xuất khẩu nông sản sang thị trƣờng nƣớc
ngồi, sản phẩm nơng sản Việt Nam cần đảm bảo đƣợc các tiêu chuẩn kỹ thuật về chất lƣợng sản phẩm.
Do đó, để nâng cao chất lƣợng nơng sản cần chú trọng cải tiến từ khâu chọn giống, thuốc bảo vệ thực vật,
các quy trình phân bón, khâu vận chuyển, bảo quản để đảm bảo chất lƣợng và vệ sinh an toàn thực phẩm
đáp ứng tiêu chuẩn hội nhập.
Thứ hai, doanh nghiệp phải chủ động nâng cao sức cạnh tranh, sẵn sàng hội nhập và đối mặt với xu
thế mới nhƣ tự do hóa đầu tƣ, thƣơng mại, giảm và xóa bỏ thuế quan, hình thành tiêu chuẩn hàng hóa
chung… Để đáp ứng cạnh tranh trong khu vực toàn cầu, các doanh nghiệp cần đƣa ra những điều chỉnh
cần thiết, cần liên tục cải cách quy tắc xuất xứ, hàng hóa phải đáp ứng đƣợc những tiêu chí, quy định về
xuất xứ mới đƣợc hƣởng ƣu đãi về thuế quan. Đồng thời, nâng cao chất lƣợng, năng suất lao động bằng
cách đào tạo nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu cạnh trạnh trong q trình hội
nhập.
Thứ ba, đầu tƣ cơng nghệ, kỹ thuật sản xuất. Máy móc, thiết bị khoa học cơng nghệ đóng vai trị
quan trọng trong việc nâng cao năng suất, chất lƣợng sản phẩm. Do đó, việc đầu tƣ máy móc thiết bị cho
sản xuất, tuyển chọn, đóng gói sản phẩm cần đƣợc các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản chú trọng để
nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trƣờng thế giới.
Thứ tƣ, xây dựng thƣơng hiệu nơng sản Việt Nam. Có tiềm năng lớn trên thị trƣờng thế giới nhƣng
do thƣơng hiệu mờ nhạt nên khơng ít nơng sản Việt Nam khơng có lợi thế cạnh tranh, giá bán và lợi
nhuận thấp dù lƣợng xuất rất khẩu lớn. Trong một cuộc điều tra mới, chỉ có 36/173 doanh nghiệp ngành
nơng nghiệp có đăng ký thƣơng hiệu trong nƣớc, 5 doanh nghiệp đăng ký thƣơng hiệu ở nƣớc ngồi, 9/11
tổng cơng ty thuộc Bộ NNPTNT đăng ký thƣơng hiệu cho 107 mặt hàng, trong đó chỉ có 4 sản phẩm
đăng ký ở nƣớc ngồi, 15/58 hội viên Hiệp hội Trái cây Việt Nam đã đăng ký bảo hộ thƣơng hiệu trong
nƣớc. Thực tế, Việt Nam luôn dẫn đầu về xuất khẩu cà phê, hồ tiêu, hạt điều, nhiều loại trái cây nhƣ nhãn,
bƣởi, thanh long… đƣợc ƣa chuộng trên thế giới nhƣng vẫn chƣa xây dựng đƣợc thƣơng hiệu riêng. Do
đó, hiện 90% nơng sản xuất khẩu dạng thơ, sau đó đƣợc các doanh nghiệp nƣớc ngoài chế biến và mang
thƣơng hiệu của họ. Để nâng cao giá trị xuất khẩu, doanh nghiệp phải quan tâm đầu tƣ cho khâu chế biến
và xây dựng thƣơng hiệu. Để giải quyết đƣợc bài toán nâng cao giá trị nông sản phải thực hiện đồng bộ từ
sản xuất, chế biến và tiêu thụ… Ngồi ra, cần phải có liên kết ―4 nhà‖ để giúp các địa phƣơng, doanh
nghiệp xây dựng thƣơng hiệu cho nơng sản. Trong đó, Nhà nƣớc có cơ chế, chính sách, nguồn vốn cụ thể
để xây dựng các vùng chuyên canh. Các nhà khoa học hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân về kỹ thuật.
6. Kết luận
Là một nƣớc nông nghiệp, với chiến lƣợc chú trọng xuất khẩu, việc gia nhập AEC là một cơ hội
lớn nhƣng cũng đem lại những thách thức không nhỏ cho doanh nghiệp xuất khẩu nơng sản Việt Nam. Do
đó, Nhà nƣớc và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu nơng sản nói riêng
cần tập trung thực hiện các giải pháp quan trọng để tận dụng đƣợc các ƣu đãi và cơ hội đến từ AEC đem
lại cũng nhƣ vƣợt qua những thách thức, góp phần thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam.
188
HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015)
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Cục xuất nhập khẩu (2014), ―Tổng quan về tình hình xuất khẩu nhóm hàng nông sản, thủy sản Việt
Nam năm 2013‖, truy cập ngày 20/07/2015.
[2] Đinh Thu Hằng (2014), ―Phân tích ngành: nơng nghiệp và công nghiệp - xây dựng‖, Tham vấn Cộng
đồng doanh nghiệp về Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực: Tác động, cơ hội và thách thức.
[3] Hồng Nhung (2015), ―Nông sản Việt trƣớc hội nhập: Bài toán chất lƣợng sản phẩm‖,
truy cập ngày 20/07/2015.
[4] Lê Đăng Doanh, ―Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC): Cơ hội và thách thức với Việt Nam‖,
/>truy
cập
ngày
20/07/2015.
[5] Nguyễn Bá Ngọc, Phạm Minh Thu (2014), ―Năng suất lao động ở Việt Nam - nhìn từ góc độ cơ cấu
lao động và kỹ năng‖, Tạp chí Khoa học lao động và xã hội, số 41.
[6] Nguyệt Quế (2015), ―Nếu không giải quyết đƣợc bài tốn nơng dân làm gì thì hội nhập mới đƣợc
50%‖, truy cập ngày 20/07/2015.
[7] Trần Văn Hùng, Lê Thị Mai Hƣơng và Nguyễn Lê Anh (2015), ―Cộng đồng Kinh tế ASEAN
(AEC): Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam‖, Tạp chí Phát triển và Hội nhập,
số 20 (30).
[8] Trần Đình Thiên và các cộng sự (2014), ―Kinh tế Việt Nam năm 2014 : Tổng quan vĩ mô‖, Kỷ yếu
diễn đàn kinh tế mùa xuân 2015.
[9] Vƣơng Đức Hoàng Quân (2015), ―Nhận thức của các doanh nghiệp TP. Hồ Chí Minh về Cộng đồng
Kinh tế ASEAN‖, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 20 (30).
189