Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Giải pháp phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp huyện Yên Hưng – Quảng Ninh theo hướng bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.56 KB, 90 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Yên Hưng là một huyện nông nghiệp của tỉnh Quảng Ninh. Đại bộ phận dân
cư thuộc khu vực nông nghiệp, nông thôn. Những năm vừa qua, nền kinh tế của
huyện đã phát triển mở rộng sang nhiều lĩnh vực và những tiềm năng về đất đai, thiên
nhiên và con người Yên Hưng đang hàng ngày được khai thác.
Tuy nhiên, hiện nay ở Yên Hưng nông nghiệp vẫn là lĩnh vực sản xuất vật
chất chủ yếu. Bản thân nông – lâm – ngư nghiệp không thể đẩy nhanh sự phát triển,
không tạo được tích lũy cần thiết để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy,
cần phải nhìn nhận vấn đề phát triển một cách đầy đủ và có sự quan tâm đầu tư đúng
mức đối với ngành công nghiêp – tiểu thủ công nghiệp để phát huy hơn nữa tiềm
năng lợi thế của Yên Hưng vào sự phát triển chung của tỉnh và đất nước trong công
cuộc đổi mới.
Đây chính là lý do em chọn đề tài chuyên đề tốt nghiệp là “Giải pháp phát
triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp huyện Yên Hưng – Quảng Ninh theo
hướng bền vững”.
2. Mục đích nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu thực trạng phát triển công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp, chất lượng phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp ở huyện Yên Hưng
thuộc tỉnh Quảng Ninh trong những năm gần đây để tìm ra những nguyên nhân của
sự yếu kém, tồn tại và từ đó có thể đề xuất ra những giải pháp tích cực nhằm thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, khai thác
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phát triển ngành công nghiệp – tiểu thủ
công nghiệp trên địa bàn huyện theo hướng bền vững đến năm 2020.
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
1
Chuyên đề tốt nghiệp
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự phát triển công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp huyện Yên Hưng. Chuyên đề cần phân tích cơ sở lý luận, thực trạng phát triển


công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp huyện Yên Hưng, phân tích mục tiêu, phương
hướng và đề xuất giải pháp phát triển công nghiệp theo hướng bền vững. Với phương
pháp nghiên cứu tiếp cận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử cùng với các phương
pháp thống kê mô tả, phân tích, so sánh trong phạm vi nghiên cứu là giai đoạn 2005 –
2008.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
chuyên đề tốt nghiệp của tôi gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
Chương 2: Thực trạng phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của
huyện Yên Hưng giai đoạn 2005 – 2008
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu phát triển công nghiệp –
tiểu thủ công nghiệp huyện Yên Hưng đến năm 2020
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG NGHIỆP - TIỂU THỦ
CÔNG NGHIỆP
1. Các khái niệm cơ bản về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
1.1. Công nghiệp
1.1.1. Khái niệm
Công nghiệp là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất của xã hội.
Công nghiệp bao gồm ba loại hoạt động chủ yếu: khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo
ra nguồn nguyên liệu nguyên thủy; sản xuất và chế biến sản phẩm của công nghiệp
khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thỏa mãn các nhu cầu
khác nhau của xã hội; khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong
quá trình sản xuất và sinh hoạt.
Công nghiệp được coi là một trong ba ngành kinh tế chủ yếu có tính chất bao
quát toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vị trí, tỷ trọng các ngành công nghiệp, nông

nghiệp, dịch vụ và mối quan hệ giữa chúng tạo thành cơ cấu kinh tế nước ta. Trong
đó, công nghiệp là ngành kinh tế quốc dân quan trọng nhất, có ảnh hưởng quyết định
đến trình độ phát triển lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội. Tỷ lệ sản
phẩm công nghiệp trong cơ cấu tổng sản phẩm xã hội được xem như chỉ tiêu phản
ánh trình độ phát triển kinh tế của xã hội.
1.1.2. Đặc điểm
Về mặt kỹ thuật sản xuất của công nghiệp, công nghệ sản xuất của công
nghiệp chủ yếu là quá trình tác động trực tiếp bằng phương pháp cơ lý hóa của con
người, làm thay đổi các đối tượng lao động thành các sản phẩm thích ứng với nhu
cầu của con người. Trong khi đó sản xuất nông nghiệp lại bằng phương pháp sinh
học là chủ yếu. Sản xuất công nghiệp ít phụ thuộc vào tự nhiên hơn so với sản xuất
nông nghiệp mà chỉ phụ thuộc trình độ kỹ thuật, công nghệ.
Đối tượng của sản xuất công nghiệp chủ yếu là các tài nguyên khoáng sản, tài
nguyên rừng biển và các sản phẩm do nông nghiệp sản xuất ra. Các đối tượng lao
động của quá trình sản xuất công nghiệp sau mỗi chu kỳ sản xuất được thay đổi hoàn
toàn về chất từ công dụng cụ thể này chuyển sang các sản phẩm có công dụng cụ thể
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
3
Chuyên đề tốt nghiệp
khác, hoặc một loại nguyên liệu sau quá trình sản xuất có thể tạo ra nhiều loại sản
phẩm có các công dụng khác nhau.
Sản phẩm công nghiệp có khả năng đáp ứng nhiều loại nhu cầu ở các trình độ
và đòi hỏi tiêu dùng ngày càng cao của xã hội. Sản xuất công nghiệp là họat động sản
xuất duy nhất tạo ra các sản phẩm thực hiện chức năng là các tư liệu lao động trong
các ngành kinh tế. Đặc trưng này cho thấy vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền
kinh tế là một tất yếu khách quan, xuất phát từ bản chất của quá trình sản xuất đó.
Do đặc điểm về mặt kỹ thuật sản xuất nên trong quá trình phát triển công
nghiệp luôn là ngành có điều kiện phát triển về kỹ thuật, tổ chức sản xuất, lực lượng
sản xuất nên quan hệ sản xuất có tính tiên tiến hơn; cần phân công lao động ngày
càng sâu để thúc đẩy phát triển nền sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp với trình độ

ngày càng cao.
1.2. Tiểu công nghiệp – Thủ công nghiệp
1.2.1. Khái niệm
a. Tiểu công nghiệp
Trước đây, khi cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra đánh dấu một sự
chuyển biến sâu sắc từ lao động thủ công sang lao động bằng máy móc, người ta nói
đến “công nghiệp thủ công” tương đồng với khái niệm tiểu thủ công nghiệp hiện nay,
vì trong khái niệm đó bao gồm tất cả mọi hình thức công nghiệp, từ những nghề thủ
công gia đình cho đến lao động làm thuê trong những công trường thủ công rất lớn.
Đặc trưng của tiểu sản xuất hàng hóa và công trường thủ công là ở chỗ các xí nghiệp
nhỏ chiếm ưu thế, trong đó chỉ có một số xí nghiệp lớn. Giai đoạn phát triển công
trường thủ công có dáng dấp gần với quan niệm “tiểu công nghiệp”, nên ta có thể
hiểu rằng: Tiểu công nghiệp là hình thức công nghiệp sử dụng lao động nửa cơ khí để
chế biến nguyên liệu ra sản phẩm.
Hiện nay, thông thường người ta sử dụng các thuật ngữ “tiểu công nghiệp”,
“xí nghiệp vừa và nhỏ”, “xí nghiệp trung và tiểu” để nói đến tiểu công nghiệp.
Nhưng trong thực tế đã hình thành hai cách định nghĩa: một loại có tính hành chính
hay thống kê, loại khác có tính phân tích..
Khác với các giai đoạn phát triển trước, khi khoa học kỹ thuật phát triển ở
trình độ thấp, quy mô xí nghiệp tăng tỷ lệ thuận với việc tăng vốn sản xuất và tăng số
lao động cần sử dụng. Ngày nay khoa học công nghệ đã có những bước tiến nhảy vọt
thì những xí nghiệp chỉ sử dụng một lượng ít lao động mà làm ra khối lượng sản
phẩm có giá trị lớn, lợi nhuận cao. Vì thế khi định nghĩa tiểu công nghiệp không chỉ
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
4
Chuyên đề tốt nghiệp
dựa vào hai chỉ tiêu vốn và lao động mà nó được xét trên hai mặt: Độ phức tạp của
quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiểu công nghiệp không
chỉ là một hình thức sở hữu mà tồn tại với mọi thành phần kinh tế.
b. Thủ công nghiệp

Trong cơ cấu kinh tế gần như thuần nông không có nghĩa là người ta chỉ làm
nông nghiệp mà người nông dân tự chế biến ra nông sản và tự tạo ra công cụ lao
động. Sự phân công lao động xã hội phát triển đã dẫn đến sự tách lao động công
nghiệp và lao động thương nghiệp ra khỏi lao động nông nghiệp hình thành dần nghề
thủ công. Thủ công nghiệp là giai đoạn phát triển thấp của công nghiệp, lúc đầu chỉ
nhằm thỏa mãn nhu cầu của người sản xuất và mang tính chất của một nghề phụ
nhưng về sau đã xuất hiện những nghề thủ công độc lập, chuyên chế biến nguyên liệu
và dùng sản phẩm đó để trao đổi.
Thủ công nghiệp hay nghề thủ công là hình thức sản xuất công nghiệp có quy
mô nhỏ chủ yếu dựa vào sự khéo léo của bàn tay con người, với các công cụ lao động
giản đơn.
1.2.2. Đặc điểm
Sở hữu tư liệu sản xuất của tiểu thủ công nghiệp đa dạng, được thể hiện ở chỗ:
không những các thành phần kinh tế đều tham gia tìm kiếm lợi nhuận trong lĩnh vực
tiểu thủ công nghiệp mà còn là tính chất pha tạp sở hữu trong tiểu thủ công nghiệp,
trong đó sở hữu tư nhân, cá thể trong lĩnh vực này đang ngày càng chiếm ưu thế.
Ngành nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp đa dạng, sản xuất có tính tập trung
cao. Ở các vùng nông thôn có thể sử dụng lao động dư thừa lúc nông nhàn và tận
dụng các nguyên liệu do sản xuất chính tạo ra hoặc sử dụng tài nguyên của địa
phương. Khác với ở nông thôn, ở đô thị có điều kiện tập trung sản xuất cao hơn, quy
mô lớn hơn và tính chuyên môn hóa cao hơn. Đây cũng là thị trường rộng lớn để trao
đổi và tiêu thụ sản phẩm và đó cũng là điều kiện khách quan thúc đẩy sản xuất tiểu
thủ công nghiệp phát triển.
Đặc điểm chung của ngành tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp là vốn đầu tư
nhỏ, dễ thay đổi theo quy luật cung – cầu. Kinh tế thị trường càng phát triển thì các
cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp càng có điều kiện thay đổi hướng sản xuất linh
hoạt, đáp ứng nhanh chóng nhu cầu mới phát sinh của thị trường. Khi vốn và thị
trường thuận lợi tạo điều kiện cho sản phẩm tiểu thủ công nghiệp thay đổi nhanh về
mẫu mã, kiểu dáng, chủng loại sản phẩm và hướng sản xuất.
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN

5
Chuyên đề tốt nghiệp
Tuy nhiên, sự khác biệt giữa tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp được thể
hiện ở mức độ phân công lao động, sự tiến bộ về kỹ thuật, phạm vi thị trường tiêu thụ
sản phẩm và quy mô tổ chức sản xuất.
Trong quá trình phát triển, ở giai đoạn đầu các xí nghiệp tiểu công nghiệp tập
trung đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong vùng, trong khu vực lân cận, sau đó tiến tới cả
nước và xuất khẩu tại chỗ cho khách du lịch. Khi thị trường đã mở rộng vượt biên
giới quốc gia, tiểu công nghiệp cũng vươn ra thị trường quốc tế và đem lại thu nhập
cao hơn, nhất là những mặt hàng mang bản sắc văn hóa dân tộc.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
Phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp chịu sự tác động của nhiều
nhân tố, có nhân tố tích cực thúc đẩy phát triển, song có nhân tố kìm hãm, hạn chế
sự phát triển. Các nhân tố đó được chia làm 2 nhóm là nhóm nhân tố bên trong và
nhóm nhân tố bên ngoài. Nhóm nhân tố bên trong bao gồm toàn bộ những tiềm
năng có thể huy động được và cách thức sử dụng tiềm năng đó vào quá trình phát
triển hay có tác động hạn chế đến quá trình phát triển. Các nhân tố bên ngoài bao
gồm tất cả những yếu tố kinh tế, chính trị quốc tế có tác động tích cực hay hạn chế
đến quá trình phát triển của đất nước nói chung và của địa phương nói riêng. Các
nhân tố bên ngoài tuy có ảnh hưởng đáng kể, song các nhân tố bên trong mới có
tính chất quyết định, bởi vì nó không chỉ tác động vào khả năng huy động và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong, mà còn quyết định cả việc huy động và
sử dụng các nhân tố bên ngoài, hoặc cố gắng hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực
của các nhân tố trong quá trình phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp.
2.1. Nhóm nhân tố trong nội bộ nền kinh tế
2.1.1. Nhân tố thị trường và nhu cầu tiêu dùng xã hội
Thị trường và nhu cầu xã hội là người đặt hàng cho tất cả các ngành nghề, lĩnh
vực kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế. Nếu như xã hội không có nhu cầu thì tất nhiên
sẽ không có bất kỳ quá trình sản xuất nào. Cũng như vậy, không có thị trường thì
không có kinh tế hàng hóa.

Thị trường và nhu cầu xã hội không chỉ quy định về số lượng mà cả về chất
lượng các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ nên nó có tác dụng trực tiếp đến quy mô,
trình độ phát triển của các cơ sở kinh tế, đến xu hướng phát triển và phân công lao
động xã hội, đến vị trí, tỷ trọng của ngành công nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân
thống nhất.
2.1.2. Nguồn lực phát triển
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên thiên nhiên là một trong những yếu tố nguồn lực đầu vào của quá
trình sản xuất. Ảnh hưởng của tự nhiên đến cơ cấu của nền kinh tế do đó là tất yếu.
Xét trên phạm vi toàn thế giới, nếu không có tài nguyên, đất đai thì sẽ không có sản
xuất và cũng không có sự tồn tại của loài người. Mặc dù sự phát triển của lực lượng
sản xuất làm cho chế độ chế ngự thiên nhiên của con người được nâng cao và đời
sống của con người bớt phụ thuộc vào những biến động bất thường và sự phân bố
không đều của tài nguyên, thì nền sản xuất trước sau vẫn gắn bó với tự nhiên, phụ
thuộc nhưng đồng thời cũng tác động đến tự nhiên Tài nguyên thiên nhiên có ảnh
hưởng quan trọng đến phát triển và phân bố các ngành khai thác và chế biến tài
nguyên. Vì vậy xu hướng coi thường nhân tố tự nhiên trong hoạch định chính sách cơ
cấu là sai lầm. Và trên thực tế yếu tố công nghệ luôn được đổi mới, phát triển thì lưu
lượng tài nguyên thiên nhiên hữu hạn sẽ là hạn chế cho việc sản xuất vật chất trong
những ngành công nghiệp sử dụng khoáng quặng làm nguyên liệu đầu vào như thép,
nhôm,… Các nhân tố kinh tế xã hội gồm các nguồn lực lao động, vốn, trình độ khoa
học công nghệ, nhu cầu thị trường,…phản ánh trình độ phát triển của một quốc gia.
Các nhân tố tác động của quốc tế và chính sách phát triển của quốc gia đó mới là
nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến cơ cấu kinh tế và quá trình biến đổi của cơ cấu
kinh tế. Thực tế đã cho thấy, nhiều quốc gia dù có trữ lượng tài nguyên phong phú,
đa dạng, điều kiện tự nhiên thuận lợi, song vẫn là nước nghèo, kém phát triển. Ngược
lại, nhiều quốc gia có ít tài nguyên khoáng sản nhưng lại trở thành nước công nghiệp

phát triển.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu lao động và con người có khả năng sử
dụng tư liệu lao động để tác động vào đối tượng lao động tạo ra sản phẩm hàng hóa
và dịch vụ để đáp ứng nhu cầu xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm thay
đổi quy mô sản xuất, thay đổi công nghệ, thiết bị, hình thành các ngành nghề mới,
biến đổi lao động từ giản đơn đến lao động phức tạp, từ ngành này sang ngành khác.
Sự phát triển đó phá vỡ thế cân đối cũ, hình thành một cơ cấu kinh tế mới với tỷ
trọng các ngành và các lĩnh vực phù hợp hơn, thích ứng được yêu cầu phát triển của
lực lượng sản xuất, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Quá trình đó diễn ra một cách khách
quan và từng bước tạo ra một sự cân đối hợp lý, có khả năng khai thác nguồn lực
trong nước, cũng như nguồn lực nước ngoài.
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
7
Chuyên đề tốt nghiệp
Sự phát triển của lực lượng sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lực lượng sản xuất phát triển không ngừng nên cơ cấu
kinh tế cũng luôn thay đổi. Từ đó, đây chính là một trong những nhân tố quan trọng
ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, vì để
ngành có thể chiếm được tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế thì cần phải đầu tư phát
triển mạnh mẽ cho lực lượng sản xuất cả về lao động tri thức cũng như công nghệ,
trang thiết bị hiện đại.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật:
Để thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu được xây dựng trên cơ sở
đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững, nhu cầu đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng
là rất lớn. Việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong khu công nghiệp là vấn đề thu hút sự
quan tâm của các nhà đầu tư, bởi nó gắn với quyền lợi của họ. Do vậy, việc quy
hoạch và xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho các khu công nghiệp cần được tiến hành một
cách bài bản và chặt chẽ như mở rộng hệ thống đường giao thông nội bộ, hệ thống
thoát nước, nâng công suất trạm điện, xây dựng cơ sở cung cấp nước sạch, trạm xử lý

nước thải, xây dựng hệ thống kho hàng, bến bãi, nhà ở cho công nhân… Thủ tướng
Nguyễn Sinh Hùng cho rằng, giải quyết được những yếu kém hiện tại của cơ sở hạ
tầng vốn gây ra đủ thứ hạ tầng yếu kém như kinh tế hàng hóa không phát triển, nông
nghiệp nông thôn không phát triển… sẽ thúc đẩy phát triển và tăng trưởng.
2.1.3. Truyền thống địa phương
Truyền thống địa phương cũng là một trong những nhân tố tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển của công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp cả về mặt tích cực lẫn mặt
tiêu cực. Bởi lẽ những người dân đã quen với hình thức lao động nông nghiệp khi
chuyển sang công nghiệp sẽ gặp không ít khó khăn như thời gian lao động, sự chuyên
nghiệp, chuyên môn trong công viêc. Hơn nữa, đối với những địa phương vốn thuần
nông, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã kéo theo sự chuyển dịch lao động giữa các
ngành. Tuy nhiên, lao động tham gia họat động ngành nghề và các công việc khác
vẫn gắn với hoạt động nông nghiệp, mặc dù thu nhập từ nông nghiệp không phải là
chủ yếu.Ngành nghề không ổn định mà còn được coi là nghề phụ. Người nông dân đi
làm các công việc khác như đánh bắt cá, khai thác tận thu than, và các công việc
mang tính chất lao động phổ thông ở địa phương khác, nhưng đến mùa vụ lại trở về
với công việc đồng áng trên mảnh ruộng của mình được giao.
Tuy nhiên, yếu tố nào cũng có sự tác động hai mặt của nó, người nông dân
vốn có bản chất thật thà, chăm chỉ, họ có sự gắn bó thân thiết với những gì mang tính
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
8
Chuyên đề tốt nghiệp
truyền thống dân tộc và không muốn để mai một những ngành nghề do cha ông
truyền lại dù những lợi ích trước mắt là rất lớn. Đây là lý do quan trọng nhất để tồn
tại những làng nghề truyền thống gìn giữ nét văn hóa truyền thống dân tộc, truyền
thống địa phương trong những sản phẩm mà máy móc không thể thay thế bàn tay con
người. Nếu được đầu tư mạnh mẽ về cơ sở hạ tầng, nguồn vốn, những làng nghề
truyền thống này có thể đưa ra được những sản phẩm không chỉ sử dụng trong nước
mà còn có thể xuất khẩu, đem lại nguồn lợi cho chính bản thân người dân, cho sự
phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của địa phương nói riêng và cả nước

nói chung.
2.1.4. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, địa phương trong
mỗi giai đoạn nhất định
Nhà nước tác động bằng cách định hướng phát triển để thực hiện được mục
tiêu đáp ứng nhu cầu xã hội. Định hướng phát triển của nhà nước không chỉ nhằm
khuyến khích mọi lực lượng sản xuất xã hội mà còn đưa ra các dự án để mọi thành
phần kinh tế tham gia. Nhưng nếu không đạt được thì nhà nước phải trực tiếp tổ chức
sản xuất, bảo đảm sự cân đối giữa các sản phẩm, các ngành và các lĩnh vực trong nền
kinh tế.
Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và của mỗi địa phương trong
mỗi giai đoạn nhất định là sự định hướng cho mọi thành phần, mọi nhà doanh nghiệp
phấn đấu thực hiện dưới sự điều tiết của nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và
các quy định thể chế, chính sách của nhà nước. Sự điều tiết của nhà nước gián tiếp
hướng các ngành, lĩnh vực và thành phần kinh tế phát triển, đảm bảo tính cân đối,
đồng bộ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế. Vì thế, vấn đề phải phát triển ngành
công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp cả nước cũng như từng địa phương như thế nào,
theo hướng nào, được đầu tư bao nhiêu… đều nằm trong mục tiêu phát triển tổng thể
kinh tế xã hội của đất nước, chịu sự điều tiết của nhà nước.
2.2. Các nhân tố tác động từ bên ngoài
Trong xu hướng quốc tế hóa và bùng nổ thông tin, cùng với những thành tựu
của cách mạng khoa học kỹ thuật cho phép các nhà sản xuất kinh doanh có khả năng
nhanh chóng nắm bắt thông tin và tìm hiểu thị trường cũng như đối tác mà mình
muốn hợp tác. Từ đó mà triển khai sự hợp tác đan xen, khai thác thế mạnh cho nhau,
để các bên cùng có lợi. Như việc rất nhiều loại sản phẩm hàng hóa trên thị trường
hiện nay có sự tham gia của nhiều công ty, xí nghiệp trong một nước hoặc giữa nhiều
quốc gia trong khu vực và trên toàn thế giới. Đặc biệt với các quốc gia thực hiện
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
9
Chuyên đề tốt nghiệp
chiến lược hướng về xuất khẩu thì yếu tố này trở thành nhân tố không thể thiếu được.

Đối với sự phát triển của ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, vấn đề hợp tác
giữa nhiều quốc gia là vô cùng cần thiết vì khi tham gia vào các hoạt động kinh tế xã
hội của khu vực và trên thế giới quốc gia đó sẽ có điều kiện hội nhập với quốc tế, có
thể tranh thủ kỹ thuật công nghệ, và có được nguồn vốn đầu tư nước ngoài để khai
thác sử dụng có hiệu quả nguồn nội lực. Bởi vậy, xu thế chính trị và xã hội của khu
vực, thế giới cũng chính là nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành.
3. Các mô hình phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn
huyện Yên Hưng
3.1. Hộ gia đình
Theo Điều 116 Bộ luật Dân sự thì hộ gia đình chỉ tham gia vào quan hệ dân sự
trong các lĩnh vực được liệt kê, điều đó không những làm kém đi tính hấp dẫn của
loại hình chủ thể này với các thành phần kinh tế khác trong xã hội mà còn không
phản ánh được đầy đủ hoạt động kinh tế của các hộ gia đình. Trong thực tế, một hộ
gia đình không chỉ tham gia vào các quan hệ trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp…
mà còn tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh, thương mại, dịch vụ, tiểu thủ công
nghiệp, kể cả các quan hệ pháp luật phát sinh từ các hoạt động đó. Ví dụ: mua
nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, thuê mướn mặt bằng, sử dụng các dịch vụ kinh tế
xã hội, vay vốn ngân hàng để sản xuất, ký hợp đồng ủy thác xuất khẩu hàng hóa làm
ra, thuê nhân công… Sự hạn chế năng lực làm cho tư cách pháp lý của hộ gia đình so
với các chủ thể độc lập khác trở nên bất bình đẳng, họ không được quyền lựa chọn
các quan hệ pháp luật dân sự để tham gia. Do đó, không khuyến khích được các cá
nhân lập ra nhiều hộ gia đình hoặc tự thừa nhận mình là hộ gia đình, bởi như vậy
cũng có nghĩa là họ tự đặt mình vào một quy chế chủ thể bất lợi.
Đối với các cá nhân và pháp nhân thời điểm phát sinh và thời điểm chấm dứt
tư cách của các chủ thể được quy định rất rõ ràng, minh bạch. Nhưng suy từ những
quy định trên về hộ gia đình thì thời điểm ra đời hoặc chấm dứt tư cách của các chủ
thể hộ gia đình đơn giản phụ thuộc vào việc tham gia hoặc không tham gia vào một
quan hệ dân sự.
Như vậy, hộ gia đình là một tổ chức tự phát, tự sinh rồi tự diệt, pháp luật
chưa có căn cứ quy định sự khai sinh hoặc chấm dứt tư cách chủ thể của hộ gia đình.

Như vậy, tư cách chủ thể của hộ sẽ luôn thay đổi và không ổn định nên việc căn cứ
phát sinh năng lực chủ thể của hộ gia đình là hết sức cần thiết.
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
10
Chuyên đề tốt nghiệp
Khác với việc giao dịch với một cá nhân hoặc với một nhóm các đồng sở hữu
chủ tài sản chung, việc giao dịch với hộ gia đình không thể tiến hành cùng lúc với tất
cả các thành viên mà phải thông qua chủ hộ hay người đại diện hợp pháp của chủ hộ.
Chủ hộ gia đình là người có vai trò quan trọng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung của hộ, nhân danh cho tất cả các thành viên để xác lập, thực hiện
các giao dịch chung vì lợi ích chung của hộ. Hộ gia đình phải hợp tác chịu trách
nhiệm bằng tài sản chung của hộ, nếu tài sản chung không đủ để trả nợ chung thì tổ
viên chịu trách nhiệm liên đới theo phần đóng góp bằng tài sản riêng của mình.
Hộ gia đình chấm dứt trong các trường hợp như tài sản chung không còn, hoặc
các thành viên trong hộ đều đã chết, hoặc ly hôn, tách hộ để ra sống riêng, hoặc các
thành viên thỏa thuận chấm dứt hoạt động của hộ gia đình.
3.2. Doanh nghiệp công nghiệp
Doanh nghiệp công nghiệp theo nghĩa chung nhất là đơn vị sản xuất hàng hóa
và dịch vụ với quy mô lớn. Ở nghĩa hẹp hơn, doanh nghiệp công nghiệp là đơn vị sản
xuất hàng hóa vật chất với quy mô lớn.
Người quản lý doanh nghiệp có thể là chủ sở hữu, giám đốc doanh nghiệp tư
nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh, chủ tịch hội đồng thành viên, chủ
tịch công ty, thành viên hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc và các chức
danh khác do điều lệ công ty quy định.
Doanh nghiệp công nghiệp nhà nước có thể chia thành từng nhóm với tỷ lệ sở
hữu của nhà nước khác nhau. Việc đánh giá doanh nghiệp công nghiệp được thực
hiện bằng cách xem xét, so sánh số thống kê về mức độ đóng góp của từng nhóm vào
sản lượng, giá trị xuất khẩu hay số lượng việc làm… của ngành hay của toàn bộ nền
công nghiệp. Có nhiều chỉ số tài chính khác nhau có thể sử dụng để so sánh và đánh
giá doanh nghiệp công nghiệp. Các nhóm chỉ tiêu tài chính thường được sử dụng là:

khả năng thanh khoản, khả năng sinh lời và hệ số thử thị trường.
Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp công
nghiệp, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không phân biệt
hình thức sở hữu và thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động kinh doanh.
Đồng thời, doanh nghiệp có nghĩa vụ tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi để người lao
động thành lập và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh, chủ động chọn lựa ngành nghề, địa
bàn, hình thức kinh doanh, đầu tư, chủ động mở rộng quy mô ngành nghề kinh doanh
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
11
Chuyên đề tốt nghiệp
và được nhà nước khuyến khích, ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản xuất,
cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Có quyền chủ động ứng dụng khoa học công
nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh… Đồng
thời doanh nghiệp công nghiệp cũng như các hình thức doanh nghiệp khác phải thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình là hoạt động kinh doanh đúng ngành nghề đã ghi
trong giấy chứng nhận kinh doanh, đảm bảo điều kiện kinh doanh theo quy định của
pháp luật khi kinh doanh ngành nghề kinh doanh có điều kiện; tổ chức công tác kế
toán, lập và báo cáo tài chính trung thực, chính xác; bảo đảm quyền lợi của người lao
động theo quy định của pháp luật về lao động… Nói tóm lại, một doanh nghiệp công
nghiệp cần thực hiện đầy đủ mọi quyền lợi và nghĩa vụ đối với một doanh nghiệp đã
được quy định trong Luật doanh nghiệp của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
3.3. Khu công nghiệp – Cụm công nghiệp
Dưới áp lực của đô thị hóa và sự gia tăng dân số, các khu công nghiệp ra đời
như một tất yếu khách quan nhằm giải quyết những mâu thuẫn giữa nhu cầu và nhu
cầu có khả năng thanh toán. Nhưng sự ra đời của các khu công nghiệp chỉ dung hòa
một phần nào đó của mâu thuẫn trên. Và bản thân nó lại nảy sinh ra những mâu thuẫn
mới trong sự mất cân đối về sinh thái, sự gia tăng áp lực của con người lên môi

trường, sự biến đổi cấu trúc xã hội, những vấn đề liên quan đến sức khỏe cộng đồng,
đến rác thải công nghiệp…
Khái niệm khu công nghiệp ra đời cách đây hơn một thế kỷ. Khi đó người ta
xem xét nó như là một khái niệm về sự phân bố ngành nghề. Tuy nhiên, ngày nay
người ta thống nhất với nhau rằng khu công nghiệp là một nhóm các nhà máy phân
bố trên một khu vực địa lý xác định với sự thừa nhận của công ty chủ. Và gần đây
nhất, chính phủ đã đưa ra một khái niệm cụ thể: Khu công nghiệp là khu chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh
giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại
Nghị định số 29/2008/NĐ – CP.
Cụm công nghiệp là một số xí nghiệp bố trí gần nhau trên một mặt bằng thống
nhất. Các nhà máy trong cụm quan hệ với nhau về mặt hợp tác xây dựng và sử dụng
chung các công trình phụ trợ kỹ thuật, các công trình và mạng lưới kỹ thuật hạ tầng,
nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và giảm các chi phí quản lý khác.
Các khu công nghiệp ra đời nhằm góp phần giảm thiểu các chi phí xây dựng
cơ sở hạ tầng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế khu vực. Quản lý khu công nghiệp
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
12
Chuyên đề tốt nghiệp
theo hướng tập trung sẽ giảm thiểu được các chi phí không cần thiết như các chi phí
xử lý ô nhiễm môi trường, chi phí vận chuyển hàng hóa giữa các nhà máy, chi phí tạo
dựng cơ sở hạ tầng. Việc quản lý khu công nghiệp một cách hợp lý và tổ chức tốt sẽ
tạo thuận lợi cho sự vận hành và phát triển các khu công nghiệp theo hướng bền
vững. Vấn đề phá hủy môi trường có thể tránh được như vấn đề quy hoạch môi
trường được lồng ghép vào trong chiến lược phát triển khu công nghiệp ở mỗi quốc
gia. Mỗi khu công nghiệp có một mô hình tổ chức khác nhau, bởi vì nó có những đặc
trưng riêng về quy mô, về quyền sở hữu, về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên – kinh tế -
xã hội.
Khi quy hoạch môi trường cần phân định chức năng của khu công nghiệp để
đảm bảo việc hạn chế tối đa tác động môi trường tương hỗ giữa các đơn vị sản xuất

trong khu vực công nghiệp. Chẳng hạn, khu tập trung các đơn vị sản xuất thuộc
ngành công nghiệp không ổn định được bố trí bên ngoài khu công nghiệp, gia tăng
khoảng cách ly với khu dân cư, khu vực tập trung các đơn vị chế biến thực phẩm
không được bố trí tập trung ở gần khu vực có các đơn vị sản xuất khói, thải, bụi, hơi
độc. Việc quy hoạch môi trường cần chú ý nhiều đến tỷ lệ đất sử dụng vào mỗi mục
đích khác nhau. Ví dụ: đất cho cây xanh, đất cho giao thông, đất cho việc xây dựng
nhà xưởng…
3.4. Hợp tác xã công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
Hợp tác xã công nghiệp là tổ chức kinh tế tự chủ, do những người lao động có
nhu cầu, có lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức, lập ra theo quy định của pháp
luật để sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch
vụ công nghiệp. Hợp tác xã công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp là một tổ chức kinh tế
có tư cách pháp nhân, có tên gọi riêng, có địa chỉ cụ thể, có điều lệ riêng cho mình,
có mức vốn điều lệ, có tài khoản tại ngân hàng, có con dấu riêng và hoạt động theo
đúng pháp luật. Từ đó, Hợp tác xã được pháp luật công nhận, không thể có những tổ
chức “ma” đội lốt hợp tác xã công nghiệp để hoạt động trên thị trường.
Mọi người muốn tham gia hợp tác xã công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp để
trở thành xã viên đều phải nghiên cứu, hiểu rõ về Luật Hợp tác xã và Điều lệ mẫu
Hợp tác xã công nghiệp và xây dựng, trong đó đặc biệt là nguyên tắc tự nguyện, dân
chủ, lợi nhuận thuộc về xã viên, quan tâm đến lợi ích chung của Hợp tác xã. Tuy
nhiên, cần lưu ý là các xã viên phải trên 18 tuổi, có đủ tư cách và hành vi dân sự, số
xã viên phải có ít nhất là 9 người và 2/3 xã viên có nghề chuyên môn phù hợp. Tức là
khi thành lập hợp tác xã công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp phải có 6/9 người có
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
13
Chuyên đề tốt nghiệp
nghề với mục đích làm cho kết quả sản xuất kinh doanh có chất lượng, làm cho hợp
tác xã được bền vững lâu dài. Vì thế khi vận động để thành lập hợp tác xã phải chọn
cho được những người vừa có tay nghề cao vừa có nhiệt tình tham gia, làm cho hợp
tác xã thực sự là chỗ dựa của người lao động để góp vốn, góp sức làm ăn lâu dài.

Việc trích lập quỹ và chia lãi theo vốn góp của xã viên do đại hội xã viên
quyết định hàng năm. Do mỗi năm có những nhu cầu khác nhau về đầu tư, phát triển
của hợp tác xã như có năm cần mua thiết bị, có năm cần đào tạo nên ban quản trị phải
chuẩn bị kỹ và thuyết minh sự cần thiết cho từng loại quỹ rồi đưa ra Đại hội xã viên
để bàn bạc và biểu quyết. Và việc xử lý các khoản lỗ phải được làm rõ nguyên nhân
trách nhiệm cá nhân xã viên gây ra thì xã viên phải bồi thường cho Hợp tác xã theo
quy định của Đại hội xã viên.
Từ khi có Luật Hợp tác xã, nhất là sau khi Luật hợp tác xã mới ra đời năm
2003 đã diễn ra sự thay đổi cơ bản về cả lý luận và khuôn khổ pháp lý cho sự phát
triển lâu dài và bền vững của hợp tác xã, đã xuất hiện một số nhân tố mới, góp phần
làm rõ hơn mô hình hợp tác xã kiểu mới, gợi mở cách làm mới cho khu vực kinh tế
thị trường. Đa số các hợp tác xã sau khi chuyển đổi được củng cố một bước. Hoạt
động của hợp tác xã ngày càng ổn định và từng bước có sự phát triển, đa dạng và có
hiệu quả hơn do chuyển sang sản xuất kinh doanh, dịch vụ tổng hợp. Nhìn chung,
khu vực hợp tác xã công nghiệp đã thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, sáng tạo,
vượt qua khó khăn, hoạt động đa dạng để nắm bắt cơ hội sản xuất kinh doanh có hiệu
quả. Các hợp tác xã đã có các liên doanh, liên kết với nhau và với các thành phần
doanh nghiệp khác, tạo nên một sức mạnh tổng hợp để hỗ trợ nhau và thúc đẩy cùng
nhau phát triển một cách toàn diện và bền vững. Các hợp tác xã công nghiệp – tiểu
thủ công nghiệp trong các làng nghề, ngành nghề truyền thống đã từng bước được
khôi phục và có bước phát triển tốt hơn. Ở nhiều nơi, các hộ nghề đã tập hợp trong
các tổ hợp tác, hợp tác xã để gắn kết với nhau trong việc cung ứng vật tư, nguyên
liệu, kỹ thuật, cải tiến mẫu mã và tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt,
trong những năm gần đây, một số hợp tác xã đã mạnh dạn ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật, tổ chức sản xuất có bài bản, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn ISO… nên đã có hướng phát triển tốt, ổn định. Một số hợp tác xã đã đầu tư
chiều sâu và có quy mô sản xuất kinh doanh lớn, có thị trường ổn định, sản phẩm làm
ra có chất lượng và uy tín trên thị trường cả trong và ngoài nước.
4. Kinh nghiệm phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp ở một số địa
phương trên địa bàn tỉnh và một số tỉnh lân cận

Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
14
Chuyên đề tốt nghiệp
4.1. Phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp huyện Thái Thụy – Thái Bình
Về tình hình sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp:
Trong những tháng đầu năm 2008, do tình hình biến động của thị trường đã
tác động mạnh đến giá cả vật tư, ngày công lao động, nguồn nguyên liệu, tỷ giá hối
đoái làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất của các đơn vị, khó khăn hơn là các đơn vị sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ vì có liên quan đến xuất nhập khẩu của huyện Thái
Thụy. Sang quý II, chính phủ đã điều chỉnh lại bằng các giải pháp nhằm bình ổn thị
trường, kiềm chế lạm phát nên các nghề đã dần ổn định lại sản xuất, một số nghề có
chiều hướng phát triển tốt thu hút nhiều lao động như nghề móc sợi (thu hút trên
10.000 lao động), may mặc (thu hút 800 lao động), sản xuất gạch Tuynel thu hút 900
lao động.
Để đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất của đơn vị, trong 6 tháng đầu năm, tranh
thủ thời gian nông nhàn một số cơ sở sản xuất đã chủ động tổ chức đào tạo được trên
1.000 lao động, tập trung vào các nghề may mặc, mây tre đan, móc sợi, mộc và đá
mỹ nghệ. Ngoài ra, phòng công thương đã tổ chức rà soát, điều tra lại thực trạng hoạt
động của các làng nghề đồng thời chỉ đạo địa phương tiếp tục triển khai xây dựng các
làng nghề chế biến hải sản, làng nghề mây tre đan, móc sợi, làng nghề thêu ren. Và
đề nghị tỉnh chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương xây dựng kế hoạch phát triển công
nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, nghề và làng nghề năm 2008 theo quy định. Trên cơ
sở nội dung kế hoạch phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của các địa
phương sẽ tham mưu cho huyện định hướng chỉ đạo phát triển công nghiệp – tiểu thủ
công nghiệp, nghề và làng nghề, quan tâm những nghề thu hút nhiều lao động, phù
hợp với trình độ tay nghề người lao động ở nông thôn như may mặc, giầy da, móc
sợi, chế biến hải sản, cơ khí.
Về công tác khuyến công:
Để tăng cường, nâng cao chất lượng công tác khuyến công ở cơ sở, ngay từ
đầu năm phòng đã tổ chức buổi tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, hướng dẫn chỉ

đạo khuyến công viên thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ, đồng thời xây dựng chương
trình, kế hoạch phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp năm, tích cực tham mưu
cho chính quyền địa phương bằng các giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh phát triển
công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, nghề và làng nghề. Tuy nhiên do cơ chế phụ cấp
thấp, khuyến công viên chủ yếu là kiêm nhiệm nên chất lượng hoạt động khuyến
công viên một số địa phương chưa cao.
Công tác quy hoạch và xúc tiến đầu tư:
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
15
Chuyên đề tốt nghiệp
Đẩy mạnh công tác quy hoạch và xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm, điểm công
nghiệp tập trung. Tiếp tục triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp
Thụy Hà, phối hợp với sở Công thương triển khai quy hoạch khu công nghiệp Thái
Thọ, tiếp tục đề nghị tỉnh bố trí hỗ trợ vốn triển khai quy hoạch cụm công nghiệp
Thụy Phong, điểm công nghiệp Thụy Bình. Tham mưu cho Huyện ủy, ủy ban nhân
dân huyện và các ngành liên quan hướng dẫn thủ tục, tháo gỡ khó khăn, tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho các dự án sớm vào đầu tư phát triển sản xuất tại huyện và các dự
án mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong 6 tháng đầu năm, làn sóng đầu tư vào huyện
nhà có nhiều khởi sắc, đã thu hút được 9 dự án quy mô vừa và lớn đăng ký đầu tư với
giá trị đầu tư theo nội dung dự án là 2.048 tỷ đồng, nhu cầu 2.850 lao động. Đến nay,
đã có 3 dự án triển khai thực hiện đó là dự án của Công ty đóng tàu Đại Dương (hiện
đang san lấp mặt bằng, bắt đầu sản xuất các tổng đọan), dự án của Công ty trách
nhiệm hữu hạn May Gia Nguyễn (đã hoàn thiện nhà xưởng, hiện đang tổ chức đào
tạo nghề) và dự án may của cơ sở Trường An Phát (đang san lấp mặt bằng, đào tạo
nghề và sản xuất); 6 dự án còn lại đang chờ làm thủ tục thuê đất để triển khai thực
hiện là: Dự án xây dựng nhà máy chế biến nông thủy sản thực phẩm của Công ty
trách nhiệm hữu hạn Minh Phú tại xã Thái Thọ; dự án xây dựng nhà máy chế biến hải
sản của Công ty Dũng Thành Trung tại Thái Thượng; Dự án xây dựng nhà máy sản
xuất bột cá và chế biến thức ăn gia súc của Công ty trách nhiệm hữu hạn Austfeed
Việt Nam tại xã Thụy Hà; dự án xây dựng nhà máy đóng tàu của Công ty Cổ phần

tập đoàn du lịch vận tải thủy - bộ Xuân Hiếu tại xã Thái Thọ, Thái Thượng; dự án
xây dựng nhà máy đóng tàu của Công ty Nhật Mai tại Thái Thượng. Bên cạnh đó,
huyện tích cực quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ các doanh nghiệp trong huyện đầu tư
mở rộng quy mô sản xuất như doanh nghiệp Đạt Doan, doanh nghiệp Thiên Văn,
công ty Vĩnh Hướng …
4.2. Phát triển công nghiêp – tiểu thủ công nghiệp huyện Cẩm Thủy – Thanh Hóa
Những năm qua, cùng với phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, huyện Cẩm
Thủy đẩy mạnh sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, khai thác tiềm năng, thế
mạnh của địa phương, nâng cao hiệu quả kinh tế và thu nhập cho nhân dân. Đến nay,
trên địa bàn huyện có gần 3.000 cơ sở sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp,
các cơ sở kinh doanh cá thể, tạo việc làm cho hơn 8.000 lao động.
Để tạo điều kiện cho công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn phát
triển, Cẩm Thủy đã quy hoạch, xây dựng các cụm công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp, làng nghề trên địa bàn, đồng thời đẩy mạnh công tác thu hút đầu tư, du nhập
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
16
Chuyên đề tốt nghiệp
các ngành nghề mới như may bóng xuất khẩu, thêu, sản xuất vật liệu xây dựng, chế
biến nông sản… Nhiều địa phương đã tiến hành khôi phục các nghề truyền thống
bằng cách bảo lãnh, hỗ trợ cho các hộ được vay vốn để đổi mới thiết bị, mở rộng sản
xuất, kinh doanh. Với những nỗ lực cùng giải pháp phù hợp, thời gian gần đây, tổng
giá trị sản lượng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện tăng lên đáng
kể. Đến hết tháng 10, giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp toàn huyện
ước đạt trên 50 tỷ đồng, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2007. Trong đó, khối kinh tế
Nhà nước tăng gần 8%, khối kinh tế ngoài quốc doanh tăng trên 17,8%. Những ngành
chủ lực như chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, mộc dân dụng, đan các
loại... tăng trên 20% so với cùng kỳ năm 2007.
Ví dụ cơ sở chế biến nông sản của Công ty trách nhiệm hữu hạn Mạnh Tiến,
thôn Trung Tâm, xã Cẩm Châu có quy mô và giá trị đầu tư ở đây thực sự “tầm cỡ”.
Được thành lập năm 1999, Doanh nghiệp Mạnh Tiến chuyên về chế biến ngô sau thu

hoạch để xuất khẩu, kết hợp với dịch vụ thương mại tổng hợp. Cơ sở chế biến của
doanh nghiệp có tổng diện tích hơn 2 ha, với tổng số vốn đầu tư ban đầu ước trên 10
tỷ đồng. Mỗi năm, doanh nghiệp thu mua và chế biến trên 20.000 tấn ngô (chiếm trên
50% sản lượng ngô trong huyện); tổng doanh thu hàng năm trên 30 tỷ đồng; tạo công
ăn việc làm cho trên 100 lao động với mức thu nhập bình quân trên 1,2 triệu
đồng/người/tháng. Dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp có tổng vốn đầu tư khoảng
8 tỷ đồng, gồm 5 máy sấy với công suất chế biến 30.000 tấn ngô tươi/năm. Vừa qua,
để bảo đảm được nguồn điện trong sản xuất, doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng trạm
điện 100 kw với số tiền trên 300 triệu đồng. Dự kiến trong năm 2009, doanh nghiệp
sẽ tiếp tục đầu tư khoảng từ 3 đến 5 tỷ đồng lắp đặt một dây chuyền máy sấy liên
hoàn, tận dụng tối đa nguồn nguyên vật liệu tại chỗ và nâng cao hiệu quả sản xuất,
kinh doanh. Không chỉ thu mua nông sản trên địa bàn huyện phục vụ sản xuất, kinh
doanh xuất khẩu, doanh nghiệp còn mở rộng thu mua nông sản ra các huyện lân cận
và liên kết với các doanh nghiệp chế biến khác để mở rộng thị trường tiêu thụ. Anh
Lê Văn Mức, giám đốc doanh nghiệp cho biết: “Chính sách khuyến khích thu hút đầu
tư phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của huyện Cẩm Thủy là rất đúng
hướng. Cũng như nhiều doanh nghiệp khác, từ khi chúng tôi đầu tư thành lập, doanh
nghiệp luôn nhận được sự ủng hộ rất lớn của các cấp lãnh đạo trong huyện, mọi khó
khăn đều được giải quyết kịp thời, ít có sự phiền hà, sách nhiễu!”
Tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, thời gian tới, huyện Cẩm Thủy
sẽ kiện toàn lại ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 02 của Ban Chấp hành Đảng bộ
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
17
Chuyên đề tốt nghiệp
huyện về phát triển tiểu - thủ công nghiệp và ngành nghề giai đoạn 2006-2010, xây
dựng kế hoạch hoạt động, kế hoạch công tác cụ thể cho từng giai đoạn từ nay đến
năm 2010. Đồng thời, huyện có những cơ chế thông thoáng nhằm tạo môi trường
thuận lợi cho các nhà đầu tư. Ngoài ra, Cẩm Thủy tiến hành xây dựng kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ bộ máy quản lý và công nhân kỹ thuật trong các
doanh nghiệp, hợp tác xã; biểu dương, động viên kịp thời các doanh nghiệp làm ăn có

hiệu quả.
Với những giải pháp hữu hiệu, cách làm năng động, phát huy sức mạnh của cả
hệ thống chính trị trên địa bàn, Cẩm Thủy phấn đấu tạo ra bước đột phá mới trong
phát triển kinh tế nhằm hoàn thành tốt mục tiêu nghị quyết đại hội Đảng các cấp.
4.3. Phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp huyện Yên Lạc – Vĩnh Phúc
Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết về phát triển công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp, đến nay 17/17 xã, thị trấn của huyện Yên Lạc đã xây dựng quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất để xây dựng khu, cụm công nghiệp, làng nghề giai đoạn
2006-2010 với tổng diện tích trên 537 ha. Với lợi thế về quy hoạch và phát triển giao
thông, các xã phía bắc huyện đã quy hoạch phần lớn quỹ đất cho phát triển khu, cụm
công nghiệp, làng nghề (trong đó xã Đồng Cương là 147,3ha, Đồng Văn 137,5 ha,
Trung Nguyên 126 ha). Đến tháng 9-2008, huyện đã đền bù giải phóng và giao
32,3ha đất xây dựng làng nghề (làng nghề Tề Lỗ 26ha, thị trấn Yên Lạc 6,3 ha). 8/17
xã thị trấn đã triển khai quy hoạch chi tiết cụm công nghiệp làng nghề, trong đó có 2
xã, thị trấn đã được phê duyệt và triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật là Tề Lỗ và thị
trấn Yên Lạc, còn lại 6 xã đang khảo sát lập quy hoạch chi tiết. Để phát triển công
nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, ngoài việc thực hiện cơ chế chính sách hỗ trợ các nhà
đầu tư vào địa bàn theo Nghị quyết của Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân và kế hoạch
của Uỷ ban nhân dân huyện; huyện Yên Lạc đã chú trọng phát triển hạ tầng kỹ thuật
trong, ngoài khu công nghiệp và đào tạo nguồn nhân lực
Đến nay, huyện đã thi công và đưa vào sử dụng tuyến đường đôi trung tâm
huyện (giai đoạn 1), đường huyện Yên Đồng - Đại Tự, Lũng Hạ - Hồng Châu, đường
điếm số 7- Nhật Tiến, đường Văn Tiến - Can Bi, đường quốc lộ 2A - quốc lộ 2C qua
xã Đồng Văn, đường công an - Huyện ủy, đường tỉnh 305, 303. Tiếp tục triển khai thi
công các tuyến tỉnh lộ 304 Yên Đồng - Tam Hồng, tỉnh lộ 303 (gói thầu số 1), Cầu
Trắng- Ghềnh đá, đường đôi giai đoạn 2…và các tuyến liên thôn, liên xã.
Về điện đã triển khai thi công và đưa vào sử dụng dự án điện ReII cho 7 xã.
Tiếp tục thi công tuyến đường 35 kv từ Tam Hồng đi Tề Lỗ. Phối hợp với Điện lực
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
18

Chuyên đề tốt nghiệp
Vĩnh Phúc xây dựng các trạm biến áp phục vụ các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp đảm bảo cung cấp nguồn điện ổn định phục vụ sản xuất. Hệ thống
thoát nước và xử lý nước thải cung cấp nước sạch cho trung tâm huyện đã đi vào hoạt
động, cung cấp cho khu trung tâm và các vùng phụ cận…
Đối với cụm công nghiệp làng nghề Tề Lỗ, đến hết tháng 9 -2008 đã hoàn
thành trên 70% khối lượng xây dựng hạ tầng. Uỷ ban nhân dân huyện hiện đang tích
cực đôn đốc các nhà thầu khẩn trương thi công các hạng mục còn lại của dự án, phấn
đấu đến hết tháng 10-2008 cơ bản các hạng mục được hoàn thành. Dự án làng nghề
thị trấn Yên Lạc đã có trên 50% các hạng mục kỹ thuật được thi công xong.
Công tác đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp cũng được huyện quan tâm. Toàn huyện đã có 5 xã được bố trí cán bộ khuyến
công. Huyện đã phối hợp với Trung tâm khuyến công mở các lớp đào tạo mộc mỹ
nghệ tại làng Lũng Hạ, xã Yên Phương, mây tre đan tại Liên Châu, lớp học nghề kỹ
thuật và sản xuất chiếu trúc tại Công ty trách nhiệm hữu hạn và thương mại sông
Hồng. Tổ chức cho các xã, thị trấn tham quan mô hình phát triển ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp tại tỉnh Hà Nam, Hà Tây. Kết quả đã có nghề mới hình thành là nghề sản
xuất vỏ chăn kiểu Hàn Quốc, sản xuất đệm, giường, ghế, màn tuyn tại xã Yên Đồng,
sản xuất chiếu trúc tại Đồng Văn... Các cơ sở sản suất công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp ngày một tăng cả về số lượng, quy mô cũng như chất lượng sản phẩm. Đến
hết tháng 8-2008, trên địa bàn huyện Yên Lạc đã có 95 cơ sở sản xuất công nghiệp –
tiểu thủ công nghiệp, tăng 58 cơ sở so với năm 2004. Trong đó công ty trách nhiệm
hữu hạn có 49, tăng 42 công ty; doanh nghiệp tư nhân có 41, tăng 21 doanh nghiệp;
công ty cổ phần có 5, tăng 2 công ty so với năm 2004. Huyện có 4 làng nghề là: làng
nghề mộc truyền thống Lũng Hạ, xã Yên Phương, làng nghề mộc truyền thống Vĩnh
Đoài - thị trấn Yên Lạc; làng nghề chế biến tơ nhựa Tảo Phú xã Tam Hồng và làng
chế biến bông vải sợi thôn Gia xã Yên Đồng.
Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp 4 năm 2004 – 2008 đạt
trên 726 tỷ đồng, trong đó riêng năm 2008 thực hiện được 244 tỷ đồng, tăng trên 141
tỷ đồng so với năm 2004. Một số ngành nghề có số lượng sản phẩm và tỷ suất hàng

hoá cao như ngành sản xuất vật liệu xây dựng, giá trị sản xuất đạt 52.800 triệu đồng,
tăng 244%; ngành tái chế phôi thép, thép thành phẩm đạt trên 97.000 triệu đồng, tăng
319%; ngành tái chế nhựa, sản phẩm nhựa đạt 31 tỷ đồng, tăng 596% so năm 2004;
ngành chế biến gỗ sản xuất đồ mộc gần 70.000 triệu đồng, đều tăng so với năm
2004… Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp ở Yên Lạc hiện đang tạo việc làm cho
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
19
Chuyên đề tốt nghiệp
trên 10.000 lao động, tăng trên 4.000 lao động so với năm 2004, chiếm 13% tổng lao
động trên địa bàn.
Tuy nhiên do nguồn lực về ngân sách đầu tư cho hạ tầng còn hạn hẹp, cộng
với một số nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan khác như: cơ chế khuyến
khích của tỉnh chưa được khích lệ, việc tuyên truyền, quán triệt Nghị quyết về phát
triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp ở một số địa phương còn chậm, chưa thật
sâu rộng, chưa tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, cộng với việc đền bù giải
phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn. Nhiều doanh nghiệp đã hoạt động nhưng mặt
bằng sản xuất chật hẹp, xen kẽ trong khu vực dân cư, gây ảnh hưởng đến môi trường
sinh thái. Thêm vào đó năng lực về tài chính của các doanh nghiệp còn yếu kém…
Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp ở Yên Lạc tuy có tốc độ tăng
trưởng khá, nhưng phần lớn mang tính tự phát, quy mô nhỏ bé, công nghệ còn lạc
hậu sản phẩm chưa có sức cạnh tranh trên thị trường. Phần lớn các xã chưa xác định
ngành nghề cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế và lợi thế của địa phương. Ngoài ra
tiến độ triển khai dự án cụm công nghiệp làng nghề thị trấn Yên Lạc và Tề Lỗ vẫn
còn chậm. Công tác phát triển hạ tầng kỹ thuật như: đường giao thông, điện nước tiến
độ còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và
trao đổi hàng hoá trên địa bàn huyện.
Vì vậy để đạt được mục tiêu đến năm 2010, tỷ trọng công nghiệp – tiểu thủ
công nghiệp đạt từ 25% trở lên, giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
tăng gấp 2,5 lần so với năm 2004, huyện Yên Lạc đã đề ra nhiều giải pháp, trong đó
chú trọng đến công tác quy hoạch cụm công nghiệp làng nghề ở các xã còn lại trong

năm 2009 như: Đồng Văn, Trung Nguyên, Đồng Cương, Bình Định, Tam Hồng, Yên
Đồng và khu trại cá Minh Tân theo kế hoạch sử dụng đất của các địa phương để phát
triển các ngành nghề cán thép, tái chế nhựa, đan lát và chế biến nông sản, thực phẩm;
khôi phục phát triển ngành nghề truyền thống và du nhập một số ngành nghề mới để
xây dựng nhiều làng nghề. Đồng thời huy động nguồn vốn, đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng kỹ thuật và phát triển nguồn nhân lực như đào tạo nghề và bồi dưỡng cán bộ
quản lý.
4.4. Kinh nghiệm phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp cho huyện Yên
Hưng
Về quy hoạch và quản lý:
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
20
Chuyên đề tốt nghiệp
Bên cạnh các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế được thành lập và
hoạt động theo Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ, nhiều khu,
cụm và điểm công nghiệp địa phương đã được Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương trong cả nước quyết định thành lập và đầu tư xây dựng. Sự linh
hoạt trong việc quy hoạch và quản lý các khu công nghiệp một mặt giúp các địa
phương tận dụng được những lợi thế sẵn có của mình để phát triển công nghiệp,
nhưng bên cạnh đó cũng còn những bất cập. Vì vậy, việc thiết lập một hành lang
pháp lý thống nhất rõ ràng là cần thiết trong việc quy hoạch và quản lý các khu công
nghiệp này.
Quản lý các khu công nghiệp như thế nào là việc rất cần thiết phải học hỏi
kinh nghiệm của các tỉnh, địa phương khác. Giới hạn quản lý khu công nghiệp ở mỗi
nước, mỗi vùng khác nhau còn tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội của
nơi đó và tùy thuộc vào trình độ phát triển sản xuất cũng như trình độ quản lý. Vì
việc quản lý khu công nghiệp theo hướng tập trung tuy sẽ giảm thiểu được các chi
phí không cần thiết như các chi phí xử lý ô nhiễm môi trường, chi phí vận chuyển
hàng hóa giữa các nhà máy, chi phí tạo dựng cơ sở hạ tầng, nhưng việc quản lý tập
trung quá mức sẽ gây những bất lợi ngoài dự kiến như quản lý không hợp lý nguồn

tài nguyên thiên nhiên làm tiêu hao nguồn nhân lực, gây ô nhiễm môi trường, vốn
đầu tư không hiệu quả.
Đối với khu công nghiệp địa phương là không nên có những quy định giới hạn
về diện tích đất tối đa và tối thiểu vì điều này sẽ tạo ra khó khăn cho các địa phương
trong việc xây dựng và mở rộng trên cơ sở nhu cầu của các doanh nghiệp và tình hình
thực tế của địa phương. Tuy nhiên, cần phải có những quy định cụ thể nhằm quản lý
sử dụng đất đai xây dựng các khu công nghiệp địa phương một cách hiệu quả, tránh
tình trạng xin giấy phép xây dựng tràn lan và lãng phí. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng
các khu công nghiệp cũng sẽ có những rủi ro nhất định giống như bất kỳ hình thức
kinh doanh nào khác. Vì vậy cần tránh những quy định gây cản trở cho việc xây dựng
mới hoặc mở rộng các khu công nghiệp địa phương có tiềm năng, ví dụ như quy định
về số lượng các doanh nghiệp đăng ký ban đầu phải lấp đầy một tỷ lệ tối thiểu nào đó
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
21
Chuyên đề tốt nghiệp
thì khu công nghiệp địa phương mới được xây dựng hoặc mở rộng. Bên cạnh đó nên
có các ưu đãi đặc biệt để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng hạ tầng các
khu công nghiệp địa phương, đặc biệt là ở các làng nghề. Điều này vừa góp phần xã
hội hóa việc phát triển, vừa nâng cao hiệu quả xây dựng và quản lý các khu công
nghiệp địa phương.
Về mô hình đầu tư – hỗ trợ:
Đối với vấn đề thu hút các doanh nghiệp vào khu công nghiệp địa phương thì
thực tế hiện nay các khu công nghiệp địa phương thường tập trung thu hút các doanh
nghiệp có đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, có rất nhiều cơ sở sản xuất, đặc biệt là một
số lượng lớn các cơ sở sản xuất hộ gia đình ở các làng nghề không đăng ký kinh
doanh nhưng có quy mô hoạt động sản xuất khá lớn và nhiều tiềm năng. Những cơ sở
sản xuất này nếu được khuyến khích di chuyển từ khu vực dân cư chật hẹp vào các
khu công nghiệp địa phương sẽ không những phát triển mạnh hơn mà còn góp phần
làm giảm tác động ô nhiễm môi trường tới người dân trong làng nghề và tạo điều
kiện quản lý các cơ sở này tốt hơn. Việc quản lý các cơ sở trong khu công nghiệp địa

phương cần phải có những quy định cụ thể, rõ ràng, nhằm khuyến khích các cơ sở
sản xuất kinh doanh di chuyển vào.
Bên cạnh đó cần chú trọng tạo điều kiện và ưu đãi cho các doanh nghiệp sản
xuất các sản phẩm tương tự hoặc có liên quan đến nhau vào trong khu công nghiệp
địa phương. Đồng thời nên ưu đãi đặc biệt đối với các doanh nghiệp đầu tư vào khu
công nghiệp để thu mua, tiêu thụ hàng hóa cho các doanh nghiệp sản xuất khác nằm
trong khu công nghiệp địa phương hoặc nằm trong các làng nghề. Điều này có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các làng nghề vì tiêu thụ sản phẩm có lẽ là vấn đề
gay go nhất của các làng nghề nói riêng và của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói
chung trên cả nước hiện nay.
Về đào tạo nguồn nhân lực:
Đặc biệt, vấn đề cần quan tâm nhất đối với việc phát triển công nghiệp – tiểu
thủ công nghiệp trên cả nước nói chung và ở tất cả các địa phương nói riêng là đào
tạo lao động. Với một huyện có nền nông nghiệp thuần túy như Yên Hưng thì việc
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
22
Chuyên đề tốt nghiệp
học tập kinh nghiệm cuả huyện Thái Thụy, tranh thủ thời gian nông nhàn để đào tạo
lao động cho các làng nghề là hợp lý. Phòng công thương cần có những tham mưu
cho huyện định hướng chỉ đạo phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, quan
tâm những nghề thu hút nhiều lao động, phù hợp với trình độ tay nghề người lao
động ở nông thôn như may mặc, giầy da, móc sợi, chế biến hải sản, cơ khí. Khôi
phục các làng nghề truyền thống bằng cách bảo lãnh, hỗ trợ cho các hộ được vay vốn
để đổi mới thiết bị, mở rộng sản xuất, kinh doanh.
Về quản lý môi trường:
Cần có các quy định cụ thể và biện pháp hợp lý về vấn đề bảo vệ môi trường
khi phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, xây dựng cảng kho xăng dầu
và các khu đô thị mới. Như yêu cầu xây dựng hệ thống xử lý nước thải, khí thải, các
phương án khống chế ô nhiễm môi trường, vị trí đặt các cơ sở sản xuất tập trung,…
Tóm lại, có rất nhiều kinh nghiệm có thể học hỏi từ một vài huyện đã và đang

tiếp tục phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trên cả nước cần được áp dụng
một cách hợp lý cho sự phát triển công nghiêp – tiểu thủ công nghiệp huyện Yên
Hưng trong thời gian tới.
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
23
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP – TIỂU
THỦ CÔNG NGHIỆP CỦA HUYỆN YÊN HƯNG GIAI
ĐOẠN 2005 - 2008
1. Đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội của huyện Yên Hưng
1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Yên Hưng là một huyện ven biển ở phía Tây Nam tỉnh Quảng Ninh, có toạ độ
địa lý là 20
0
45’06” – 21
0
02’09” vĩ độ Bắc, 106
0
45’30” – 106
0
0’59” độ kinh Đông;
phía Đông giáp huyện Hoành Bồ, phía Tây Bắc giáp thị xã Uông Bí, phía Đông giáp
vịnh Hạ Long, phía Nam giáp đảo Cát Bà và cửa Nam Triệu, phía tây giáp huyện
Thủy Nguyên (thành phố Hải Phòng). Yên Hưng có hai trục đường quốc lộ đi qua là:
quốc lộ 18 (dài 8 km) và quốc lộ 10 (dài 14km). Huyện còn có hệ thống đường thủy
giao lưu với nhiều trung tâm kinh tế trong vùng, đặc biệt sông Chanh là tuyến giao
thông thủy quốc gia chạy qua dài trên 20 km.
Tổng diện tích tự nhiên của huyên Yên Hưng là 331,916km

2
(chiếm 5,43%
diện tích tự nhiên của tỉnh Quảng Ninh).
Toàn huyện có 20 đơn vị hành chính cấp cơ sở, gồm 19 xã và 1 thị trấn. Thị
trấn Quảng Yên là trung tâm văn hóa – chính trị của huyện, nằm cách không xa các
trung tâm công nghiệp – du lịch và dịch vụ lớn của cả nước: cách thành phố Hạ Long
30 km về phía Đông, cách thị xã Uông Bí 18 km về phía Tây Bắc, cách thành phố
Hải Phòng 12 km về phía Tây. Cùng với hệ thống giao thông thủy – bộ ngày càng
phát triển, các trung tâm này sẽ là những nhân tố ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong tương lai.
1.1.2. Đặc điểm địa hình
Yên Hưng nằm trong khu vực giáp ranh giữa vùng núi cánh cung Đông Bắc và
vùng đồng bằng ven biển phía Bắc với các dãy đồi núi chạy thấp dần về phía Nam, đan
xen với hệ thống sông rạch nên địa hình đa dạng phức tạp và bị chia cắt thành các đảo
nhỏ. Vì thế địa hình huyện có đủ các vùng đặc trưng như vùng núi, vùng đảo và đồng
bằng ven biển. Nhìn trên khía cạnh khác, Yên Hưng được chia hai vùng khác nhau: vùng
Hà Bắc và vùng đảo Hà Nam bởi song Chanh – một nhánh lớn của song Bạch Đằng.
Vùng Hà Bắc nằm bên tả ngạn sông Chanh gồm 11 xã và 1 thị trấn, rộng
201,77 km
2
, chiếm 61,8% diện tích tự nhiên toàn huyện. Địa hình chủ yếu là đồi núi
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
24
Chuyên đề tốt nghiệp
thấp, xen kẽ là những khu đất dốc thoải về phía biển. Các điểm cao của vùng này là
núi Bàn Cờ (450m), núi Na (225m) và núi Vũ Tướng (200m). Ở vùng này, các xã
Sông Khoai, Tân An và Hà An là vùng đất mới hình thành do khai hoang lấn biển nên
địa hình tương đối bằng phẳng. Các xã Đông Mai, Minh Thành, Cộng Hòa, Hiệp
Hòa, Tiền An là những xã đã được hình thành từ lâu, do quá trình phong hóa trên đá
mẹ và bồi tụ đất đai ở đây chủ yếu là đất dốc núi, gò đồi, ruộng bậc thang, xen kẽ là

các dải đất bằng hẹp... Ngoài ra trong vùng còn có 2 xã đảo Hoàng Tân và Điền
Công. Đảo Hoàng Tân địa hình chủ yếu là đồi núi, phần còn lại là đất cát pha cồn cát,
chịu ảnh hưởng của biển và các cửa sông bao quanh như sông Hốt, sông Bình Hương
và sông Bến Giang. Đảo Điền Công là vùng đất có địa hình tương đối bằng phẳng
được bồi đắp bởi sông Uông, sông Bạch Đằng và được bao bọc bởi 5,3 km đê biển
nên đất ít mặn, dễ cải tạo.
Vùng đảo Hà Nam nằm ở hữu ngạn sông Chanh gồm 8 xã là Nam Hòa, Cẩm
La, Phong Cốc, Phong Hải, Liên Hòa, Liên Vị, Tiền Phong với diện tích 126,28 km2,
chiếm 38,2% diện tích tự nhiên toàn huyện. Đây là vùng đất được khai phá từ thế kỷ
XV do quai đê lấn biển với cao trình 5,5 m. Vùng đất này địa hình bằng phẳng nhưng
thấp hơn so với mặt nước biển và chịu ảnh hưởng trực tiếp của biển nên đất chua
mặn là chủ yếu. Khu ngoài đê là vùng bãi triều đất rộng, gồm các bãi, cồn cát, sú vẹt
và rừng ngập mặn.
Nhiều khu vực rộng lớn bãi triều với diện tích hàng vạn ha của huyện đã và
đang được khoanh bao để nuôi trồng hải sản tạo điều kiện phát triển ngành thủy sản
như Đầm Nhà Mạc, khu Cái Tráp, Bình Hương, Hoàng Tân, Hà An, Điền Công…
1.1.3. Đặc trưng khí hậu
Là huyện trung du ven biển nên Yên Hưng chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới
gió mùa nóng ẩm và mưa nhiều. Nhiệt độ không khí của vùng thấp hơn 200m có tổng
tích ôn 8000
0
và nhiệt độ trung bình năm là 23,4
0
, vùng cao từ 200 – 500m có tổng tích
ôn dưới 7500
0
C, nhiệt độ trung bình năm 20 – 23
0
C. Do chịu ảnh hưởng của gió mùa
Đông Bắc nên mùa đông ở đây khá lạnh, nhiệt độ trung bình tháng giêng ở vùng ven

biển giao động từ 13 – 14
0
C. Nhiệt độ thấp tuyệt đối vào tháng 12 và tháng giêng là 3
0
C.
Nhiệt độ mùa hè khá cao, trị số trung bình tháng 7 hầu hết các nơi trong huyện dao động
từ 28 – 28,8
0
C. Nhiệt độ cao tuyệt đối đạt tới 37,9
0
C.
Lượng mưa trung bình hàng năm ở Yên Hưng khoảng 1.537mm. Năm có
lượng mưa lớn nhất là 2.636 mm, nhỏ nhất là 916 mm. Mưa ở Yên Hưng phân bố
không đều trong năm, phân hóa theo mùa tạo ra 2 mùa trái ngược nhau là mùa mưa
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Kinh tế phát triển 47A - QN
25

×