Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

BÀI THU HOẠCH môn quan hệ quốc tế đường lối đối ngoại của đảng và nhà nước việt nam và liên hệ thực tiễn địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.83 KB, 29 trang )

BÀI THU HOẠCH MÔN

QUAN HỆ QUỐC TẾ
“ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ LIÊN
HỆ THỰC TIỄN ĐỊA PHƯƠNG”

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1



3


4
MỞ ĐẦU
Thế giới đương đại đang có những chuyển biến lớn lao với biết bao sự kiện
diễn ra một cách nhanh chóng, vừa mang đến cho con người những thời cơ, vận hội
và thắp sáng những hi vọng tương lai, lại vừa đặt ra trước mắt những nguy cơ, thách
thức và những lo lắng bất an. Rõ ràng là chưa bao giờ như bây giờ, thế giới đã và
đang trở thành thế giới toàn cầu, cả thế giới là một thị trường, hàng tỷ người ở mọi
vùng miền khác nhau có thể cùng xem một trận bóng đá, cùng thưởng thức những
chương trình văn hóa nghệ thuật, cùng theo dõi những sự kiện trọng đại đang diễn
ra trên trái đất. Với tác động của khoa học công nghệ, thế giới như được phẳng ra,
những khoảng cách về không gian đang thu hẹp lại bởi giao thông đa phương tiện
hết sức nhanh chóng, thuận lợi và thơng tin liên lạc ngày càng dễ dàng, thơng suốt.
Các sản phẩm hàng hóa tiêu dùng cho con người ngày càng thông minh hơn, đi
trước và hướng dẫn cảm thụ tiêu dùng của con người.
Nhưng cũng có mặt khác của thế giới rất đáng lo ngại. Đó là những vấn đề


nóng bỏng từ giải trừ vũ khí hạt nhân đến biến đổi khí hậu; sự cạn kiệt nguồn lực,
những dịch bệnh, đói nghèo dai dẳng hàng tỷ người sống dưới đáy đến những cuộc
khủng hoảng kinh tế; chủ nghĩa khủng bố quốc tế đang lan rộng cùng với nạn buôn
người, tội phạm xuyên biên giới; khơng khí thù hận cùng với tiếng bom rơi, đạn nổ
vẫn đang gây ra những cảnh chết chóc thảm khốc ở nhiều nơi. Tất cả điều đó đặt ra
cho chúng ta phải có cách nhìn nhận hết sức khoa học về tình hình thế giới hiện
nay, từ đó đưa ra những chủ trương và cách thức để tận dụng cơ hội cũng như để
vượt qua những thách thức không hề nhỏ.
Ngày nay, Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, cơng
tác đối ngoại, đã góp phần lớn vào việc giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, tối đa hóa
lợi ích quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế, mở rộng thị
trường, thu hút công nghệ để đưa đất nước ngày càng phát
triển. Việc thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, ngành Ngoại giao
đã khơi thông, mở rộng và đưa quan hệ với nhiều đối tác ngày
càng đi vào chiều sâu. Với chủ trương đường lối và quyết sách
đúng đắn của Đảng, đất nước đã thoát khỏi những khủng hoảng


5
kinh tế - xã hội trong lịch sử, tạo ra tiền đề cần thiết cho
giai đoạn phát triển mới của đất nước.



NỘI DUNG
1. CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ ĐỔI MỚI (TỪ NĂM 1986 ĐẾN

NAY)
Đường lối, chính sách đối ngoại của một nhà nước quốc gia là tổng thể các
quan điểm xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và phượng châm chỉ đạo
các hoạt động đối ngoại mà quốc gia đó thể hiện trong quan hệ với các nhà nước
quốc gia và các chủ thể khác trong quan hệ quốc tế nhằm mục đích thực hiện thắng
lợi những lợi ích của quốc gia dân tộc và của giai cấp cầm quyền trong từng giai
đoạn lịch sử. Như vậy, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là hệ thống
quan điểm về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, phương châm chỉ đạo
hoạt động của nước ta với bên ngồi nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc chân
chính, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì mục
tiêu của thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
1.1.

Cơ sở hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã thông qua đường

lối đổi mới tồn diện, trong đó có đổi mới lĩnh vực hoạt động đối ngoại. Đường lối
đối ngoại của Đảng và Nhà nước thời kỳ đổi mới được hoạch định trên những cơ sở
chủ yếu sau:
1.1.1.

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại
Trong q trình hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới, Đảng

và Nhà nước luôn kiên định lập trường, quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, coi đây là cơ sở lý luận và là vấn đề có tính ngun tắc, bởi vì:
- Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tường Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim
chỉ nam cho hành động của Đảng ta. Những nội dung có tính khoa học và cách
mạng về thời đại, về vấn đề dân tộc và quốc tế, về quan hệ quốc tế và chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân, về tư tưởng cùng tồn tại hịa bình giữa các nước có

chế độ chính trị - xã hội khác nhau, về quyền dân tộc tự quyết trong quan hệ quốc


tế... trong học thuyết Mác-Lênin luôn được Đảng chú trọng nghiên cứu và vận dụng
sáng tạo trong bối cảnh thế giới mới và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
- Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống các quan điểm về
đường lối chiến lược và sách lược đối với các vấn đề quốc tế và quan hệ quốc tế. Tư
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thể hiện trên các vấn đề lớn, mang tính chiến lược
như:
Một là, độc lập dân tộc: Đây vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là phương châm
hành động của ngoại giao Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam phải
luôn giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tự mình quyết định đường lối, chủ trương
của mình. Điều đó cũng có nghĩa, chỉ trên tinh thần độc lập dân tộc, Đảng ta mới
nắm được tình hình cụ thể, khả năng, lợi ích của đất nước, từ đó mà đề ra chủ
trương, chính sách phù hợp để đạt được mục tiêu đã xác định. Vấn đề này càng
quan trọng trong bối cảnh the giới ngày nay, khi lợi ích quốc gia “ dân tộc được đặt
lên hàng đầu trong quan hệ quốc tế.
Hai là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại: Theo Hồ Chí Minh,
sức mạnh dân tộc bao gồm sức mạnh vật chất (sức mạnh cứng) thể hiện ở sức mạnh
kinh tế, chính trị, quân sự... và sức mạnh tinh thần (sức mạnh mềm) như: tính chính
nghĩa của những mục tiêu mà dân tộc Việt Nam theo đuổi; truyền thống yêu nước
nồng nàn, ý chí quật cường chống ngoại xâm; nền văn hóa dân tộc được xây dựng
qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; vị trí địa-chính trị và địa-kinh tế quan
trọng...
Sức mạnh dân tộc là sức mạnh của thế và lực của đất nước sau 35 năm đổi
mới; sức mạnh tổng thể của Nhà nước và nhân dân, của kinh tế, quân sự, dân số,
lãnh thổ; sức mạnh của các giá trị lịch sử, truyền thống, văn hóa, tinh thần yêu
nước, tinh thần lao động cần cù và ý chí vươn lên của con người Việt Nam.
Sức mạnh thời đại thể hiện qua các trào lưu lớn của thời đại như: nội dung
chủ yếu của thời đại ngày nay, phong trào độc lập dân tộc, phong trào dân chủ và

tiến bộ xã hội, cũng như các xu thế lớn của thế giới


Ba là, ngoại giao tâm cơng: Đó là nền ngoại giao đề cao tính chất chính
nghĩa, đánh vào lịng người bằng chính nghĩa, bằng lẽ phải, đạo lý và nhân tính; là
nền ngoại giao mang tính nhân bản sâu sắc, phù hợp với khát vọng hịa bình, tự do,
cơng lý; là nền ngoại giao coi phong trào tiến bộ của nhân dân thế giới là lực lượng
của mình, giữ gìn và củng cố sự đồn kết nhất trí giữa các nước xã hội chủ nghĩa...
Bốn là, ngoại giao hòa hiếu với các dân tộc khác: Đó là nền ngoại giao theo
đuổi phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn
đồng minh hơn hết” và đây cũng thể hiện tỉnh nhân văn của dân tộc Việt Nam. Đó
là nền ngoại giao ln dành mối quan tâm hàng đầu cho nhiệm vụ cúng cố quan hệ
với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, tập trung nỗ lực thiết lập và củng
cố quan hệ với các nước lớn, đồng thời tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với
mọi quốc gia khác trên thế giới.
Năm là, ngoại giao “dĩ bất biến, ứng vạn biến ”: Đó là nền ngoại giao kiên
trì trong ngun tắc nhưng linh hoạt, mềm mỏng, khéo léo trong sách lược. Đối với
Hồ Chí Minh, vấn đề có tính bất biến là nguyên tắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Song để đạt được mục tiêu đó, phương thức thực
hiện phải thiên biến vạn hóa, khi cương khi nhu, khi tiến khi lui tùy theo tùng vấn
đề, thời điểm và bối cảnh cụ thể.
Sáu là, ngoại giao nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước: Đó là nền
ngoại giao phải biết nắm vững thời cơ, chủ động tạo lập thời cơ, đồng thời chủ động
tấn công giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
1.1.2.

Truyền thống ngoại giao của dân tộc
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, các thế hệ cha ông

chúng ta đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm đối ngoại quý báu mà Đảng ta cần

quán triệt và vận dụng nó trong điều kiện mới. Một trong những nét nổi bật hàng
đầu trong truyền thống ngoại giao của dân tộc là truyền thống ngoại giao hịa bình,
hữu nghị. Đây là sự thể hiện tư tưởng đối ngoại nhân văn, hòa hiếu bắt nguồn từ
chiều sâu bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời, đây cũng c ịn được quy định bởi vai
trị, vị trí địa-chiến lược, địa-chính trị quan trọng của nước ta ở khu vực. Truyền


thống ngoại giao của dân tộc Việt Nam có thể khái quát ở những vấn đề sau: (1) giữ
vững nguyên tắc độc lập tự chủ và chủ quyền quốc gia; (2) ngoại giao vì hịa bình,
hịa hiếu, hữu nghị, khoan dung; (3) ngoại giao rộng mở, biết tiếp thu thành tựu văn
minh nhân loại để phát triển; (4) ngoại giao với tinh thần chủ động, khơn khéo, sáng
tạo, linh hoạt...
1.1.3.

Tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong nước Bước vào thời kỳ

đổi mới, đất nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thử thách to lớn:
khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nền kinh tể nhiều năm tăng trường âm
và siêu lạm phát, khiến cho đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Trên
lĩnh vực đối ngoại, nước ta bị bao vây, cấm vận về kinh tế, bị cơ lập
về chính trị. Đây là thời kỳ khó khăn nhất của nước ta sau ngày thống
nhất đất nước. Trong bối cảnh đó, Đại hội VI của Đảng thông qua
đương lối đổi mới tồn diện, trong đó xác định rõ: Nhiệm vụ bao
trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu
tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng
những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Với chủ trương đó, Đại hội VI đã
xác định nhiệm vụ có tính cấp bách trước mắt là giải phóng sức sản
xuất, tập trung phát triển kinh tế - xã hội để nhanh chóng thốt ra khỏi
tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá thế bị bao vây, cấm vận,

cô lập và mở rộng quan hệ đối ngoại.
Những Đại hội sau đó xác định nhỉệm vụ cơ bản, lâu dàỉ là sớm đưa Việt
Nam thốt khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”.
Là một bộ phận hợp thành đường lối chung của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đường lối đối ngoại của Đảng phải góp phần tận dụng thời cơ, thuận lợi, đưa đất
nước vượt qua những khó khăn thách thức đang đặt ra nhằm thực hiện thắng lợi


những mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đường lối đối
ngoại thời kỳ đổi mới của Đảng được hoạch định nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực
bên ngồi, kết hợp một cách có hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
phục vụ mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, cơng bằng, văn minh.
1.1.4. Tình hình thế giới và khu vực
Tình hình thế giới và khu vực từ sau Chiến tranh lạnh đến nay nổi lên một số
đặc điểm và xu thế vận động chủ yếu tác động đến việc hoạch định đường lối đối
ngoại của Việt Nam, cụ thể như sau:
Thứ nhất, cục diện chính trị - an ninh thế giới có nhiều chuyển biến lớn,
trong đó nổi bật là sự thay đổi lớn trong tương quan lực lượng giữa các nước lớn.
Cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa ở
các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Liên Xô tan rã, trật tự thế giới hai cực chấm
dứt đã làm đảo lộn các quan hệ liên minh kinh tế, chính trị, quân sự được thiết lập
trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Tương quan lực lượng thế giới cũng có sự thay đổi
nghiêng hẳn về phía có lợi cho chủ nghĩa tư bản.
Trong thời kỳ quá độ hình thành trật tự thế giới mới, tất cả các nước trên thế
giới tuy ở các mức độ khác nhau đều đứng trước những thách thức mới...
Đặc biệt, trong quá trình hình thành trật tự thế giới sau Chiến tranh lạnh,

tương quan lực lượng của thế giới có sự thay đổi lớn, bản đồ quyền lực có sự
chuyển dịch. Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ, trong khi Mỹ tiếp tục suy yếu
tương đối. Bên cạnh đó, sự trỗi dậy của một số cường quốc trong nhóm BRICS
đang gây sức ép phải xây dựng luật chơi mới trong quan hệ quốc tế ngày càng tăng.
Đứng trước những vấn đề nêu trên, các nước trên thế giới thời kỳ sau Chiến
tranh lạnh đều tập trung ưu tiên nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội ở
trong nước, đồng thời đấu tranh để tạo lập môi trường quốc tế và khu vực hịa bình,
ổn định, giành lấy những điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của đất nước
mình. Do đó, hịa bình, ổn định, hợp tác để phát triển trở thành xu thế lớn, phản ánh
đòi hỏi bức xúc của các quốc gia trên the giới trong giai đoạn hiện nay của thời đại.


Thứ hai, sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0 đang tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Sự phát triển khoa học - công nghệ đã và đang tác động sâu rộng đến mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội và quan hệ quốc tế. Ngày nay, khoa học - công nghệ đã
trở thành lực lượng sản xuất nịng cốt và trực tiếp của xã hội; trí tuệ và kỹ năng có
vai trị mấu chốt trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển khoa
học - cơng nghệ góp phần làm thay đổi vị thế của mỗi một quốc gia trong quan hệ
quốc tế.
Tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 càng làm cho sự
tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong nền sản xuất được quốc tế hóa, khiến cho
xu hướng đa dạng hóa quan hệ đối ngoại của các nước trở thành đòi hỏi khách quan.
Các nước ra sức mở rộng quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội
khác nhau, với tất cả những ai có khả năng hợp tác hiệu quả; việc xác định bạn thù, hình thức và mức độ quan hệ cũng trở nên rất linh hoạt.
Một đặc điểm khác của thể giới trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp 4.0
là tồn cầu hóa với nền kinh tế số. Tồn cầu hóa là một q trình khách quan, lơi
cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Là quá trình khách quan, là nấc thang phát
triển của nhân loại, toàn cầu hóa đem lại cơ hội cho mọi quốc gia - dân tộc cùng
phát triển. Tuy nhiên, q trình tồn cầu hóa được thực hiện bởi các nhân tố chủ

quan, mà lợi thế thuộc về các nước phát triển, đứng đầu là Mỹ.
Hơn nữa, nền kinh tế số là kết quả của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ
dẫn tới sự dịch chuyển quyền lực toàn cầu trên cả phương diện không gian địa lý và
chủ thể quyền lực. Trong nền kinh tế số, cạnh tranh quốc tế sẽ tập trung trong không
gian số, trên lĩnh vực kinh tế, khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng
cao. Cuộc cạnh tranh này sẽ có tác động quan trọng tới việc hình thành những hình
thức hợp tác, những tuyến lợi ích, những tập hợp lực lượng mới trên thế giới, có ý
nghĩa quyết định đối với việc đẩy nhanh quá trình định hình những đường nét cơ
bản của trật tự kinh tế khu vực, quốc tế mới, nhất là ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương.


Thứ ba, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, nhất là ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Một đặc điểm nổi bật của thế giới trong giai đoạn hiện nay là các nước lớn
và quan hệ giữa các nước lớn trở thành nhân tố có vai trị quan trọng đến sự phát
triển thế giới. Trong thập niên gần đây, các nước lớn có nhiều điều chỉnh quan trọng
theo hướng đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, đặc biệt là Trung Quốc và Mỹ. Kể từ
Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2017, Trung Quốc cơ bản đã từ bỏ
phương châm “giấu mình chờ thời” sang hướng “chủ động hơn, cứng rắn hơn”,
quyết đốn theo đuổi lợi ích cốt lõi, kể cả ở Biển Đông. Nước Mỹ trong nhiệm kỳ
của Tổng thống D.Trump thực hiện phương châm “Nước Mỹ trên hết”, theo đó, các
chính sách được triển khai theo hướng thực dụng, coi trọng cơ chế hợp tác song
phương hơn đa phương. Các nước lớn và trung tâm quyền lực khác như Nga, Nhật
Bản, Ân Độ, EU cũng có những điều chỉnh theo hướng ngày càng đề cao lợi ích
quốc gia - dân tộc.
Đặc biệt, ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cạnh tranh chiến lược giữa
Mỹ và Trung Quốc đã chuyển sang giai đoạn gay gắt hơn, quyết liệt hơn. Nhìn
chung, thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, cùng với xu thế hịa bình, hợp tác vì phát triển,
các nước lớn, một mặt, thường thỏa hiệp với Mỹ để tìm tiếng nói chung nhằm tăng

cường hợp tác; mặt khác, lại đấu tranh gay gắt với nhau nhằm giành lấy những điều
kiện thuận lợi nhất cho phát triển cũng như khẳng định vị thế của nước mình trong
trật tự thế giới mới đang trong quá trình hình thành, chống tham vọng thiết lập trật
tự thế giới đơn cực do Mỹ lãnh đạo.
Thứ tư, nhiều vấn đề mang tính tồn cầu nổi lên, tác động lớn đến đời sống
quan hệ quốc tế.
Nhân loại ngày nay đang đối phó với nhiều vấn đề mang tính tồn cầu cấp
bách địi hỏi phải có sự hợp tác đa phương để giải quyết. Đại dịch Covid- 19 hiện
nay là một ví dụ. Những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế nhiều năm qua đã đưa
lại một số kết quả quan trọng. Tuy nhiên, do tính chất nghiêm trọng và phức tạp của
những vấn đề toàn cầu tiếp tục địi hỏi các nước phải tích cực phối hợp, hợp tác một


cách hiệu quả, thiết thực cả trong khuôn khổ song phương cũng như đa phương.
Đây cũng là nguyên nhân khách quan của xu thế hợp tác trong quan hệ quốc tế giai
đoạn hiện nay.
Thứ năm, tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, châu Á - Thái Bình Dương trở thành khu
vực phát triển năng động, góp phần vào sự phát triển chung của thế giới. Cùng với
vị thế quổc te ngày càng tăng, châu Á - Thái Bình Dương cũng là nơi diễn ra sự
tranh giành ảnh hưởng một cách quyết liệt giữa các nước lớn. Những biến đổi sâu
sắc của mơi trường địa-chính trị và địa-kinh té tại châu Á - Thái Bình Dương kể từ
khi kết thúc Chiến tranh lạnh đã mở ra một không gian phát triển mới cho khu vực
và tạo nên vị thế mới của châu Á - Thái Bình Dương trong quan hệ quốc tế. Có thể
nói, vai trị của châu Á - Thái Bình Dương trong quan hệ quốc tế ngày càng quan
trọng hơn xét trên cả hai phương diện: chính trị - an ninh và kinh tế.
Tuy nhiên, tình hình an ninh chính trị châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục
diễn biến rất phức tạp. Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và các thực thể quyền lực khác
đã tạo nên cục diện ganh đua quyết liệt, tập hợp lực lượng, hịa hỗn, liên kết đa
phương đa diện, cạnh tranh và hợp tác hết sức năng động, tùy thuộc lẫn nhau vô

cùng sâu sắc. Ở châu Á - Thái Bình Dương hiện vẫn cịn tồn tại nhiều yếu tố có khả
năng gây mất ổn định, địi hỏi phải có sự tham gia mạnh mẽ của các nước liên quan
để giải quyết. Đáng chú ý nhất là chương trình hạt nhân của Cộng hịa Dân chủ
nhân dân Triều Tiên, vấn đề eo biển Đài Loan và những mâu thuẫn, xung đột chủ
quyền ở Biển Đông và Biển Hoa Đơng...
1.2. Q trình hình thành, phát triển đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới
Đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới được hình thành qua một quá trình, khởi
đầu từ Đại hội VI của Đảng và tiếp tục được bổ sung, phát triển, hoàn thiện ở các
Đại hội Đảng tiếp theo. Có thể chia q trình này thành ba giai đoạn:
1.2.1.

Giai đoạn từ Đại hội VI của Đảng (1986) đến năm 1995
Đây là giai đoạn hình thành đường lối đối ngoại đổi mới, đồng thời phá thế

bị bao vây cấm vận về kinh tế, bị cô lập về chính trị, thể hiện qua các văn kiện sau:


-

Đại hội VI của Đảng khởi xưởng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
đồng thời cũng mở đầu quá trinh hình thành chính sách đối ngoại thời kỳ đổi
mới. Đại hội xác định nhiệm vụ hàng đầu là tranh thủ điều kiện quổc tế
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quổc. Để
góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này, Đảng ta, trên cơ sở phân tích tình
hình thế giới và trong nước, đã nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới tư duy
đổi ngoại, thực hiện chính sách đối ngoại thêm bạn, bớt thù; phá thế bị bao
vây, cẩm vận; mở rộng quan hệ quốc tế, theo đó phương hướng đối ngoại
được xác định là:
+ Phát triển và củng cố quan hệ hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia,


trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền mỗi nước.
+ Đồn kết và hợp tác tồn diện với Liên Xơ là hịn đá tảng trong chính sách
đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
+ sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ Việt Nam Trung Quốc, tiến tới bình thường hóa quan hệ.
+ Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hịa
bình.
-

Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI (1988) là bước ngoặt, có tính đột
phá về đổi mới tư duy đối ngoại, đánh dấu sự hình thành bước đầu chính
sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa. Với nhận thức mới đúng đắn,
tồn diện hơn về vấn đề an ninh,_bao gồm cả yếu tố bên ngoài và yếu tố bên
trong, Đảng ta xác định nhiệm vụ đối ngoại chuyển từ chỗ chú trọng nhân tố
chính trị - quân sự sang ưu tiên cho nhân tố kinh tế, ưu tiên giữ vững hịa
bình, độc lập dân tộc, có cách tiếp cận tồn diện hơn về tình hình thế giới và
khu vực.

-

Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (1989) là sự phát triển tiếp theo của đổi mới
tư duy đối ngoại. Hội nghị đã nhận thức nhiều vấn đề đối ngoại càn phải giải
quyết, trong đó một lần nữa tái khẳng định đối ngoại phải chuyển từ chính
trị-an ninh là chủ yếu sang chính trị - kinh tế là chủ yếu...


-

Đại hội VII của Đảng (1991) là bước phát triển mới trong việc hình thành
chính sách đối ngoại đổi mới. Đại hội xác định nhiệm vụ đối ngoại là giữ
vững hịa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và họp tác, tạo điều kiện quốc tế

thuận lợi cho công Cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cũng tại Đại hội này,
lần đầu tiên Đảng ta đưa ra phương châm chiến lược trong chính sách đối
ngoại: “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”, đồng thời khẳng định chính sách đối
ngoại hịa bình, độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Nhà nước
Việt Nam.

-

Khẳng định mục tiêu của đối ngoại là giữ vững hịa bình, mờ rộng quan hệ
hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (1992)
đã nêu ra 4 phương châm chỉ đạo, xử lý các vấn đề quốc tế: (1) bảo đảm lợi
ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; (2) giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự
cường, đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; (3) nắm
vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; (4) tham gia hợp
tác với các nước trong khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các
nước, chú trọng quan hệ với các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn. Bốn
phương châm này được xem là cẩm nang trong xử lý các vấn đề đối ngoại
cho mọi cấp, mọi ngành và mọi địa phương.
Với chính sách đối ngoại đúng đắn, ngồi việc huy động nguồn lực từ bên

ngoài để cùng nguồn lực trong nước, chúng ta không những đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, mà còn phá được thế bị bao vây, cấm vận về kinh tế,
bị cô lập về chính trị, tạo điều kiện thuận lợi để đất nước bước vào chặng đường
phát triển mới “ chặng đường đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2.2.

Giai đoạn từ sau Đại hội VIII (1996) đến năm 2010 - giai đoạn


mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế


Trước những biến đổi của tình hình thế giới và xuất phát từ nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam, các Đại hội VIII, IX và X của Đảng tiếp tục bổ sung, phát
triển đường lối đối ngoại đổi mới, cụ thể như sau:
-

Đại hội VIII của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đối ngoại đổi
mới. Trên cơ sở thế và lực mới của nước ta, Đại hội lần đầu tiên nêu nhiệm
vụ hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo hướng xây dựng nền kình tế mở,
đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thể giới. Đây là điểm khởi
đầu quan trọng cho một chủ trương đối ngoại lớn và xuyên suốt của Đảng là
hội nhập kinh tế quốc tế (và đến nay là hội nhập quốc tế). Đại hội VIII cũng
đồng thời tuyên bố “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.

-

Đại hội IX của Đảng (2001) bổ sung làm rõ thêm chính sách đối ngoại độc
lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Tại
Đại hội này, lần đầu tiên Đảng ta đưa ra chủ trương chủ động hội nhập kình
tể quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, bảo vệ mơi trường. Phát triển quan điểm mở rộng quan hệ đối ngoại của
Đại hội VII và VIII, Đại hội IX nêu rõ: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập
và phát triển”.


-

Đại hội X của Đảng (2006) tiếp tục bổ sung đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới với
tuyên bố: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tể và khu vực... Đưa các quan hệ quốc
tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định và bền vững”. Đại hội cũng bổ sung quan
điểm hội nhập quốc tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế.
Với chủ trương đúng đắn này, quan hệ đối ngoại của Việt Nam không ngùng
được mở rộng. Đến cuối năm 2010, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 179 nước,


quan hệ kinh tế - thương mại với 224 quốc gia và vùng lãnh thổ, thu hút ngày càng
nhiều nguồn lực quý báu cho phát triển kinh tế - xã hội nước nhà. Đây cũng là giai
đoạn Việt Nam đẩy mạnh hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
1.2.3.

Giai đoạn từ sau Đại hội XI (2011) đến nay - giai đoạn đưa

các quan hệ đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế toàn diện
-

Tại Đại hội XI của Đảng, đường lối đối ngoại tiếp tục bổ sung, hoàn thiện.
Tại Đại hội này, lần đầu tiên Đảng xác định mục tiêu hàng đầu của đối ngoại
là “vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh”. Như vậy, lợi ích quốc gia - dân tộc là tiêu chí hàng đầu để xác định
hợp tác và đấu tranh, là đối tác và đối tượng. Cũng tại Đại hội XI, trên cơ sở
thé và lực mới của Việt Nam trên trường quốc tế, Đảng đưa ra chủ trương
“chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên

có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Như vậy, Đảng đã chuyển nội dung
trọng tâm của đối ngoại từ hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế sang hội
nhập quốc tế một cách toàn diện.

-

Đại hội XII của Đảng (2016), trên cơ sở kế thừa những nội dung đối ngoại
của các Đại hội trước đó, đã nhấn mạnh mục tiêu hàng đầu của đối ngoại là
phải bảo đảm lợi ích tổỉ cao của quổc gia - dân tộc, xác định nhiệm vụ đối
ngoại là phải nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc... Đại hội XII cũng
nhận thấy tầm quan trọng của ngoại giao đa phương trong quan hệ quốc tế
hiện nay và nhấn mạnh nhiệm vụ đối ngoại là phải “tiếp tục đưa các mối
quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối
ngoại đa phương, chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể
chế đa phương”.
Đại hội XIII của Đảng (2021) tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán

đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia -


dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật
pháp quốc tế..., chủ động và tích cực hội nhập quốc tế tồn diện, sâu rộng; Việt
Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế”.
2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI
NGOẠI CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
•'••


2.1.

Mục tiêu, nguyên tắc, nhiệm vụ

2.1.1.

Mục tiêu
Bảo đảm cao nhẩt lợi ỉch quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ

bản các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quổc và luật pháp quốc tế,
bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; góp phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định;
phẩn đấu đến gỉữa thể kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Như vậy, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định mục tiêu
hàng đầu của hoạt động đối ngoại là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.
Lợi ích tối cao quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc xuyên suốt của
đối ngoại. Đối ngoại vi lợi ích quốc gia " dân tộc thể hiện qua các nhiệm vụ như:
Đồn kết dân tộc, tập hợp lực lượng đơng đảo người Việt Nam trong và ngoài nước,
phát huy tối đa nguồn lực trong nước, đồng thời huy động có hiệu quả nguồn lực
nước ngồi vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; đồng thời bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; đoàn kết quốc tế, tác động tích cực tới nỗ lực tập hợp lực
lượng quốc tế của Việt Nam vì mục tiêu hịa bình, hợp tác và phát triển; nâng cao uy
tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta là vì
lợi ích quốc gia - dân tộc.
2.2.2. Nguyên tắc
Có hai loại nguyên tắc trong hoạt động đối ngoại: (1) nguyên tắc cơ bản,
xuyên suốt, bao trùm; (2) các nguyên tắc cụ thể.
-


Nguyên tẳc cơ bản, xuyên suốt, bao trùm trong đường lối đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta là hịa bình, độc lập, thong nhất và chủ nghĩa xã hội;


đồng thời, phải sáng tạo, năng động, lỉnh hoạt trong xử lỷ các tình huống,
phù hợp với hồn cảnh cụ thể, với vị trí của Việt Nam cũng như diễn biến
của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm của từng đối tác.
Trong xử lý tình huống, cần “ba tránh”: tránh bị cô lập, tránh xung đột và
tránh đổi đầu.
-

Các nguyên tắc cụ thể:

+ Tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau.
+ Không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
+ Giải quyết các bất đồng và tranh chấp thơng qua thương lượng h ịa
bình.
+ Tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
2.1.3. Nhiệm vụ đối ngoại
Chính sách đối ngoại là một bộ phận họp thành đường lối chung, là sự tiếp
tục chính sách đối nội, tạo điều kiện để thực hiện nhiệm vụ đối nội. Xuất phát từ
nhiệm vụ cách mạng nước ta giai đoạn hiện nay và trên cơ sở những biến động của
tình hình thế giới thời gian gần đây, Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Trên cơ sở
vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động đơi ngoại và hội
nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập
và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để
phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Xây dựng nền ngoại
giao toàn diện, hiện đại với ba

trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.
Như vậy, nhiệm vụ đối ngoại thể hiện trên các vấn đề sau:
Thứ nhất, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.


Nhiệm vụ đổi ngoại trước hết phải bảo vệ được lợi ích tối cao quốc gia - dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc bao gồm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, đối ngoại có nhiệm vụ tạo lập và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn
định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước.
Nhiệm vụ đối ngoại là phải tạo lập được môi trường hịa bình để phục vụ cho
sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Giữ vững mơi trường hịa bình bao gồm hịa bình, ổn định trên tất cả lĩnh vực
ở trong nước, là mơi trường hịa bình ở khu vực, trước hết là khu vực Đông Nam Á,
tiếp đến là khu vực Đông Á và rộng hơn là khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Thứ ba, đối ngoại có nhiệm vụ nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên
trường quốc tế.
Để nâng cao vị thế của đất nước, trong các văn kiện Đại hội, Đảng ta đã
khẳng định Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tể. Tuy nhiên, chủ trương đối ngoại phải được thể hiện
trong thực tế. Do đó, hoạt động đối ngoại nhằm tăng cường quan hệ hịa bình, hữu
nghị với các nước, đẩy mạnh quan hệ hợp tác cùng có lợi với các đối tác trên các
lĩnh vực khác nhau, đồng thời làm tròn nghĩa vụ của nước thành viên và có đóng
góp tích cực cho sự phát triển của tổ chức quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Thứ tư, đối ngoại đặt lợi ỉch quốc gia - dân tộc là cao nhất, song Việt Nam
vẫn ln kiên trì chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Đảng và Nhà nước Việt
Nam luôn khẳng định nhiệm vụ của đối ngoại là góp phần vào cuộc đấu tranh vì
mục tiêu của thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.

Nhiệm vụ đối ngoại theo tinh thần của Đại hội XIII của Đảng nhằm đạt được
ba lợi ích có quan hệ mật thiết với nhau: An ninh - Phát triển - Vỉ thế, trong đó vấn
đề phát triển đất nước là nhiệm vụ quan trọng nhất. Phục vụ cho phát triển đất nước
được coi là nhiệm vụ hàng đầu của đối ngoại, vì chỉ có phát triển mới tạo nên nền
tảng vật chất cho việc thực hiện mục tiêu an ninh và nâng cao vị thế quốc tế của đất


nước. Tuy nhiên, khơng thể có sự phát triển và phát huy được ảnh hưởng quốc tế
nếu không giữ vững được an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
2.2. Phương châm đối ngoại
2.2.1.

Phái huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời

đại; dựa và phát huy nội lực là chính, tranh thủ tối đa ngoại lực
Nội hàm của “sức mạnh dân tộc” trong bối cảnh ngày nay bao gồm cả các
yếu tố sức mạnh “cứng” như kinh tể, quân sự, con người..., các nguồn lực có thể
huy động ở trong nước và các yếu tố của sức mạnh “mềm” như văn hóa, truyền
thống... Sức mạnh cứng và sức mạnh mềm cần được vận dụng, kết hợp một cách
hiệu quả, linh hoạt để bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.
Nội hàm sức mạnh thời đại bao gồm: lựa chọn con đường phát triển phù hợp
với nội dung chủ yếu của thời đại ngày nay và những nhân tố mới trong giai đoạn
hiện nay là cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ; xu thế tồn cầu hóa, hợp tác liên
kết khu vực; xu thế hịa bình, hợp tác, phát triển...
Việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong thế giới ngày nay
cũng có nhiều thay đổi. Hoạt động đối ngoại của các nước trên thế giới ngày nay
ln đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên hàng đầu, cho nên việc tìm ra phương thức
hữu hiệu để kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong từng vấn đề cụ thể
là nhân tố quyết định thành bại của phương châm này.
2.2.2. Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi; vừa hợp tác, vừa đấu tranh

Trong điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa,
đa dạng hóa, Việt Nam đứng trước những cơ hội mới, song nguy cơ và thách
thức tư bên ngồi cũng gia tăng. Do đó, cần nhận thức đúng và nắm vững vấn đề
hợp tác và đấu tranh, coi đây là hai mặt gắn bó hữu cơ của quan hệ quốc tế. Trong
phương châm nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh, Đảng ta nhấn mạnh một nhận
thức mới, đớ là đấu tranh nhằm thúc đẩy hợp tác, tránh trực diện đối đầu, không để
cho các thế lực không thân thiện với Việt Nam lợi dụng sơ hở để đẩy ta vào thế cô
lập, đặc biệt là tránh một cuộc xung đột quân sự hoặc bị khiêu khích vũ trang.


Trong xử lý các vấn đề quốc tế, yêu cầu đặt ra là phải kết hợp nhuần nhuyễn
hai mặt hợp tác và đấu tranh, tránh hợp tác một chiều hoặc đấu tranh một chiều, cả
hai khuynh hưởng này đều dẫn tới tình huống bất lợi cho đất nước, cần phải tỉnh
táo, có sách lược khơn khéo trong hợp tác và đấu tranh, để mở rộng được quan hệ
đối ngoại, “thêm bạn bớt thù”, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định phục vụ mục
tiêu phát triển đất nước.
2.2.3.

Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất

cả các nước
Phương châm này thể hiện chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt
Nam là mở rộng quan hệ quốc tế, góp phần gìn giữ mơi trường hịa bình, ổn định,
phát triển ở khu vực và trên thế giới. Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt chú
trọng hợp tác khu vực, nhất là đối với các nước láng giềng nhằm tạo một mơi
trường hịa bình, ổn định lâu dài.
Cùng với việc đặt cao quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng và
khu vực, Đảng và Nhà nước Việt Nam đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải mở
rộng quan hệ với tất cả các nước, đặc biệt là các nước lớn, các trung tâm kinh tế
lớn, vì đó là những lực lượng có ảnh hưởng quan trọng đến an ninh và phát triển

của khu vực và của Việt Nam. Với các nước lớn, phải coi trọng giữ quan hệ cân
bằng, khôn khéo lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước này nhằm tạo được thế cân bằng
chiến lược, tranh thủ mọi yếu tố thuận lợi để phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh
quốc phòng.
Trong quan hệ với các nước lớn, Việt Nam kiên trì chính sách độc lập tự chủ,
tránh khơng để rơi vào những tình huống phức tạp và bị động hoặc
liên minh với một nước lớn này chống lại một nước lớn khác.
2.2.4.

Chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả
Đây là phương châm, đồng thời cũng là một định hướng quan trọng về đối

ngoại của Đại hội XIII của Đảng. Để đảm bảo tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo,
hiệu quả, vấn đề đầu tiên là phải xác định đúng các biện pháp để nâng cao hiệu quả
đối ngoại như: nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược phục vụ


cho hoạch định chính sách; đưa các quan hệ đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn
định, bền vững...
2.2.5.

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, thống nhất,

toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc
Vấn đề độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là
thiêng liêng, khơng thể nhượng bộ, do đó cần phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo
vệ. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề tranh chấp Biển Đông là vấn đề lớn, phức tạp, liên
quan đến nhiều nước, nhất là nước lớn Trung Quốc, cho nên giải quyết vấn đề này
phải kiên trì, cần có thời gian, khơng thể nóng vội. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh
phải trên cơ sở giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định cho phát triển đất nước.

3. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỚI ĐỊA PHƯƠNG
Hiện nay, em đang sinh sống và công tác tại huyện Đồng Văn, tỉnh Hà
Giang. Đồng Văn là huyện vùng cao biên giới của tỉnh Hà Giang, cách thành phố
Hà Giang 150 km về phía bắc, là huyện cực bắc của Việt Nam, có có diện tích
365,65 km2, dân số trên 86.000 người, mật độ dân số 224 người/km 2. Huyện Đồng
Văn hiện nay có 17 dân tộc sinh sống, gồm: Mơng, Tày, Dao, Kinh, Nùng, Giáy, La
Chí, Hoa, Pà Thẻn, Cơ Lao, Lô Lô, Bố Y, Phù Lá, Pu Péo, Mường, Sán Chay, Thái.
Trong đó dân tộc Mơng chiếm phần lớn.
Đồng Văn có đường biên giới quốc gia dài 54,68 km, quản lý 75 cột mốc
trong đó 54 mốc chính, 21 mốc phụ; Huyện có 17 xã, 2 thị trấn, trong đó 7 xã, 2 thị
trấn biên giới, với 34 thôn bản giáp biên. Huyện Đồng văn tiếp giáp với 02 huyện
Ma Ly Pho và huyện Phú Ninh/tỉnh Vân Nam/Trung Quốc.
Công tác đối ngoại của huyện thường xuyên nhận được quan tâm chỉ đạo của
UBND tỉnh; sự phối hợp, giúp đỡ của Sở Ngoại vụ. Công tác phối hợp, hiệp đồng
giữa các lực lượng, cơ quan, đơn vị được duy trì thực hiện. Việc liên lạc, trao đổi
thơng tin với chính quyền các huyện phía Trung Quốc có chung đường biên giới
được duy trì thường xun, kịp thời, có hiệu quả. Lực lượng quản lý, bảo vệ biên
giới hai bên luôn thực hiện tốt các chế độ liên hệ nghiệp vụ và ngày càng được mở
rộng, có chiều sâu. Cơng tác tuyên truyền đối với cư dân biên giới được thực hiện


thường xuyên. công tác bảo vệ đường biên mốc giới được hai bên thực hiện theo
đúng quy định, tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội trên tuyến biên giới
ổn định, chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia được giữ vững.
Trong những năm qua các hoạt động đối ngoại đã đạt được những kết quả:
công tác tổ chức, quản lý các đoàn ra - vào được đảm bảo đúng theo quy định; hai
Bên thường xuyên duy trì chế độ liên hệ nghiệp vụ theo quy định; điện đàm, trao
đổi đột xuất giải quyết các vấn đề nảy sinh trên biên giới, đồng thời tổ chức viết thư
trao đổi, chúc mừng các ngày lễ, tết của hai nước, cụ thể:
-


Thư trao đổi hai bên: 84 thư
+ Ta gửi bạn: 41 thư (Nội dung: Chúc mừng nhân dịp năm mới 2021; Chúc
mừng nhân dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021; xác minh nhân thân công dân Việt
Nam nhập cảnh trái phép; trao đổi công tác).
+ Bạn gửi ta: 43 thư (Nội dung: Chúc mừng năm mới 2021; Đề nghị xác
minh nhân thân công dân Việt Nam nhập cảnh trái phép; trao đổi cơng tác; trao
đổi tình hình dịch bệnh hai bên biên giới; thông báo các địa điểm Chính phủ trấn
Đổng Cán/Trung Quốc tiến hành xây dựng cơng trình trên biên giới).
-

Điện đàm: 10 lần cấp Đồn - Trạm (Việt Nam điện cho Trung Quốc 02 lần;
Trung Quốc điện cho Việt Nam 08 lần).

-

Gặp gỡ trên biên giới: 07 lần/33 lượt người (Trung Quốc mời Việt Nam 04
lần, Việt Nam mời Trung Quốc 03 lần).

-

Tuần tra, kiểm soát liên hợp, thực thi pháp luật trên biên giới: 01 lần/08 lượt
người tham gia.

-

Trao trả: 04 lần/08 công dân Việt Nam nhập cảnh trái phép vào Trung Quốc
(Trung Quốc trao trả cho Việt Nam).
Trong những năm qua đã tổ chức các cuộc hội đàm thực địa trên biên giới


giữa huyện Đồng Văn và huyện Ma Ly Pho - Trung Quốc tại khu vực Mốc 393
(Khu vực Cửa khẩu Phố Bảng, huyện Đồng Văn) biên giới đất liền Việt Nam- Trung
Quốc. Tại buổi Hội đàm, với tinh thần đoàn kết, hữu nghị, bình đẳng và tơn trọng
lẫn nhau, hai bên căn cứ vào Nghị định thư phân giới cắm mốc biên giới đất liền


×