Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

BÀI THU HOẠCH môn QUAN hệ QUỐC TẾ chiến lược Ấn độ dương – thái bình dương tự do và rộng mở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.5 KB, 22 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VIỆN QUAN HỆ QUỐC TẾ

BÀI THU HOẠCH

MÔN: QUAN HỆ QUỐC TẾ

“CHIẾN LƯỢC ẤN ĐỘ DƯƠNG - THÁI BÌNH DƯƠNG
TỰ DO VÀ RỘNG MỞ”: TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆT NAM


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU................................................................................................................. 1
B. NỘI DUNG..............................................................................................................3
1. Tổng quan về chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở của Mỹ
.................................................................................................................................. 3
1.1.. Quá trình hình thành Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng
mở............................................................................................................................. 3
1.2............. Nội dung cơ bản của chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương rộng mở
.................................................................................................................................. 4
2. Sự tác động của chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở của
Mỹ đến Việt Nam......................................................................................................8
3. Đề xuất các chính sách đối ngoại với Việt Nam hiện nay.......................................14
C. KẾT LUẬN............................................................................................................18
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................19


3



4
A. MỞ ĐẦU
Thuật ngữ “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương ” lần đầu tiên được giới thiệu bởi
nhà nghiên cứu Ân Độ Gurpreet S. Khuranavào năm 2007 trong một bài tiểu luận,
được định nghĩa là một không gian hàng hải nối Ân Độ Dương với Tây Thái Bình
Dương, giáp với tất cả các quốc gia ở châu Á (bao gồm cả Tây Á, Trung Đông) và
Đông Phi. Trong những năm 2010, các chiến lược, chính sách đối ngoại và nghiên cứu
của chuyên gia ở nhiều nước bắt đầu quan tâm đặc biệt đến khu vực xuyên khu vực
dọc theo bờ biển Ân Độ Dương và Thái Bình Dương này. Tuy nhiên, chỉ đến khi khái
niệm này được Chính quyền Trump áp dụng, nó mới thực sự trở nên nổi tiếng và thu
hút sự chú ý trên toàn thế giới. Trong Chiến lược An ninh Quốc gia được công bố vào
ngày 18 tháng 12 năm 2017, Chính quyền Trump khẳng định rằng “Ân Độ Dương Thái Bình Dương rất quan trọng đối với sự ổn định, an ninh và thịnh vượng của Mỹ”.
Tại Đối thoại Shangri La 2018 ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis
đã gọi Chiến lược Ân Độ Dương -Thái Bình Dương của Mỹ là “một tập hợp con trong
chiến lược an ninh rộng lớn hơn của chúng tơi, hệ thống hóa các ngun tắc của chúng
tơi khi Mỹ tiếp tục nhìn về phương Tây”. Do đó, Ân Độ Dương -Thái Bình Dương đã
nhanh chóng được chuyển đổi từ một khái niệm sang một chiến lược mới của Mỹ tại
châu Á.
Ngoài tham chiếu địa lý đơn thuần về sự kết nối giữa Thái Bình Dương và Ân
Độ Dương, khái niệm này cũng có ý nghĩa chiến lược và địa - chính trị, phản ánh
những thay đổi chiến lược, trong đó thay đổi đáng kể nhất là lĩnh vực an ninh hàng hải.
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, trọng tâm chiến lược toàn cầu đã chuyển dịch từ
Đại Tây Dương sang Ân Độ Dương - Thái Bình Dương, được thúc đẩy bởi các yếu tố,
như: Sự trỗi dậy của Trung Quốc, sự gia tăng ảnh hưởng kinh tế và chiến lược của Ân
Độ cũng như tầm quan trọng ngày càng tăng của Ân Độ Dương; sự lớn mạnh của Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Trước những thay đổi nhanh chóng của cục
diện tồn cầu và khu vực, khái niệm về một không gian Ân Độ Dương - Thái Bình
Dương rộng mở, bao trùm của các nước trong khu vực đã ra đời nhằm đối phó cũng
như tận dụng cơ hội từ những sự đổi thay đó.



5
Khi thảo luận về chiến lược này, các nhà phân tích và học giả phần lớn tin rằng
chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” có bốn mục tiêu chính: (1) Tránh tạo
cảm giác đối đầu trực diện với Trung Quốc; (2) Khôi phục liên minh chiến lược Mỹ Nhật Bản - Ân Độ - Australia; (3) Nhấn mạnh vai trò của Mỹ và Ân Độ trong khu vực;
(4) Phát đi thông điệp rằng tự do hàng hải là một trụ cột cho an ninh khu vực. Hầu hết
trong số các học giả đều cho rằng chính sách mới của Chính quyền Trump là tăng
cường hợp tác với Ân Độ để đối trọng với Trung Quốc. Với quan điểm “Nước Mỹ trên
hết”, quan điểm này của chính quyền Trump khơng chỉ phục vụ lợi ích của Mỹ mà cịn
mở rộng nó trên tồn cầu. Do tầm quan trọng và phạm vi tác động rộng lớn của việc
điều chỉnh chiến lược của Mỹ, ngoài chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự
do và rộng mở” (FOIP) của Mỹ, các quốc gia khác trong khu vực như Nhật Bản, Ân
Độ, Australia, ASEAN... cũng lần lượt đưa ra các tầm nhìn chiến lược Ân Độ Dương Thái Bình Dương của mình. Trên cơ sở nhận thức rõ tầm quan trọng của khu vực Ân
Độ Dương - Thái Bình Dương, một số nước Châu Âu cũng bắt đầu chú ý đến khu vực.
Sau khi Pháp, Đức cơng bố chính sách hướng tới Ân Độ Dương - Thái Bình Dương,
Hà Lan cũng đã cơng bố tài liệu chiến lược chính thức đầu tiên về khu vực có vị trí
then chốt này trên tồn cầu.
Với nhận thức trên nên tơi chọn nội dung “Chiến lược Ản Độ Dương – Thái
Bình Dương tự do và rộng mở": tác động đến Việt Nam để thực hiện bài thu hoạch kết
thúc môn học. Qua nhận thức về các tác động của chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương tự do và rộng mở” đối với Việt Nam và đề xuất chính sách đối ngoại của
Việt Nam trong việc thực hiện chiến lược của Mỹ hiện nay.


6
B. NỘI DUNG
1. Tổng quan về chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và
rộng mở của Mỹ
1.1. Quá trình hình thành Chiến lược Ản Độ Dương - Thái Bình Dương tự
do và rộng mở

Vào tháng 11 năm 2017, trong bài phát biểu tại Tuần lễ các nhà lãnh đạo
kinh tế APEC 2007 được tổ chức tại Việt Nam, Tổng thống Mỹ Donald Trump lần
đầu tiên công khai đề cập đến một khu vực “Ấn Độ Dương -Thái Bình Dương tự
do và rộng mở” và lập luận rằng: “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng
mở - một nơi mà các quốc gia có chủ quyền và độc lập, với các nền văn hóa đa
dạng và nhiều ước mơ khác nhau, tất cả đều có thể phát triển song song, và phát
triển mạnh mẽ trong tự do và hịa bình”. Một tháng sau, cụm từ này tiếp tục xuất
hiện trong Chiến lược An ninh Quốc gia (NSS) của Mỹ, với vị trí hàng đầu trong
số các lĩnh vực quan trọng đối với lợi ích của Washington. Chính quyền Trump
cũng đề cao vai trị “lãnh đạo”, “đối tác quốc phòng và chiến lược mạnh mẽ”
trong khu vực của New Delhi và sự hợp tác ngày mạnh mẽ hơn trong mối quan hệ
Mỹ - Nhật - Australia - Ân Độ.
Chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” (FOIP)
đã kế thừa chiến lược của nhiều thế hệ tổng thống Mỹ trước đây cũng như các ý
tưởng chiến lược của các đồng minh và đối tác của Mỹ.
Ân Độ Dương lần đầu tiên được đề cập bởi chính quyền của Tổng thống
George.W.Bush trong Chiến lược An ninh Quốc gia Mỹ năm 2002. Chính quyền G.
Bush khẳng định Mỹ và Ân Độ có lợi ích chung trong các tuyến đường thương mại
tự do trên đại dương ở Ân Độ Dương và Thái Bình Dương. Chính quyền của cựu
Tổng thống Barack Obama đã rất tích cực trong việc đưa Ân Độ vào Chiến lược
xoay trục của Mỹ đối với Châu Á - Thái Bình Dương. Cựu Ngoại trưởng Mỹ
Hillary Clinton nhấn mạnh chính sách đối với Nhật Bản, Ân Độ và Australia tham
gia chiến lược tái cân bằng đối với khu vực Ân Độ Dương - Thái Bình Dương mở
rộng.


7
Nhật Bản cũng có ý tưởng về khu vực Ân Độ Dương - Thái Bình Dương.
Trong chuyến thăm Ân Độ vào năm 2007, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã đề
cập đến “trục tự do và thịnh vượng dọc theo không gian A - Âu ”, cũng như “sự

kết hợp năng động giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương” và thúc đẩy hợp tác
giữa Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ân Độ trong một “tứ giác kim cương” dân chủ.
Vào tháng 4 năm 2017, Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã cơng bố “Chiến lược Ấn Độ
Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, trong đó mơ tả cách mà Tokyo sẽ
mở rộng thế giới quan và vai trò chiến lược của mình dưới thời Shinzo Abe thơng
qua mong muốn chủ động đóng góp cho nền hịa bình thế giới. Theo đó, chìa khóa
cho sự ổn định và thịnh vượng của cộng đồng quốc tế là sự năng động được tạo ra
bằng cách kết hợp “Hai lục địa” - Châu Á đang phát triển nhanh chóng và Châu
Phi có tiềm năng tăng trưởng rất lớn và “Hai đại dương” - Thái Bình Dương và
Ân Độ Dương tự do và rộng mở.
Năm 2013, Australia cũng đề cập đến khái niệm Ân Độ Dương - Thái Bình
Dương trong Sách trắng Quốc phòng. Trong tài liệu này, Australia khẳng định tầm
quan trọng của các tuyến đường vận tải, dòng năng lượng và các giá trị chiến lược
giữa Ân Độ Dương và Thái Bình Dương, trong đó Đơng Nam Á là trọng tâm.
Trong Sách trắng về Chính sách Đối ngoại của Australia được công bố vào tháng
11 năm 2017, Ân Độ Dương - Thái Bình Dương đã được nhắc đến 74 lần, trong
khi Châu Á - Thái Bình Dương chỉ được đề cập 4 lần.
1.2.

Nội dung cơ bản của chiến lược Ản Độ Dương - Thái Bình Dương rộng

mở (FOIP)
Chính quyền Trump đã công bố những nội dung quan trọng của chiến lược
FOIP gồm các mục tiêu, phạm vi địa lý, ý nghĩa và cách thực hiện FOIP. Về mục
tiêu, FOIP đặt mục tiêu kiểm soát sự tăng trưởng của Trung Quốc và bảo vệ vị thế
của Mỹ trong trật tự khu vực, được khái quát hóa để phục vụ các mục tiêu địa
chiến lược Mỹ - Trung.


8

về mặt địa lý, FOIP dựa trên “kết nối” giữa Ân Độ Dương và Thái Bình
Dương, xác định một khu vực rộng lớn hơn 80 triệu km 2 bao gồm khu vực Ân Độ
Dương ở phía đơng bờ biển Châu Phi và Thái Bình Dương đến bờ Tây Mỹ.
về nội hàm, FOIP dựa trên hai giá trị “tự do ” và “rộng mở”. Theo đó, “tự
do ” được thể hiện ở hai cấp độ: Ở cấp độ quốc tế, các quốc gia không bị ép buộc
cũng không bị áp đặt; và ở cấp quốc gia, các cá nhân không bị đàn áp và được
hưởng nền quản trị tốt. “Rộng Mở” trong FOIP có nghĩa là các tuyến hàng hải
khơng bị kiểm soát hoặc ngăn chặn bởi bất kỳ cường quốc nào và hệ thống thương
mại tự do và bình đẳng được duy trì. Bộ trưởng Quốc phịng James Mattis nhấn
mạnh trong bài phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 2018: “Tự do có nghĩa là tất cả
các nước, lớn hay nhỏ, đều có quyền qua lại tự do trên các vùng biển và vùng trời
quốc tế. Mỹ cũng khẳng định các cơ chế hợp tác trong chiến lược này không nhằm
loại trừ bất cứ nước nào, để ngỏ cho các nước tham gia trên các nguyên tắc kể
trên, cũng như bảo đảm tự do và thịnh vượng cho tất cả các nước”.
về bối cảnh, chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương được đưa ra vào
thời điểm cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc đã lên đến một mức mới. Trong
Chiến lược An ninh và Quốc phòng mới được cơng bố, Mỹ đã gọi đích danh Trung
Quốc là nước thách thức trật tự thế giới hiện hành, coi Trung Quốc là đối thủ chiến
lược, là đối tượng đấu tranh chính vì đã hội tụ đủ điều kiện và ý chí cũng như ngày
càng có hành động thách thức vai trò lãnh đạo của Mỹ trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương và trên thế giới. Và từ lời khẳng định của Bộ trưởng Quốc phòng
James Mattis rằng, Chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương là một bộ phận
trong Chiến lược An ninh quốc gia của Mỹ, có thể cho rằng cạnh tranh chiến lược
Mỹ - Trung Quốc là điều kiện để từ đó Chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình
Dương ra đời. Ân Độ Dương - Thái Bình Dương là nơi “đang xảy ra một cuộc
cạnh tranh địa chính trị giữa một tầm nhìn tự do và một tầm nhìn mang tính chất
áp chế về trật tự thế giới”. Như vậy, chiến lược Ân Độ
Dương - Thái Bình Dương nhằm phục vụ mục tiêu cạnh tranh địa chiến lược Mỹ Trung Quốc, mặc dù chính giới Mỹ luôn nhấn mạnh rằng Chiến lược này không có



9
tính “loại trừ” hay “kiềm chế” Trung Quốc, thậm chí cịn có thể để Trung Quốc
tham gia nếu tn thủ “luật chơi ”. Do đó, có thể khẳng định là về mục tiêu, Chiến
lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương nhằm kiểm soát sự lớn mạnh của Trung
Quốc và bảo vệ vị thế của Mỹ trong trật tự khu vực.
Từ thời Tổng thống Barack Obama, kiểm soát sự lớn mạnh của Trung Quốc
và bảo vệ trật tự hiện hành do Mỹ chi phối đã trở thành mục tiêu chính của chiến
lược xoay trục/tái cân bằng. Chiến lược xoay trục/tái cân bằng được triển khai trên
07 hướng gồm: (1) Hiện đại hóa và củng cố quan hệ với các đồng minh của Mỹ; (2)
Phát triển và tăng cường quan hệ với các đối tác mới; (3) Hỗ trợ các cơ chế trong
khu vực giải quyết các vấn đề khu vực dựa trên những luật lệ và chuẩn mực và xây
dựng “luật chơi” kinh tế; (4) Tăng cường thương mại và đầu tư; (5) Tăng sự hiện
diện về quân sự của Mỹ trong khu vực; (6) Thúc đẩy phát triển dân chủ, quản trị tốt
và nhân quyền; (7) Mở rộng mối quan hệ nhân dân (people-to-people). Tất cả các
hoạt động kể trên đều nhằm tăng cường sự hiện diện và ảnh hưởng của Mỹ trong
khu vực, qua đó hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc.
về mặt thực hiện, tại Đối thoại Shangri-La tháng 6 năm 2016, Bộ trưởng
Quốc phòng Mỹ James Mattis đã chỉ ra bốn hướng hành động chính của Mỹ trong
việc thực hiện FOIP, như sau:
Thứ nhất, Mỹ sẽ mở rộng sự chú ý vào không gian hàng hải, duy trì các
khơng gian hàng hải chung bằng cách giúp các đồng minh và đối tác của họ xây
dựng hải quân và các lực lượng thực thi pháp luật để cải thiện khả năng giám sát và
bảo vệ các lợi ích và trật tự hàng hải.
Thứ hai, Mỹ sẽ tập trung tăng cường năng lực hoạt động quân sự chung giữa
lực lượng quân sự các nước thông qua tài trợ và bán trang thiết bị quốc phòng tiên
tiến cho các đối tác an ninh trong khu vực, tăng cường huấn luyện quân sự chuyên
nghiệp và liên lạc thường xuyên cho các sĩ quan
quân đội thuộc các binh chủng giữa các nước trong khu vực Ân Độ Dương - Thái Bình
Dương.



1
0
Thứ ba, Mỹ sẽ tăng cường sự tuân thủ pháp luật, thúc đẩy pháp quyền, xã hội
dân sự và quản trị minh bạch. Theo đó, Mỹ sẽ tiếp tục tham gia sâu vào các cơ chế khu
vực hiện hành, bao gồm Diễn đàn an ninh Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ
trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị cấp cao Đông Á
(EAS) và APEC, cùng với các cơ chế ba bên và nhiều bên với các đối tác khác.
Thứ tư, về mặt kinh tế, Mỹ sẽ thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân; dẫn
đầu và tập trung vào các hoạt động thương mại và đầu tư, bao gồm cả phát triển cơ sở
hạ tầng. Bên cạnh đó, Mỹ cũng sẽ tăng cường các tổ chức tài chính để duy trì “luật
chơi” chung. Bộ trưởng Quốc phịng Mỹ James Mattis nhấn mạnh: “Mỹ khơng đưa ra
những lời hứa suông và không buộc các nước đối tác phải từ bỏ chủ quyền kinh tế”.
Theo các nhà quan sát, đây là những bước để cạnh tranh trực tiếp với sáng kiến “Vành
đai, Con đường” (BRI) của Trung Quốc, nhấn mạnh việc đưa ra “các lựa chọn thay
thế” đối với các dự án đầu tư hạ tầng và kết nối kinh tế của BRI, và không cho phép
“luật chơi ” của Trung Quốc chiếm ưu thế trong khu vực.
Chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương về cơ bản kế thừa các yếu tố cơ
bản của chiến lược xoay trục/tái cân bằng. Tuy nhiên, xu hướng kiềm chế ảnh hưởng
của Trung Quốc dường như mạnh hơn dưới thời Tổng thống Donald Trump và phong
cách lãnh đạo quyết liệt của ông Donald Trump đã đẩy cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc
lên một mức mới. Đi cùng với việc chính thức mở rộng phạm vi địa lý bao gồm Ân Độ
Dương trong chính sách đối với châu Á - Thái Bình Dương, chính quyền mới của Mỹ
đã nhấn mạnh hơn tính chất cạnh tranh chiến lược trong quan hệ với Trung Quốc. Theo
đó, Mỹ áp dụng cách tiếp cận cứng rắn hơn đối với Trung Quốc, tập trung vào lĩnh vực
quốc phòng - an ninh và kinh tế - thương mại. Do đó, FOIP đã cho thấy sự nhất quán
trong chiến lược đối ngoại của Mỹ, sự đồng thuận lưỡng đảng trong Quốc hội Mỹ, sự
đồng thuận với các đồng minh và đối tác của Mỹ; sự nhất qn trong việc cơng nhận
lợi ích quốc gia của Mỹ ở khu vực Ân Độ Dương- Thái Bình Dương.
2. Sự tác động của chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương



•o



tự do và rộng mở của Mỹ đến Việt Nam



o

o


1
1
Nếu như Trung Quốc khởi xướng Chiến lược Vành đai và Con đường (BRI) với
hàng trăm tỷ USD đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng trên khắp các quốc gia mà không
đề cập nhiều đến “an ninh khu vực”, thì FOIP của Mỹ cung cấp ba trụ cột chính là an
ninh - kinh tế - quản trị. Ngồi những toan tính và cạnh tranh chiến lược giữa các
cường quốc, tất cả các kế hoạch đều có thể mang lại hịa bình và ổn định cho khu vực,
hứa hẹn nhiều triển vọng cho các nước trong khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng.
Có thể thấy rõ, trong chiến lược này, chúng ta rất quan tâm đến hầu hết các vấn đề trên
tất cả “ba trụ cột” trên. Quan điểm và lập trường của Việt Nam có nhiều điểm tương
đồng với ý nghĩa của cả ba trụ cột nêu trên.
Trước hết, về chính trị và an ninh, kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ,
vai trò đối tác của Việt Nam với Mỹ ngày càng trở nên quan trọng. Điều này là hệ quả
tất yếu của hai yếu tố: Thứ nhất, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và năng lực ngoại
giao đa phương đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Điển hình là việc

Việt Nam rất chủ động trong việc xây dựng đồng thuận ASEAN và phát huy vai trò là
người dẫn dắt các thể chế quốc tế mà ASEAN có vai trị trung tâm. Việt Nam đã có
những đóng góp rất quan trọng trong việc tổ chức các hoạt động của Hội nghị Bộ
trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) và đặc biệt khuyến khích sự tham gia
của Mỹ tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS). Uy tín của Việt Nam tại Liên Hợp
quốc đã được cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao nhờ những thành cơng trong các hoạt
động gìn giữ hịa bình, vai trị thành viên khơng thường trực tại Hội đồng Bảo an
nhiệm kỳ 2008 - 2009 và hiện nay là nhiệm kỳ 2020 - 2021. Năm 2014, Việt Nam đã
ủng hộ Các nguyên tắc Ngăn chặn trong Bộ Sáng kiến Phổ biến An ninh của Mỹ.
Thứ hai, Việt Nam có quan hệ tốt với nhiều đối tác hợp tác của Mỹ và cả những
nước mà Mỹ coi là “đối thủ” trong khu vực như Mỹ đã nhiều lần nêu tên trong các văn
bản chiến lược (NSS, NDS, Báo cáo về Chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương)
là Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Nga. Ngoài ra, Việt Nam cũng có quan hệ chính trị,
thương mại, văn hóa tốt với hai đồng minh truyền thống của Mỹ là Nhật Bản và Hàn
Quốc. Trong thời gian tới, Mỹ sẽ chú trọng vào những điểm tương đồng về lợi ích giữa
hai nước, tranh thủ năng lực ngoại giao, mối quan hệ truyền thống của Việt Nam với


1
2
các đồng minh mới trong khu vực để gây tác động ảnh hưởng, thúc đẩy những quan
điểm, chính sách có lợi cho Mỹ trong khu vực.
Trong Chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương, có thể dễ dàng nhận thấy
Trung Quốc là đối tượng mục tiêu mà Mỹ hướng tới, cịn Việt Nam sẽ đóng vai trị
“đối tác quan trọng” như một dây cương hỗ trợ Mỹ kìm giữ sự trỗi dậy của Trung
Quốc. Mỹ cũng xác định Việt Nam là một trụ cột trong hợp tác của Mỹ với ASEAN,
coi ASEAN và Việt Nam là bộ phận quan trọng trong chính sách duy trì an ninh, hịa
bình, hợp tác và phát triển ở Đơng Nam Á nói riêng và châu Á - Thái Bình Dương nói
chung. Tận dụng những vấn đề tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên Biển Đơng
và chính sách mở cửa hội nhập của Việt Nam trong thời điểm hiện tại, Mỹ tranh thủ,

lôi kéo Việt Nam tham gia vào chiến lược của Mỹ hoặc phần nào đó Mỹ sẽ giành lại
thế cân bằng khu vực bằng việc đẩy mạnh quan hệ tích cực với Việt Nam và các nước
ASEAN. Điều mà Mỹ muốn là tạo lại thế cân bằng mới trong khu vực.
Với chính sách cơ bản là “tự do” và “rộng mở” được thể hiện trong ý nghĩa
chiến lược của FOIP; trong vấn đề về Biển Đông, nơi diễn ra tranh chấp chủ quyền gay
gắt, Mỹ vẫn sẽ tiếp tục thể hiện sự hiện diện quân sự của mình ở khu vực này nhằm
bảo đảm tự do hàng hải và thương mại cũng như ám chỉ hành vi phi pháp của các
cường quốc khác ở Biển Đông một cách rõ ràng hơn. Năm 2020, Mỹ dự kiến sẽ đưa
2/3 lực lượng hải quân của mình ở các khu vực khác đến châu Á - Thái Bình
Dương. Quân đội Mỹ đã lên kế hoạch triển khai 60% lực lượng hải quân và không
quân, 60% hạm đội Thái Bình Dương ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương vào năm
2020. Mỹ đã có sự hiện diện quân sự lâu dài ở đây, nhưng điểm khác của chiến lược
này là Mỹ sẽ đầu tư nhiều hơn vào quốc phòng và sự hiện diện trong khu vực, phục vụ
các hoạt động cứu trợ nhân đạo, giảm thiểu rủi ro thiên tai và gìn giữ hịa bình, trong
đó Việt Nam và Philippines là hai quốc gia nhận được nhiều đầu tư nhất từ nguồn này.
Có thể thấy, vấn đề được quan tâm và ưu tiên giải quyết của nước Mỹ dưới thời Tổng
thống D. Trump là khác so với người tiền nhiệm, nhưng mục tiêu tiếp tục duy trì tiếng
nói, vị thế và vai trị trung tâm của siêu cường trong việc giải quyết các vấn đề của khu
vực là không thay đổi.


1
3
Về kinh tế - thương mại: Các tổ chức quốc tế như WB, IMF, Cục Dân số Liên
Hợp quốc, ASEAN, UNCTAD, ILO đều đánh giá Việt Nam đang là nền kinh tế mới
nổi năng động nhất trong khu vực ASEAN đạt được thành tựu phát triển mạnh mẽ trên
ba phương diện: kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài và nhân khẩu học. Trong đó, GDP
của Việt Nam được dự báo sẽ đạt 327 tỷ USD vào năm 2022, mức tăng trưởng GDP
thực tế là 6,2% hàng năm trong giai đoạn 2016-2022. Việt Nam là một trong số ít các
quốc gia ASEAN liên tục đạt được sự tăng trưởng tích cực về FDI trong những năm

gần đây. Tính từ năm 1991 - 2019, FDI vào Việt Nam trung bình đạt 6,43 tỷ USD,
riêng năm 2018 đạt 19,1 tỷ USD. Việt Nam hiện có 130 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu
tư trực tiếp với tổng số vốn đăng ký hơn 340 tỷ USD, trong đó Mỹ có 900 dự án có
hiệu lực với khoảng 9 tỷ USD.

Trong 25 năm, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Mỹ tăng gần
133 lần, từ 450 triệu USD vào năm 1995 lên hơn 60 tỷ USD vào năm 2018. Riêng
tháng 1-2019, kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ đạt 5,151 tỷ USD, tăng 42,1%
so với cùng kỳ năm 2018. Mỹ hiện là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam (sau
Trung Quốc và Hàn Quốc) và cũng là nước lớn duy nhất đạt thặng dư thương mại
trong nhiều năm qua. Riêng năm 2018, Việt Nam xuất siêu sang Mỹ gần 35 tỷ USD.
Vốn đầu tư FDI vào Việt Nam theo đối


8000
0
7000
0

6000
0
5000
n

Vốn đăng

*

1
4


10000

I
S
l

9000
8000
7000
6000
5000

Số dự


Việt Nam về kinh tế là một quốc gia phụ thuộc nhiều vào thương mại và đầu tư
nước ngoài, cũng như mong muốn thu hút đầu tư nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng. Vì
vậy các thuộc tính kinh tế của chiến lược FOIP như cơ sở hạ tầng mở, đầu tư mở và
thương mại mở cũng phù hợp với chính sách của Việt Nam. Trong khn khổ chuyến
thăm Việt Nam ngày 3/4/2019, Phó Trợ lý Ngoại trưởng Walter Douglas đã trình bày
về FOIP. Về mặt kinh tế, ơng Douglas chỉ ra ba lĩnh vực mà Mỹ sẽ tập trung đầu tư
vào khu vực Ân Độ Dương - Thái Bình Dương trong tương lai gồm: Cơ sở hạ tầng,
kinh tế kỹ thuật số và năng lượng. Đây là ba lĩnh vực mà Việt Nam đang tìm kiếm
nguồn lực đầu tư, bao gồm một số mục tiêu quan trọng như đường cao tốc Bắc - Nam;
giải quyết tình trạng thiếu năng lượng trong vài năm tới và cách tiếp cận cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây là những mục tiêu rất lớn, nguồn lực tư nhân trong
nước không thể đáp ứng được, vì vậy đầu tư FDI từ chiến lược của Mỹ là một trong
những giải pháp tốt nhất. Bên cạnh đó, mục tiêu trong tương lai của Mỹ là tăng vốn
FDI của nước này vào Việt Nam ít nhất tương đương mức đầu tư tại Philippines và

đồng thời tăng vốn FDI vào các nước khác trong khu vực nhận FDI của Mỹ theo
hướng ngày càng tăng.
9000 0
8000 0
7000 0
6000 0
5000 0

-(►■Trung

-^Mỹ

Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ và TrungQuốc
(US$ Million)

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017


2018

2019


Về khía cạnh phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế của chiến lược này có thể định
hình lại thị trường vốn cho khu vực, giúp Việt Nam có nhiều lựa chọn hơn, đồng thời
cung cấp “công cụ đàm phán ” để đảm bảo lợi ích giữa các bên. Ngồi ra, Mỹ hứa
hẹn sẽ mang lại các phương pháp quản lý minh bạch hơn. Ví dụ, nếu các nước cần đầu
tư cơ sở hạ tầng chất lượng cao, việc đấu thầu phải cơng khai và minh bạch. Chính
phủ Mỹ muốn tạo ra một môi trường hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư Mỹ vì các cơng
ty Mỹ muốn đầu tư vào Việt Nam nhưng họ cần chính sách nhất quán và môi trường
đầu tư thuận lợi. Theo bảng xếp hạng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế dựa trên ý kiến
của các chuyên gia và nhà đầu tư về tham nhũng trong khu vực công, sự thăng hạng
của Việt Nam trong những năm gần đây đã thể hiện cho cam kết của chính phủ về
phịng, chống tham nhũng và quản trị minh bạch.
Trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo, hợp tác giáo dục Việt Nam - Mỹ đã bắt đầu từ
trước khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1995. Việt Nam hiện là nước đứng
thứ 8 trên thế giới về số sinh viên đến học tập tại Mỹ. Điều này không chỉ tạo nên một
nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam mà cịn góp phần thúc đẩy giao lưu văn
hóa giữa hai nước. Từ năm 1992, Chương trình Fulbright đã hỗ trợ hơn 500 người Mỹ
và gần 700 người Việt Nam học tập, nghiên cứu và giảng dạy. Hiện nay, Mỹ vẫn đang
tiếp tục những nỗ lực nhằm gia tăng số du học sinh Việt Nam tại Mỹ, bao gồm thành
lập Trung tâm Văn hóa Mỹ (American Center) thơng qua Viện Giáo dục Quốc tế, mở
rộng chương trình Fulbright, tăng cường tìm kiếm đối tác Việt Nam cho các trường
đại học và cao đẳng Mỹ. Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển nhanh,
do đó cần dựa vào một thế hệ tương lai được đào tạo chất lượng. Do vậy, Việt Nam và
Mỹ đang đứng trước những triển vọng rất lớn về sự hợp tác giáo dục, đặc biệt là về
giáo dục đại học.

Tuy nhiên, bên cạnh đó nhược điểm của chiến lược FOIP của Mỹ cũng có
những điểm Việt Nam cần phải xem xét và cân nhắc. Theo đó, về cơ bản FOIP vẫn
tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ra mâu thuẫn lợi ích giữa các cường quốc, gây ra các xung
đột mạnh mẽ có thể ảnh hưởng đến mơi trường hịa bình và an ninh trong khu vực, và
đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam. Một số quốc gia bên ngoài khu vực mặc dù


tun bố khơng có lập trường về tranh chấp Biển Đơng, tuy nhiên vẫn tìm kiếm một
vai trị chi phối bằng cách tích hợp chính sách “hướng Nam” của Nhật Bản và chính
sách “hướng Đơng” của Ân Độ; do đó, chiến lược này sẽ làm phức tạp vấn đề Biển
Đông.
3. Đề xuất các chính sách đối ngoại với Việt Nam hiện nay
Xu hướng chủ đạo trong khu vực và trên thế giới vẫn là tồn cầu hóa và hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đã và đang tác động mạnh mẽ đến sự vận động của
những vấn đề chính trị, kinh tế và an ninh tồn cầu; do đó, q trình hoạch định chính
sách đối ngoại của mỗi nước phải tính đến các yếu tố bên ngồi. Trong bối cảnh chiến
lược mới của Mỹ tạo ra nhiều cơ hội và thách thức, Việt Nam phải lựa chọn cho mình
những kế hoạch ứng phó phù hợp và linh hoạt. Đồng thời, không nên phụ thuộc quá
nhiều vào các lực lượng bên ngồi, có nghĩa là phải chuẩn bị đầy đủ nguồn lực ứng
phó để tận dụng các cơ hội một cách hiệu quả.
Thứ nhất, thúc đẩy hợp tác với các cường quốc thường đi kèm với việc tập hợp
lực lượng, hình thành các liên minh; bên cạnh đó, cạnh tranh giữa các nước lớn trong
khu vực đang ngày càng gia tăng nhanh chóng. Vì vậy, Việt Nam cần có ý thức để
tránh rơi vào tình thế phải chọn bên này hay bên kia; duy trì chính sách mềm dẻo,
khơn khéo, trung lập, tránh bị lệ thuộc và ảnh hưởng bởi các nước lớn, đồng thời xử lý
tốt và cân bằng quan hệ giữa các nước lớn là chìa khóa quan trọng nhất để thúc đẩy
hợp tác, tận dụng những cơ hội lớn do chiến lược FOIP nói riêng và các chiến lược
ngoại giao của các quốc gia khác mang lại.
Trước những vấn đề về tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông và các ảnh hưởng
ngày càng rõ ràng của một Trung Quốc đang trỗi dậy, Việt Nam có lợi ích nhất định

trong việc hợp tác với Mỹ và các đối tác an ninh khác để duy trì trật tự khu vực dựa
trên các quy tắc cũng như thúc đẩy một kiến trúc
an ninh khu vực không bị chi phối bởi bất kỳ cường quốc nào. Do đó, Việt Nam có
thể hỗ trợ FOIP, mặc dù nó khơng nhất thiết phải được thực hiện công khai. Về mặt
ngoại giao, Việt Nam có thể làm việc với các đối tác có cùng nhận thức để bổ sung
các yếu tố chính của FOIP vào các tuyên bố chung song phương hoặc đa phương.


Về hoạt động thực chất, Việt Nam có thể sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác chiến lược
với các cường quốc, đặc biệt là các thành viên của bộ tứ Nhật Bản - Mỹ - Ân Độ Australia nhằm tăng cường hợp tác an ninh trong khu vực và nâng cao vị thế đàm
phán trước Trung Quốc.
Tuy nhiên, giống như hầu hết các nước thành viên ASEAN khác, do mối
quan hệ kinh tế sâu rộng với Trung Quốc, Việt Nam có thể khơng tham gia vào
một khối chống Trung Quốc cứng nhắc hoặc áp dụng cách tiếp cận đối đầu cơng
khai trong việc kiểm sốt sự trỗi dậy của Trung Quốc. Chiến lược Ân Độ Dương Thái Bình Dương có thể sẽ làm gia tăng rủi ro an ninh trong các kênh chiến lược
hàng hải và tuyến thương mại của Trung Quốc. Khoảng 90% thương mại nước
ngoài của nước này là thông qua vận tải đường biển và 75% dầu nhập khẩu được
vận chuyển đến Biển Đông qua Ân Độ Dương và Eo biển Malacca. Về lâu dài, Ân
Độ Dương và eo biển Malacca vẫn sẽ là một huyết mạch hàng hải quan trọng đối
với Trung Quốc. Hiện tại, Mỹ có bảy cụm căn cứ quân sự ở Ân Độ Dương và khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương, chiếm gần 50% trong số 587 cơ sở quân sự ở
nước ngoài. Một khi chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương được thực hiện,
Washington và New Delhi sẽ nâng cao vị thế và vai trò của các căn cứ và cơ sở
quân sự ở Ân Độ Dương, do đó làm tăng thêm rủi ro an ninh cho Trung Quốc
trong vùng biển này. Trong bối cảnh đó, Việt Nam có thể ưu tiên mạng lưới quan
hệ an ninh hiện nay với các cường quốc và đối tác có cùng nhận thức chiến lược
miễn là Trung Quốc không áp dụng cách tiếp cận quá cưỡng ép đối với tranh chấp
Biển Đông, điều này có thể buộc Việt Nam phải chuyển sang một vị thế chiến lược
quyết đoán và đối đầu hơn.
Thứ hai, các công ty của Mỹ đã đầu tư hàng tỷ USD tại Việt Nam, tích hợp Việt

Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu, tạo việc làm chất lượng cho lao động Việt Nam và
mở ra một thị trường mới cho hàng hóa, dịch vụ của Mỹ. Đây là cơ hội lớn để Việt
Nam tranh thủ nguồn đầu tư từ Mỹ cho phát triển kinh tế quốc gia, nâng cao vị thế
trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Tuy nhiên, đây cũng là một thách thức
lớn đối với Việt Nam bởi kinh tế càng phát triển, Việt Nam sẽ càng phải cạnh tranh


với các nước lớn khác trong khu vực. Điều này sẽ khiến cho Trung Quốc ngày càng đề
cao cảnh giác và tăng cường các biện pháp nhằm hạn chế sự phát triển kinh tế của
Việt Nam.
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra những thời cơ lớn để
Việt Nam bứt phá, phát triển, trong việc đổi mới mơ hình phát triển, tăng năng suất lao
động, góp phần rút ngắn khoảng cách phát triển, tụt hậu giữa Việt Nam và các nước
trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần cân nhắc kỹ mọi khả
năng hợp tác để vừa bảo đảm được lợi ích quốc gia, chủ động trong hoạch định chính
sách đối ngoại mà không bị chi phối quá nhiều bởi ảnh hưởng của các nước lớn, đặc
biệt là Mỹ và Trung Quốc. Tăng cường nội lực vẫn phải là ưu tiên hàng đầu.
Để tránh phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường, dù là Trung Quốc hay Mỹ,
Việt Nam có điều kiện tranh thủ tận dụng các nguồn lực như nguồn vốn đầu tư, tài
chính, nguồn nhân lực chất lượng cao bên ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, mở rộng thị trường xuất khẩu, củng cố thị trường trong nước, tập trung mọi
nguồn lực để nâng cao năng lực cạnh tranh, kêu gọi vốn đầu tư FDI, kêu gọi các quốc
gia tăng cường hợp tác trên những lĩnh vực chủ chốt. Thông qua việc thực hiện các
cam kết của quá trình hội nhập quốc tế, nhất là các Hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới (FTAs), Việt Nam cần đẩy mạnh cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh ở
ba cấp độ là quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm; đẩy mạnh việc phối hợp giữa Trung
ương và các địa phương, bộ ngành và doanh nghiệp trong q trình hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần tận dụng sự tài trợ và tăng cường mua các trang
thiết bị quốc phòng tiên tiến mà Mỹ bán cho các đối tác an ninh khu vực, nắm bắt cơ
hội về đào tạo quân sự chuyên nghiệp... để tăng cường sức mạnh quốc phòng - an

ninh. Tuy nhiên, để gạt bỏ những nghi kỵ, tránh gây hiểu lầm, mất lịng tin, Việt Nam
cần có chính sách hợp tác an ninh chặt chẽ với các nước trong khu vực, đặc biệt là các
nước trong ASEAN; nêu rõ quan điểm của mình cho các quốc gia thấy được lợi ích
chung của ASEAN chính là sợi dây liên kết chặt chẽ cấu trúc an ninh khu vực. Đồng
thời cần thúc đẩy hợp tác với các đối tác an ninh khác trên thế giới để duy trì trật tự


khu vực dựa trên quy tắc chung cũng như thúc đẩy một cấu trúc an ninh khu vực
không bị chi phối bởi bất kỳ cường quốc nào.
Thứ ba, mục tiêu và nguyên tắc của chiến lược này khá rõ ràng, nhưng nội
dung, phương pháp thực hiện và các bước cụ thể của từng đối tác vẫn chưa rõ ràng.
Mặt khác, vẫn còn nhiều khác biệt giữa bốn quốc gia chủ chốt (Mỹ, Nhật Bản,
Australia và Ân Độ) trong chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương. Do đó, chiến
lược này cần được theo dõi chặt chẽ trong tương lai xa hơn và mối quan hệ giữa các
quốc gia trên cần được xử lý khéo léo.
Mặc dù Việt Nam và các nước trong khu vực có thể đóng một vai trò nhất định
trong việc vận hành FOIP, nhưng chiến lược có thành cơng hay khơng sẽ do Mỹ quyết
định. Theo đó, Washington cần thể hiện một tầm nhìn nhất qn cho khu vực dựa trên
sự lãnh đạo mạnh mẽ và các cam kết dài hạn đáng tin cậy. Mỹ cũng cần làm rõ cách
Washington mong đợi các nước trong khu vực đóng một vai trị như thế nào trong
chiến lược FOIP và cung cấp một kế hoạch hành động chi tiết để hướng dẫn các quốc
gia có quan tâm nếu muốn tham gia. Quan trọng hơn, quá trình này nên được tiến
hành dựa trên các cuộc tham vấn của Mỹ với các đồng minh và đối tác. Bất kỳ nỗ lực
nào của Washington nhằm áp đặt ý chí của mình lên các nước trong khu vực, ngay cả
nhân danh một trật tự khu vực tự do và rộng mở dựa trên luật lệ, cũng có thể phản tác
dụng.
C. KẾT LUẬN
Chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương về cơ bản là một sự điều chỉnh
chiến lược trong quan hệ của Mỹ với Trung Quốc. Nội dung của chiến lược này có
một số lợi thế cho hịa bình và ổn định khu vực, do mục tiêu ổn định và phát triển kinh

tế khu vực, thúc đẩy luật pháp quốc tế, nhấn mạnh cơ chế khu vực rộng mở và tự do,
đặc biệt là vai trò trung tâm của ASEAN. Tuy nhiên, đây là sản phẩm của sự tương tác
chiến lược giữa các nước lớn, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc, trong vào vịng
xốy của hành động và phản ứng, bị chi phối bởi sự thiếu tin tưởng giữa hai bên, đã
làm cho tình hình thế giới biến động hơn, bất ổn gia tăng và do đó nó đặt ra cho các
quốc gia liên quan nhiều vấn đề trước mắt phải được giải quyết.


Trong chiến lược này, ASEAN và Việt Nam đóng vai trò quan trọng và là trung
tâm tập hợp lực lượng của tất cả các bên. Tuy nhiên, phản ứng và thái độ của các nước
liên quan trong và ngoài khu vực vẫn cịn khá bảo thủ và thận trọng vì tất cả các bên
vẫn chưa thể đánh giá tác động và kết quả của chiến lược này. Theo đó, Việt Nam cần
có những bước đi thận trọng, từng bước xây dựng lập trường, quan điểm riêng và theo
dõi sát tình hình khu vực để có những điều chỉnh chính sách đối ngoại kịp thời./.


1i
9

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Quan hệ

quốc tế (Dùng cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Lý luận chính trị, Hà
Nội.
[2]

. Báo cáo “Đánh giá chiến lược tái cân bằng của Mỹ tại châu Á - Thái


Bình Dương”, 2013, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ.
[3]

. Duy Hoàng, Chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương: Tầm nhìn

và thực tiễn, Tạp chí Cộng sản.
[4]

. Phương Trà: Chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương: Tầm nhìn

và thực tiễn, Tạp chí Cộng sản.
[5]

. Lý luận Chính trị: Chiến lược xoay trục, tái cân bằng của Mỹ đối với

châu Á - Thái Bình Dương, PGS, TS Nguyễn Thị Quế, ThS Nguyễn Thị Thúy.
[6]

. Lý luận Chính trị: Vị trí của Việt Nam trong Chiến lược Ân Độ Dương

- Thái Bình Dương của Mỹ hiện nay, TS Nguyễn Thị Thanh Xuân.
[7]

. Trần Việt Thái: Nhìn lại chiến lược Ân Độ Dương - Thái Bình Dương

tự do và rộng mở và dự báo một số tác động đối với ASEAN (Viện Nghiên cứu chiến
lược - Bộ Ngoại Giao, 2019), tr.77-85.
[8]

. Thông tấn xã Việt Nam: “Mỹ với Đông Á và Indonesia” Tài liệu tham


khảo đặc biệt, ngày 18-1- 2006.
[9]

. Thông tấn xã Việt Nam: “Ảnh hưởng của sự kiện 11-9 đối với sự cân

bằng chiến lược châu Á Thái Bình Dương, Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 11-62002.
[10] . “Tình hình chính trị - qn sự ở Đông Nam Á và khu vực châu Á Thái
Bình Dương”, Sự kiện và nhân vật nước ngồi, số 1-2004.
[11] . Phan Dỗn Nam: “Về chính sách đối ngoại của chính quyền Obama”
Tạp chí Cộng sản, số 797 (3-2009).
[12] . Vũ Lê Thái Hồng: Sức mạnh thơng minh, thế kỷ Thái Bình Dương và
học thuyết đối ngoại Obama, 2012.



×