Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

PHÂN TÍCH nội DUNG của CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.75 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH


BÀI TẬP NHỎ 2 MƠN LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH NỘI DUNG CỦA CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT
NAM (THÁNG 2/1951) VÀ LÀM RÕ SỰ BỔ SUNG VÀ HOÀN CHỈNH CỦA
VĂN KIỆN NÀY SO VỚI CÁC CƯƠNG LĨNH NĂM 1930
LỚP CC06 --- NHÓM 11 --- HK212
NGÀY NỘP: 02/03/2022

Giảng viên hướng dẫn: Đào Thị Bích Hồng

Sinh viên thực hiện
Tăng Thanh Trúc
Trần Thị Thanh Trúc
Phan Minh Tuấn
Đoàn Việt Tú
Nguyễn Thị Tuyết Vân

Mã số sinh viên
1952145
1953059
1953074
1952521
1852863

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022



MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................ 2
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 3
1. Bối cảnh lịch sử ................................................................................................. 3
2. Về tính chất xã hội Việt Nam ............................................................................ 5
3. Về đối tượng của cách mạng ............................................................................. 7
4. Về nhiệm vụ của cách mạng .............................................................................. 8
5. Về lực lượng tham gia cách mạng ................................................................... 10
6. Các giai đoạn phát triển của cách mạng .......................................................... 11
7. Về phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc.............................................................. 14
TỔNG KẾT ........................................................................................................ 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 18


PHẦN NỘI DUNG
1. Bối cảnh lịch sử
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản là
mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp; yêu cầu bức bách của dân tộc Việt Nam lúc
này là phải tìm ra con đường giải quyết một cách triệt để đồng thời hai mâu thuẫn đó
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Vào thời điểm lịch sử ấy, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn
phong phú, thấm nhuần tri thức lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”.
Đầu năm 1951, những biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc của tình hình trong nước và
quốc tế đặt ra yêu cầu mới đối với cách mạng Việt Nam, đòi hỏi Đảng phải bổ sung và
phát triển đường lối cách mạng và chính sách đối ngoại. Đáp ứng yêu cầu bức thiết của
cuộc cách mạng giai đoạn mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được
triệu tập tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang từ ngày 11 đến ngày
19 tháng 2 năm 1951. Đại hội đã quyết định những vấn đề quan trọng về xây dựng Đảng,
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, thảo luận và thông qua Chính cương

Đảng Lao động Việt Nam, Tun ngơn và Điều lệ mới của Đảng; đề ra đường lối, chủ
trương đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
Đây là đại hội của Đảng lần đầu tiên được tổ chức trong nước, tại Thủ đô kháng
chiến sau 16 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ Đại hội lần thứ nhất tại Ma Cao –
Trung Quốc năm 1935. Đại hội đã thông qua các báo cáo quan trọng: Báo cáo chính trị
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Báo cáo chính trị “Bàn về cách mạng Việt Nam” của đồng
chí Trường Chinh. Báo cáo bổ sung Điều lệ Đảng: Quyết định đưa Đảng ra hoạt động
công khai và lấy tên là Đảng lao động Việt Nam. Nội dung của các báo cáo đã đề cập
đến những vấn cốt tử của cách mạng Việt Nam giai đoạn mới, đặc biệt Đảng ta kịp thời
bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân - một trong những
chủ trương được thực tiễn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kiểm
nghiệm là hoàn thành đúng đắn, sáng tạo, thể hiện bước trưởng thành của Đảng trong
quá trình lãnh đạo cách mạng. Đây là một trong những dấu ấn quan trọng nhất quyết


định sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta
(1946 – 1954).
Tại Đại hội II, nhận thức của Đảng về mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) tiếp tục được khẳng định, bổ sung, phát triển, làm sâu
sắc thêm những vấn đề lý luận từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là con đường mà
Đảng và nhân dân Việt Nam lựa chọn từ năm 1930, con đường phát triển theo quy luật
khách quan của lịch sử xã hội loài người nói chung. Ta đã có những vùng giải phóng
rộng lớn, mở được cửa thông thương quốc tế; lực lượng vũ trang có khả năng tiêu diệt
bộ phận sinh lực quan trọng của địch. Song, thực dân Pháp với sự trợ giúp của đế quốc
Mỹ, vẫn nỗ lực tăng cường chiến tranh, gây cho ta nhiều khó khăn, phức tạp. Trong
mười ngày làm việc, Đại hội đã nghiên cứu, thảo luận Báo cáo chính trị, Báo cáo Bàn
về cách mạng Việt Nam, Báo cáo về tổ chức và Điều lệ của Đảng, các báo cáo bổ sung
về Mặt trận dân tộc thống nhất, chính quyền dân chủ nhân dân, quân đội nhân dân, kinh
tế tài chính, văn nghệ nhân dân.
Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày (chiều ngày 11-2) là một

văn kiện có giá trị thực tiễn và lý luận to lớn. Báo cáo tổng kết những kinh nghiệm
phong phú của Đảng trong hơn 20 năm lãnh đạo cách mạng, vạch ra những phương
hướng, nhiệm vụ đưa cuộc kháng chiến thắng lợi hoàn toàn. Báo cáo khẳng định đường
lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài vì độc lập thống nhất, dân chủ của Đảng là
đúng đắn, cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ nhất
định thắng lợi. Báo cáo nêu hai nhiệm vụ chính của Đảng lúc này là:
Một là đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Hai là tổ chức Đảng Lao động Việt Nam.
Đưa sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn là nhiệm vụ cấp bách. Các
nhiệm vụ khác đều nhằm phục vụ nhiệm vụ cấp bách đó. Báo cáo chỉ rõ, để đưa kháng
chiến đến thắng lợi, phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang và các tổ chức quần
chúng đẩy mạnh thi đua yêu nước, thi hành chính sách ruộng đất ở vùng tự do, bồi
dưỡng lực lượng kháng chiến, thành lập Mặt trận thống nhất Việt - Lào - Campuchia,
đoàn kết quốc tế.


2. Về tính chất xã hội Việt Nam

Nǎm 1945, bị qn đội Xơviết đánh bại, phát xít Nhật đầu hàng. Dưới sự lãnh
đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhân dân Việt
Nam tổng khởi nghĩa thắng lợi. Nước Cộng hoà dân chủ Việt Nam thành lập. Những
cải cách dân chủ được thực hiện. Xã hội Việt Nam bước vào con đường dân chủ
nhân dân. Tuy nhiên, đế quốc Pháp một lần nữa trở lại xâm lược dân tộc ta. Cuộc
kháng chiến trường kỳ và toàn diện của nhân dân ta bắt đầu.
Báo cáo chính trị “Bàn về cách mạng Việt Nam” của đồng chí Trường Chinh
đã phân tích rõ tính chất của xã hội Việt Nam sau cách mạng Tháng Tám năm 1945
và những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp là “một xã hội phức tạp và phát
triển khơng đều, có tính chất dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong
kiến, hiện chứa nhiều mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
bọn đế quốc xâm lược; mâu thuẫn giữa số đông nhân dân với địa chủ phong kiến;

mâu thuẫn giữa lao động với tư bản trong nước. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam
với đế quốc xâm lược là chính. Nó đang diễn ra dưới hình thức quyết liệt là chiến
tranh”.1
So với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo, được Hội nghị thành lập Đảng 3-2-1930 thông qua, trên cơ sở phân tích, đánh giá
chính xác tính chất xã hội Việt Nam thuộc địa cùng những đặc điểm quan trọng nhất về
nền công nghiệp, nông nghiệp của đất nước, đã chỉ ra mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân xâm lược; đã xác định: Đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời
kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã
hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Trong Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo
luận trong Đảng) được thay thế cho cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản
Việt Nam lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam. Giai
1

Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, tr. 73


cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong
kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Giai cấp cơng nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nơng dân, có quan
hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột.
Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó
thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở
mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những
người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có
lịng u nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ
từ bên ngoài truyền vào.

Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người
dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy,
trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với
giai cấp địa chủ và phong kiến đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày
càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam
với thực dân Pháp xâm lược.
Đối với Chính cương Đảng lao động Việt Nam tháng 2 năm 1951, tính chất xã
hội Việt Nam bao gồm tính dân tộc dân chủ, một phần thuộc địa nửa phong kiến. Đây
chính là sự bổ sung mới đối với tính chất dân chủ và điều chỉnh tính chất thuộc địa so
với Cương lĩnh chính trị và Luận cương chính trị. Nếu như ở những năm 1930 tính chất
của xã hội Việt Nam chỉ được xác định là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra
hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc,
tự do cho nhân dân; Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân
dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân.
Về mặt mâu thuẫn, Chính cương Đảng lao động đã khẳng định quan điểm đúng
đắn khi xác định mâu thuẫn chủ yếu trong Cương lĩnh chính trị chính là khắc phục hạn
chế trong đánh giá mâu thuẫn của Luận cương chính trị, đồng thời bổ sung nội dung
mới trong xác định mâu thuẫn xã hội Việt Nam là giữa tính chất dân chủ nhân dân và
tính chất thuộc địa.


3. Về đối tượng của cách mạng
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo và được Hội nghị thành lập Đảng vào ngày 03/02/1930 đã xác định nhiệm vụ chiến
lược: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; giành độc lập cho nước
Việt Nam”
Tháng 10/1930, Luận cương chính trị xác định đối tượng cách mạng bao gồm
đánh đổ đế quốc nhưng có tính chất thổ địa. Đảng đánh đổ các di tích phong kiến để
thực hành thổ địa cách mạng triệt để và đánh đổ đế quốc, giành độc lập cho Đông Dương.
Hai nhiệm vụ phản đế và thổ địa có quan hệ khăng khít với nhau, trong đó “Vấn đề thổ

địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”. Theo Luận cương chính trị, Đảng xác
định nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng là chống đế quốc và phong kiến.
Trong Chính cương Đảng lao động Việt Nam, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt
Nam đã nêu rõ trong lòng xã hội Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và trong kháng
chiến chống thực dân Pháp tồn tại những mâu thuẫn đó là giữa toàn thể nhân dân Việt
Nam và bọn đế quốc xâm lược; giữa phần lớn nhân dân và địa chủ phong kiến; giữa lao
động và tư bản trong nước. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và bọn đế quốc là dữ dội
nhất được thể hiện qua chiến tranh.
Do đó sang Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 (02/1951), Đảng đã xác định đối

tượng chính gây ra tính chất phức tạp và phát triển không đều của xã hội Việt Nam
là chủ nghĩa đế quốc xâm lược và tay sai. Vì vậy, Đảng ta xác định “kẻ thù chính
của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, vì đó là lực lượng chính
đang đẩy xã hội Việt Nam lùi lại. Kẻ thù cụ thể trước mắt của cách mạng Việt Nam
lúc này là đế quốc Pháp, vì chúng đang trực tiếp xâm lược Việt Nam hòng đặt lại
ách xưa. Kẻ thù nguy hiểm của cách mạng Việt Nam lúc này là đế quốc Mỹ, vì đế
quốc Mỹ thúc đẩy giúp đỡ thực dân Pháp đánh Việt Nam, lại đang ra sức lừa phỉnh
cám dỗ nhân dân Việt Nam, chuẩn bị nhảy thẳng vào Việt Nam. Kẻ thù phụ của cách
mạng Việt Nam nói chung là thế lực phong kiến, lúc này là phong kiến phản động
và cụ thể là các hạng bù nhìn làm chó săn cho đế quốc”2.

2

Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, tr. 75


Mục tiêu của Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là làm cho Việt Nam
được độc lập hồn tồn, dựng ra Chính phủ cơng nơng binh và tổ chức quân đội công
nông.
Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân so với Cương lĩnh chính trị đầu

tiên tương tự nhau. Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã xác định được đúng đắn vấn đề dân
tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì lúc bấy giờ, mâu
thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam chính là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Nhiệm vụ hàng đầu là chống đế quốc về
cả phương diện kinh tế lẫn chính trị, và xóa bỏ chế độ phong kiến trên phương diện
chính trị. Vì phong kiến lúc bấy giờ khơng có quyền thống trị nên nhiệm vụ tập trung
chống đế quốc cho nước Việt Nam độc lập.
So với Luận cương chính trị, Đảng xác định đối tượng là chống phong kiến và
chống đế quốc (có tính chất thổ địa). Qua đó, ta thấy Luận cương chính trị chưa thật sự
xác định được mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Đông Dương. Đối với Luận cương đã xác
định nhiệm vụ hàng đầu là chống phong kiến giai cấp xem việc giải quyết vấn đề thổ
địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
2, Đảng đã chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đưa nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu và tạm gác lại các khẩu hiệu cách mạng ruộng đất.
4. Về nhiệm vụ của cách mạng
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, văn kiện nhận định nhiệm vụ của cách mạng
trên ba phương diện. Về chính trị, đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và chế độ
phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ cơng nơng
binh, tổ chức ra quân đội công nông. Về kinh tế, tịch thu sản nghiệp lớn của tư bản đế
quốc chủ nghĩa Pháp giao cho Chính phủ cơng nơng binh; tịch thu tồn bộ ruộng đất
của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo; mở mang công
nghiệp, nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo... Về văn hóa – xã hội, dân chúng
được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền, ...; phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hóa.
Văn kiện nhận định nhiệm vụ chống đế quốc về phương diện kinh tế, chính trị nhưng
chỉ chống phong kiến về phương diện chính trị.


Trong Luận cương chính trị, luận cương nhận định đây chính là “thời kỳ dự bị
để làm xã hội cách mạng”. nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền ở nước
ta là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ, lập ra chính phủ công

nông, tịch thu ruộng đất của địa chủ trao cho nơng dân. Luận cương cịn xác định hai
nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau. Việc chống
phong kiến, giải quyết vấn đề ruộng đất đóng vai trị rất quan trọng, vì chỉ khi đó nông
dân đã có ruộng đất sẽ hào hứng tham gia kháng chiến. Do đó, trong bản luận cương
này thổ địa cách mạng nằm trong tư sản dân quyền và là nhiệm vụ của cách mạng tư
sản dân quyền.
Trong Chính cương Đảng Lao Động Việt Nam, Đảng ta xác định ra ba nhiệm vụ
cần giải quyết. Một là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất
thật sự cho dân tộc. Hai là xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến xóa bỏ
những di tích phong kiến và nửa phong kiến. Ba là làm cho người cày có ruộng, phát
triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức được thực tiễn lúc bấy giờ, Đảng cần tập trung giải quyết hai vấn đề đó
là vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ thông qua giải quyết ba nhiệm vụ ấy. Đồng thời,
Đảng nhận định ba nhiệm vụ trên có quan hệ khăng khít với nhau, song, nhiệm vụ chính
trước mắt là hồn thành giải phóng dân tộc. Lúc này phải tập trung lực lượng vào cuộc
kháng chiến để hồn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì có giải phóng dân tộc thì
mới chặt đứt được tay sai phong kiến. Có độc lập dân tộc thì mới có thể đi lên xây dựng
xã hội chủ nghĩa để đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân. Và hơn lúc nào hết, chúng
ta phải tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng
dân tộc.
Trong cả ba văn kiện Đảng đều xác định được hai nội dung nhiệm vụ của Đảng
về dân tộc và dân chủ. Tuy nhiên lại có sự khác biệt đôi chút về nhiệm vụ ưu tiên hàng
đầu.
Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân so với Cương lĩnh chính trị đầu
tiên tương tự nhau. Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã xác định được đúng đắn vấn đề dân
tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì lúc bấy giờ, mâu
thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam chính là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt


Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Nhiệm vụ hàng đầu là chống đế quốc về

cả phương diện kinh tế lẫn chính trị, và xóa bỏ chế độ phong kiến trên phương diện
chính trị. Vì phong kiến lúc bấy giờ khơng có quyền thống trị nên nhiệm vụ tập trung
chống đế quốc cho nước Việt Nam độc lập.
So với Luận cương chính trị, Đảng xác định đối tượng là chống phong kiến và
chống đế quốc (có tính chất thổ địa). Qua đó, ta thấy Luận cương chính trị chưa thật sự
xác định được mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Đông Dương. Đối với Luận cương đã xác
định nhiệm vụ hàng đầu là chống phong kiến giai cấp xem việc giải quyết vấn đề thổ
địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
2, Đảng đã chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đưa nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu và tạm gác lại các khẩu hiệu cách mạng ruộng đất.
Qua đó ta thấy được, ở Chính cương Đảng lao động Việt Nam đã có những điều
chỉnh hết sức hợp lý để phù hợp thực tiễn và tính chất xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Với
nhiệm vụ chính là đánh đuổi đế quốc, nhưng quan trọng nhất là giành được độc lập
thống nhất thực sự cho Việt Nam. Đồng thời cũng khắc phục chủ trương nhấn mạng
nhiệm vụ chống phong kiến của Luận cương. Hơn thế nữa ở văn kiện này còn làm nổi
bật lên con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội với những chi tiết rõ ràng hơn mà hai văn
kiện năm 1930 chưa làm được.
5. Về lực lượng tham gia cách mạng
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng ta đã xác định lực lượng cách mạng
là tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày
nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất. Cùng với hết sức lơi kéo tiểu tư
sản, trí thức, trung nơng… đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa
chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nhất cũng
làm cho họ đứng trung lập, bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân, thông qua Đảng Cộng sản.
Trong Luận cương chính trị, văn kiện này xác định giai cấp vơ sản là lực lượng
chính; dân cày là động lực mạnh cách mạng. Chỉ có nơng dân, cơng nhân và phần tử
lao khổ mới có thể tham gia cách mạng. Và những phần tử tư sản sẽ không được tập
hợp tham gia cách mạng, bởi vì họ đặt tư bản và phong kiến đứng cùng một phe với đế



quốc. Đối với tiểu tư sản, thủ công nghiệp có thái độ do dự, tiểu tư sản thương gia không
tán thành cách mạng, tiểu tư sản tri thức chỉ hăng hái chống để quốc trong thời kỳ đầu.
Khi phong trào cách mạng lên cao sẽ theo đế quốc chống lại cách mạng.
Trong Chính cương Đảng lao động Việt Nam, động lực của cách mạng Việt Nam
lúc này là: công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân
tộc; ngồi ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp
và phần tử đó họp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí
thức. Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Giải quyết những nhiệm vụ cơ
bản nói trên do nhân dân làm động lực, công nông và lao động trí thức làm nền tảng và
giai cấp cơng nhân lãnh đạo, cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân.
So với Luận cương chính trị, chỉ tập hợp cơng nhân, nơng dân và phân tử lao khổ
như là thợ thủ công, bán hàng rong và trí thức thất nghiệp tham gia cách mạng. Hay ở
Cương lĩnh chính tri đầu tiên, tập hợp tất cả các giai cấp, không phân biệt đối xử. Nền
tảng là liên minh giai cấp công nhân và nơng dân. Thì đến với Chính cương Đảng lao
động Việt Nam, khẳng định quan điểm đúng đắn khi xác định lực lượng tham gia cách
mạng giải phóng dân tộc là tồn thể dân tộc trong Cương lĩnh chính trị; khắc phục hạn
chế trong tập hợp lực lượng cách mạng của luận cương chính trị thay vì chỉ tập hợp giai
cấp công nhân và giai cấp nông dân, chưa tập hợp giai cấp tư sản, giai cấp phong kiến
và tiểu tư sản.
Trong Cương lĩnh chính trị và Luận cương chính trị, nền tảng của khối đại đoàn
kết dân tộc là công nhân và nơng dân; cịn ở Chính cương Đảng lao động Việt Nam bổ
sung thêm lao động trí thức vào nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.
6. Các giai đoạn phát triển của cách mạng
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng nhận định cách mạng Việt Nam
trải qua ba giai đoạn: Tư sản dân quyền cách mạng; Thổ địa cách mạng rồi tiến tới Xã
hội cộng sản. Đặt thổ địa cách mạng ra khỏi tư sản dân quyền, tập trung chống đế quốc
và chống phong kiến để giành độc lập. Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng là độc lập nhau và đồng thời cũng không nằm trong Xã hội Cộng Sản. Nghĩa là



nếu muốn tiến hành cách mạng ruộng đất, liên quan đến thổ địa, liên quan đến chống
phong kiến, thì không đặt vào giai đoạn tư sản dân quyền mà đặt ở giai đoạn sau.
Trong Luận cương chính trị, luận cương đã xác định về mối quan hệ giữa hai giai
đoạn cách mạng bao gồm “Cách mạng tư sản dân quyền” và “Cách mạng xã hội chủ
nghĩa”. Luận cương xác định Cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc “Cách mạng
tư sản dân quyền” có tính chất “Thổ địa và phản đế”, giải quyết vấn đề dân tộc trên lập
trường giai cấp. nghĩa là đặt thổ địa cách mạng chung với tư sản dân quyền, vừa chống
đế quốc, vừa xóa bỏ phong kiến, vừa giải quyết vấn đề ruộng đất ở giai đoạn này. Sau
khi cách mạng tư sản dân quyền giành thắng lợi, sẽ tiếp tục phát triển cách mạng xã hội
chủ nghĩa, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa, tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ
nghĩa.
Trong Chính cương Đảng lao động Việt Nam xác định cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội. Do giai
cấp công nhân lãnh đạo, liên minh chặt chẽ với nơng dân và lao động trí óc, lại được sự
giúp đỡ của Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, nhất là Trung Quốc, cách mạng
Việt Nam không thể đi con đường nào khác ngoài con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đó là một con đường đấu tranh lâu dài, đại thể trải qua ba giai đoạn: giai đoạn thứ
nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ
chủ yếu là xố bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người
cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba,
nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa
xã hội.
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ xen kẽ với nhau. Nhưng
mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trung tâm, phải nắm vững nhiệm vụ trung tâm đó để tập
trung lực lượng vào đó mà thực hiện.
Trong giai đoạn thứ nhất, giai đoạn hiện tại, mũi nhọn của cách mạng chĩa vào đế
quốc xâm lược. Đảng phải tập hợp mọi lực lượng dân tộc, lập Mặt trận dân tộc thống
nhất, kháng chiến chống bọn đế quốc xâm lược và các hạng Việt gian. Đồng thời phải

cải thiện đời sống cho nhân dân, đặc biệt là nhân dân lao động, để cho nhân dân hǎng
hái kháng chiến.


Song giai đoạn thứ hai, mũi nhọn của cách mạng chĩa vào lực lượng phong kiến.
Lúc đó Đảng phải tập trung lực lượng xố bỏ những di tích phong kiến và nửa phong
kiến, triệt để thực hiện người cày có ruộng, đẩy mạnh việc kỹ nghệ hố; hồn chỉnh chế
độ dân chủ nhân dân. Song, vẫn tiếp tục chống đế quốc thế giới, bảo vệ độc lập của dân
tộc.
Đến giai đoạn thứ ba, trọng tâm của cách mạng là phát triển cơ sở xã hội chủ nghĩa,
chuẩn bị thực hiện chủ nghĩa xã hội. Những bước cụ thể giai đoạn này phải tuỳ theo
điều kiện cụ thể của tình hình trong nước và ngoài nước khi đó mà quyết định.
Việt Nam hiện nay đang ở Giai đoạn 2 bước chuyển để lên Chủ nghĩa xã hội. Năm
1975, Việt Nam hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Việt Nam thực hiện
bước quá độ, xóa bỏ dấu ấn cũ của xã hội cũ: tàn tích phong kiến.
So với Luận cương chính trị xác định cách mạng Việt Nam chỉ trải qua hai giai
đoạn cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng Xã hội chủ nghĩa, thì chính cương
Đảng lao động đã có thể nhận ra con đường đấu tranh và phát triển lâu dài của cách
mạng Việt Nam là thông qua cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ nhân dân Việt Nam.
Tuy nhiên trong hoàn cảnh lịch sử năm 1930, luận điểm “bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh
đấu thẳng lên con đường Xã hội Chủ nghĩa” của Luận cương chính trị là một đóng góp
lớn về mặt lý luận, là một luận điểm cách mạng và khoa học được trình bày sớm nhất
trong các văn kiện của Đảng.
So với Cương lĩnh chính trị đầu tiên, cả hai văn kiện đều thống nhất Việt Nam
phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu. Chỉ khi kháng chiến giải phóng dân tộc
thành cơng thì nhiệm vụ xóa bỏ chế độ phong kiến mới có thể được tập trung hồn
thành.
Chính cương Đảng lao động Việt Nam đã làm rõ hơn những nhiệm vụ cần thực
hiện trong mỗi giai đoạn, đặc biệt là nhấn mạnh nhiệm vụ chủ yếu của từng giai đoạn,
làm rõ con đường phát triển của cách mạng Việt Nam mà các cương lĩnh năm 1930 vẫn

chưa thể làm đường. Điều này một lần nữa nhấn mạnh tính đúng đắn của chính cương
trong q trình hoàn thiện cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.


7. Về phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, do sự ra đời của ba tổ chức cộng sản trong
vòng nửa cuối năm 1929 cùng với lý luận cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã thấm sâu
trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Chính những điều đó đã
làm cho phong trào cách mạng Việt Nam càng trở nên mạnh mẽ và quyết liệt hơn, nhưng
lực lượng và sức mạnh của cách mạng đã bị phân tán. Cho nên yêu cầu thành lập một
Đảng chung thống nhất cho toàn Việt Nam đã được đặt ra, chấm dứt sự chia rẽ trong
phong trào cộng sản Việt Nam để tiến hành chống đế quốc để Việt Nam.
Trong Luận cương chính trị khẳng định “Xứ Đông Dương (Việt Nam, Cao Miên
và Lào) là một xứ thuộc địa để khai khẩn của đế quốc chủ nghĩa Pháp”, nên cuộc cách
mạng Đông Dương sẽ là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Lập ra chính phủ cơng
nơng theo hình thức Xơ Viết để chống đế quốc trên toàn Đơng Dương.
Trong Chính cương Đảng lao động Việt Nam, cuộc kháng chiến của ta là một
cuộc chiến tranh nhân dân. Đặc điểm của nó là: toàn dân, toàn diện, trường kỳ. Đảng
phải tập hợp mọi lực lượng dân tộc, lập Mặt trận dân tộc thống nhất, kháng chiến chống
bọn đế quốc xâm lược và các hạng Việt gian.
Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam được thành lập với mục đích đoàn kết tất
cả mọi đảng phái, mọi đoàn thể và mọi thân sĩ yêu nước, không phân biệt giai cấp,
chủng tộc, tôn giáo, nam nữ để cùng nhau kháng chiến kiến quốc; lấy liên minh cơng
nơng và lao động trí thức làm nịng cốt và do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết với các đảng phái, các đoàn thể, các thân sĩ
trong Mặt trận dân tộc thống nhất theo nguyên tắc: Đoàn kết thành thực – Thống nhất
hành động – Hợp tác lâu dài.
So với Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Chính cương Đảng lao động Việt Nam tiếp
tục khẳng định quan điểm đúng đắn khi xác định việc giải quyết vấn đề dân tộc thuộc
về chính dân tộc Việt Nam trong Cương lĩnh chính trị về chống đế quốc để VN độc lập.

So với Luận cương chính trị, Chính cương Đảng lao động Việt Nam đã khắc phục
hạn chế trong của Luận cương chính trị khi muốn giải quyết vấn đề dân tộc trên toàn


Đông Dương, chưa khai thác quyền tự quyết của các dân tộc trong sự nghiệp tự giải
phóng cho mình khiến cho các quốc gia.


TỔNG KẾT
Với những thắng lợi tuyệt vời đó, đường lối, quan điểm của Đảng ta là đúng đắn
và sáng tạo. Dựa trên những yêu cầu quy luật khách quan và yêu cầu thực tiễn của cách
mạng Việt Nam cho thấy con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một con đường lâu dài.
Những quan điểm và đường lối đã được phản ánh trong nền tảng chính trị của đảng. Từ
khi thành lập đến nay, dưới những hình thức và tên gọi khác nhau, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã ban hành những Cương lĩnh hoặc những văn bản có tính cương lĩnh có ý nghĩa
lịch sử.
Thứ nhất, đó là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo và được Hội nghị thành lập Đảng (tháng 2/1930) thảo luận và thơng qua. Dự thảo
chính đã xác định rõ nhiều vấn đề cơ bản trong chiến lược và chiến thuật của Cách mạng
Việt Nam. Văn kiện thể hiện cô đọng các luận điểm cách mạng cơ bản, đánh giá chính
xác tính chất xã hội Việt Nam thuộc địa và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân xâm lược; xác định đường lối phát triển,
chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam được thực hiện bằng sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Cương lĩnh xác định chiến lược
cách mạng của Ðảng là tiến hành cuộc “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản” do giai cấp cơng nhân lãnh đạo.
Thứ hai, Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đơng Dương do đồng chí
Chung-Hu khởi xướng, được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (tháng 10-1930)
thảo luận và thơng qua. Luận cương chính trị khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản
thuộc về chiến lược cách mạng mà Cương lĩnh tháng hai đã nêu ra. Tuy nhiên Luận

cương chính trị có một số hạn chế nhất định như là không nêu ra được mâu thuẫn chủ
yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ đó không đặt nhiệm vụ
chống đế quốc lên hàng đầu; đánh giá khơng đúng vai trị cách mạng của tầng lớp
tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc và chưa thấy được khả năng
phân hố, lơi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân
tộc, từ đó Luận cương đã không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai
cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai.


Thứ ba, Chính cương Đảng lao động Việt Nam đã được thảo luận và thông qua tại
đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ 2 năm 1951. Chính cương ấy đã làm rõ nét và bổ sung
cho các cương lĩnh năm 1930 góp phần hoàn thiện đường lối cách mạng của nhân dân
ta. Văn kiện đã phân tích nhiệm vụ chủ yếu của Cách mạng Việt Nam là đánh đuổi đế
quốc xâm lược, giành độc lập thực sự, thống nhất đất nước, xóa bỏ các di tích phong
kiến và nửa phong kiến, đưa nền nông nghiệp dân chủ, nông dân phát triển, đặt nền
móng cho chủ nghĩa xã hội. Chủ trương chính khẳng định Cách mạng Việt Nam hiện
nay là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là
một cuộc đấu tranh lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn với nhiệm vụ trọng
tâm là tập trung toàn lực cho sự nghiệp hồn thành giải phóng dân tộc trong tương lai
gần.
Về đường lối của Đảng, Bộ Chính trị đã phân tích rõ cần hồn thành sự nghiệp
giải phóng dân tộc, xóa bỏ chế độ phong kiến, phát triển dân chủ nhân dân, tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Chủ trương kháng chiến là chấm dứt cuộc kháng chiến nhiều mặt,
toàn diện và lâu dài để giành độc lập, thống nhất Tổ quốc. Thành lập chính quyền
dân chủ nhân dân trên cơ sở Mặt trận dân tộc Hoa Kỳ, trên cơ sở liên minh cơng nhân,
nơng dân và trí thức do giai cấp cơng nhân lãnh đạo.
Vì vậy, mỗi cương lĩnh chính trị của mỗi đảng cách mạng đều có giá trị to lớn
phản ánh hoàn cảnh, nhiệm vụ cụ thể của Cách mạng Việt Nam ở mỗi thời đại khác
nhau. Chính cương Đảng lao động Việt Nam chính là một cột móc đánh dấu sự bổ
sung hoàn thiện hoàn chỉnh cho đường lối cách mạng Việt Nam.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2021), Tháng 2-1951: Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ II của Đảng, truy cập từ: ngày truy cập:
01/03/2022.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt
Nam (Dành cho sinh viên đại học khối khơng chun ngành Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh).
3. Các cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Cổng thông tin điện tử
Học viện Cảnh sát nhân dân, truy cập từ: ngày truy
cập: 01/03/2022
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính
trị quốc gia Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính
trị quốc gia Hà Nội.



×