Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

CHỦ đề NGHIÊN cứu các yếu tố ẢNH HƯỞNG đến QUYẾT ĐỊNH lựa CHỌN đà lạt là điểm đến của KHÁCH DU LỊCH nội địa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.39 KB, 62 trang )

TRƯỜNG

ĐẠI HỌC NƠNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TÊ

CHỦ ĐỀ
NGHIÊN CỨU CÁC YÊU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐÊN QUYÊT ĐỊNH LỰA CHỌN
ĐÀ LẠT LÀ ĐIỂM ĐÊN CỦA KHÁCH DU LỊCH NỘI ĐỊA

Học phần: NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG
Giảng viên: Lê Na
Nhóm học viên thực hiện: Nhóm 7

Tp.HCM, 08/06/2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... ..

6

1.1. Đặt vấn đề .............................................................................................................. 6
1.2. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................. 7
CHƯƠNG II ........................................................................................................................

8

TỔNG QUAN ......................................................................................................................

8


2.1. Tổng quan về tài liệu nghiên cứu .............................................................................. 8
2.2. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu ........................................................................... 14
2.3. Tổng quan về ngành du lịch .................................................................................... 17
CHƯƠNG III ..................................................................................................................... 18
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................. 18
3.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................ ............ 18
3.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 23
3.3. Xây dựng thang đo .................................................................................................. 25
CHƯƠNG IV ..................................................................................................................... 27
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................................................................. 27
4.1. Phân tích mức độ ảnh hưởng từ góc độ nhân khẩu học khi du khách chọn Đà Lạt là
điểm đến. ........................................................................................................................

28

4.2. Đánh giá mức độ hài lòng của du khách khi chọn Đà Lạt là điểm đến
..................

31

4.3. Phân tích động cơ lựa chọn Đà Lạt là điểm đến đi du lịch của du khách
...............

34

CHƯƠNG V ...................................................................................................................... 55
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................................... 55
5.1. Kết luận ................................................................................................................... 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 58
3



PHỤ LỤC.............................................................................................................................60

4


MỤC LỤC
Bảng 1. Giới tính.............................................................................................................. 28
Bảng 2: Nghề nghiệp........................................................................................................ 29
Bảng 3. Độ tuổi................................................................................................................ 29
Bảng 4. Thu nhập............................................................................................................. 30
Bảng 5. Tần suất.............................................................................................................. 30
Bảng 6. Thống kê biến..................................................................................................... 31
Bảng 7. Cronbach alpha của biến HL............................................................................... 31
Bảng 8. Cronbach alpha của biến DG.............................................................................. 33
Bảng 9. EFA..................................................................................................................... 34
Bảng 10. Tương quan....................................................................................................... 39
Bảng 11. Hồi quy............................................................................................................. 40
Bảng 12. Kiểm định theo tuổi.......................................................................................... 43
Bảng 13. Kiểm định học vấn............................................................................................ 44
Bảng 14. Kiểm định nghề................................................................................................. 45
Bảng 15. Kiểm định thu nhập.......................................................................................... 46
Bảng 16. Kiểm định phương tiện..................................................................................... 47
Bảng 17. Kiểm định hình thức đi du lịch......................................................................... 48
Bảng 18. Kiểm định người đi du lịch............................................................................... 50
Bảng 19. Kiểm định tần suất............................................................................................ 51
Bảng 20. Kiểm định......................................................................................................... 52



CHƯƠNG I
MỞ ĐẦU

1.1.

Đặt vấn đề

Trong thời đại phát triển của khoa học và cơng nghệ, con người có xu hướng tìm hiểu
thơng tin qua máy tính, qua báo đài hay qua internet về tin tức, về những thơng tin hữu
ích bổ trợ cho cuộc sống của họ như công việc hay giải trí. Và du lịch cũng là một trong
những lựa chọn hàng đầu, du lịch không chỉ giúp họ giải toả phần nào áp lực trong cơng
việc nó cịn giúp bản thân kết nối được với những người xung quanh như du lịch với gia
đình, bạn bè, hay đồng nghiệp, khơng những thế cịn giúp bản thân có thêm nhiều trãi
nghiệm trong cuộc sống, cảm nhận nhiều điều thú vị hơn. Du lịch dần trở thành một phần
của cuộc sống, trở thành công cụ giúp phát triển cuộc sống mỗi người ngồi ra nó cịn trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, cũng như mang lại nguồn tài chính khổng lồ cho nhiều
quốc gia, vùng, lãnh thổ trên toàn thế giới. Du lịch phát triển đồng nghĩa với việc khách
du lịch ngày càng có nhiều quyền được lựa chọn về điểm đến hay sản phẩm và dịch vụ tại
đó. Từ đó, các nhà quản lý du lịch và điểm đến không ngừng đề ra những chiến lược phù
hợp để thu hút khách du lịch trên cơ sở tìm hiểu về nhu cầu, mong muốn, hay hành vi của
du khách dựa vào đó để đánh giá về một điểm đến du lịch.
Vấn đề du lịch chư bao giời là hết hót mà sức nóng của nó ngày một lang toả nhiều hơn.
Nhắc đến du lịch thì người Việt Nam đều đã quen thuộc với những địa danh nổi tiếng ở các
vùng miền hay tỉnh thành trong nước như: Vùng bảy núi – An Giang, biển Mũi Né – Phan
Thiết hay Núi Bà – Tây Ninh, ngồi ra cịn Nha Trang, Phú Quốc hay một địa điểm


vơ cùng nổi tiếng hầu như được mọi người tìm đến những dịp lễ tết hay các cô cậu học
sinh, sinh viên đến vào dịp hè với cái tên gọi thân thuộc như Thành Phố Sương Mù hay
Thành Phố Ngàn Hoa. Đúng thế đấy chính là Đà Lạt địa điểm thu hút nhiều khách du lịch

nội địa cũng như thế giới. Theo số liệu Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng,
trong năm 2019, địa phương này đón 7,1 triệu lượt khách, trong đó có 4,6 triệu lượt
khách Đông Nam Bộ, lượng khách này tăng 10,1% so với 2018.
Để có thể trở thành điểm đến ăn khách như hiện tại thì các nhà quản lý phải nghiên cứu
từng động cơ của khách du lịch nội địa khi lựa chọn Đà Lạt nắm rõ hơn về nhu cầu, thị
hiếu, xu hương và hành vi tiêu dùng du lịch của họ. Từ đó có những chính sách phù hơn
nhằm đáp ứng nhu cầu, mong muốn và tăng sự hài lòng của khách đến Đà Lạt. Việc
Nghiên cứu dựa trên cơ sở khảo sát và phân tích các động cơ lựa chọn Đà Lạt là điểm đến
của du khách nội địa; đồng thời so sánh sự khác biệt về động cơ và lựa chọn của họ. Từ
đó, thực hiện mục tiêu nghiên cứu là đề xuất một số gợi ý chính sách để nâng cao khả
năng thu hút du khách đối với điểm đến Đà Lạt vốn rất nhiều tiềm năng, đưa Đà Lạt trở
thành điểm đến lý tưởng, không thể thiếu trong hành trình du lịch của du khách quốc tế
và nội địa. Từ đó nhóm quyết định thực hiện chủ đề: “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng
đến quyết định lựa chọn Đà Lạt là điểm đến của khách du lịch nội địa.”
1.2.

Mục tiêu nghiên cứu

1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn Đà Lạt là điểm đến của khách
du lịch nội địa.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
-

Đánh giá mức độ hài lòng của du khách khi chọn Đà Lạt là điểm đến

-

Phân tích mức độ ảnh hưởng từ góc độ nhân khẩu học khi du khách chọn Đà Lạt là
điểm đến


-

Phân tích động cơ lựa chọn Đà Lạt là điểm đến đi du lịch của du khách

-

Đề xuất kiến nghị tăng cường xây dựng và quảng bá hình ảnh điểm đến Đà Lạt


CHƯƠNG II
TỔNG QUAN

2.1. Tổng quan về tài liệu nghiên cứu
Brian King (2009) Dân số mẫu bao gồm các cư dân Trung Quốc đại lục đến thăm Việt
Nam như một phần của chuyến du lịch có tổ chức hoặc với tư cách là khách du lịch độc lập
tự do. Một cuộc khảo sát thực tế đã được thực hiện tại Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2004,
với những người trả lời được tiếp cận ngẫu nhiên tại các điểm tham quan chính, nhà hàng,
cửa hàng, khách sạn và quán bar ở các thành phố lớn ở Việt Nam như Thành phố Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng, Hội An, Huế, Hải Phịng và Hà Nội. Khoảng 250 câu trả lời đã được nhận,
trong đó 235 câu trả lời được coi là hồn chỉnh và có thể sử dụng được. Dữ liệu định lượng là
phương pháp chính để xây dựng các phát hiện và cung cấp một bức tranh rõ ràng hơn về
nhận thức và mức độ hài lịng. Phân tích mơ tả là phương pháp được lựa chọn để phân tích
hồ sơ xã hội học và đặc điểm du lịch của người trả lời, mức độ hài lòng của họ với các thuộc
tính điểm đến của Việt Nam và tầm quan trọng của họ đối với các yếu tố góp phần khác
nhau. Khi được hỏi về ý định thăm lại, 35,3% người được hỏi khẳng định chắc chắn sẽ quay
trở lại Việt Nam, 48,5% sẽ cân nhắc quay lại Việt Nam, trong khi chỉ 16,2% thì khơng.
Những phát hiện này cho thấy du khách Trung Quốc sẵn sàng tiếp tục đến Việt Nam du lịch.
Về việc giới thiệu Việt Nam là điểm đến kỳ nghỉ cho những người khác, 38,3% người được
hỏi trả lời "chắc chắn có", 47,2% trả lời "có" và chỉ 14,5% người trả lời phủ định. Tỷ lệ

người trả lời cho thấy một giới thiệu tích cực cho người khác cao hơn so với việc tái khám.
Tuy nhiên, mức độ hài lòng chung của khách du lịch Trung Quốc là cao. Châu Á là một
trong những khu vực du lịch phát triển nhanh nhất thế giới, việc mở rộng


hiểu biết về Việt Nam như một điểm đến và kết nối du lịch với các đặc điểm văn hóa phổ
biến của du khách.
Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự (2011) đã thực hiện một cuộc nghiên cứu các nhân tố
ảnh hưởng đến nhu cầu du lịch của du khách nội địa trong dịp Tết tại Thành Phố Cần
Thơ. Số liệu sử dụng trong nghiên cứu được thu nhập bằng phương pháp phỏng vấn trực
tiếp 280 đang cư trú trên địa bàn thành phố. Áp dụng phương pháp hồi quy logistic và hồi
qui tương quan đa biến . Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các nhân tố ảnh hưởng đến
cầu du lịch vào dịp Tết là độ tuổi, trình độ học vấn, địa bàn cư trú, thu nhập hàng tháng,
tình trạng hôn nhân và số lần đi du lịch trong năm; Mức chi tiêu cho du lịch vào dịp Tết
chịu ảnh hường bởi các yếu tố: độ tuổi, trình độ học vấn, thu nhập hàng tháng, tình trạng
hơn nhân và địa bàn cư trú, số lần du lịch trong năm và du lịch vào dịp Tết năm trước.
Nannapad Yimsrisai và cộng sự (2012) khảo sát khoảng 100 khách du lịch tại
Departures. Sau đó, dữ liệu sẽ được phân tích bằng cách sử dụng một chương trình thống
kê (SPSS); phân tích mơ tả, phân tích nhân tố và phân tích hồi quy. Nghiên cứu đã xác
định 4 yếu tố ảnh hưởng đến mức độ hài lịng của khách du lịch: Tính sẵn có của các địa
điểm thu hút tại một điểm đến, Động cơ thúc đẩy khách du lịch đến một điểm đến, Nhận
thức về trải nghiệm và các yếu tố thúc đẩy của một điểm đến.
Năm 2014, Mai Ngọc Khương và Huỳnh Thị Thu Hà đã thực hiện nghiên cứu về “Ảnh
hưởng của các yếu tố thúc đẩy ý định quay trở lại nghỉ dưỡng của khách du lịch nghỉ dưỡng
quốc tế đến TP.HCM”. Một cuộc khảo sát bằng bảng câu hỏi đã được thực hiện với 426
người trả lời để thu thập dữ liệu sơ cấp. Nhiều phân tích hồi quy và phân tích đường dẫn đã
được thực hiện để kiểm tra các giả thuyết nghiên cứu. Các yếu tố thúc đẩy có ảnh hưởng tích
cực trực tiếp đến ý định quay trở lại Việt Nam của khách du lịch. Ngoài ra, kết quả cũng cho
thấy các yếu tố đẩy và kéo có ảnh hưởng gián tiếp đến ý định quay trở lại của khách du lịch
thông qua sự hài lịng về điểm đến của họ. Do đó, các tổ chức kinh doanh hoạt động trong

lĩnh vực du lịch cần tính đến vai trị thiết yếu của các yếu tố thúc đẩy, kéo để thu hút thêm
lượng khách tiềm năng và nâng cao sự hài lòng về điểm đến của họ. và khuyến khích họ trở
lại thăm Việt Nam. Tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam năm


2013 đạt 7.572.352 lượt, tăng 10,6% so với năm trước, với 4.640.882 lượt khách du lịch
nghỉ dưỡng và chiếm hơn 60%. Tổng doanh thu của ngành du lịch Việt Nam năm 2013
đạt hơn 9,5 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2012. Để đạt được mục tiêu này, các tổ chức
du lịch Việt Nam không chỉ cần thu hút thêm khách du lịch lần đầu mà còn phải tăng
lượng khách lặp lại. , đưa Việt Nam trở thành điểm đến trung thành của du khách quốc tế.
Hoàng Thành Nhơn (2014) Nghiên cứu này nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến nhận
thức của người tiêu dùng về độ tin cậy của thông tin liên quan đến du lịch trực tuyến trên
cộng đồng trực tuyến, đặc biệt là mạng xã hội trực tuyến và mức độ ảnh hưởng đến mức
độ tin cậy của thông tin trực tuyến ảnh hưởng đến sự tin tưởng và quyết định du lịchlàm. Các cuộc khảo sát trực tuyến và ngoại tuyến về người tiêu dùng Việt Nam được thực
hiện với tổng số 328 người trả lời bảng câu hỏi về các yếu tố quyết định nhận thức của
người tiêu dùng, sự tin tưởng trực tuyến và việc sử dụng thông tin trực tuyến cho các
quyết định đi du lịch. Các phát hiện cho thấy việc sử dụng mạng xã hội trực tuyến
(Facebook) phổ biến trong trao đổi thông tin du lịch và mức độ cảm nhận về độ tin cậy
của thông tin trực tuyến của người tiêu dùng có ảnh hưởng tích cực đến lịng tin cũng như
quyết định đi du lịch của người tiêu dùng.
Trần Thị Kim Thoa (2015) khảo sát 250 khách du lịch đến từ Tây Âu - Bắc Mỹ đã hoàn
thành việc lựa chọn điểm đến và đã đến Hội An. Đánh giá thang đo bằng hệ số tin cậy
Cronbach’s Alpha, Phân tích nhân tố khám phá (EFA), Phân tích tương quan và hồi quy,
Kiểm định sự khác biệt về mức độ đánh giá quyết định lựa. Theo kết quả cho thấy các yếu tố
tác động đến quyết định lựa chọn điểm đến của khách du lịch được đo lường bởi 29 biến
quan sát. Trong đó động cơ đi du lịch được đo lường bằng 7 biến quan sát, thái độ được đo
lường bằng 3 biến quan sát, hình ảnh điểm đến được đo lường bằng 11 biến quan sát, nhóm
tham khảo được đo lường bằng 2 biến quan sát, giá tour du lịch được đo lường bằng 3 biến
quan sát, truyền thông được đo lường bằng 3 biến quan sát. Giải pháp nâng cao hình ảnh
điểm đến Hội An. Tăng cường đảm bảo một mơi trường du lịch an tồn và thân thiện.

Ngô Mỹ Trân và cộng sự (2016) khảo sát 150 đối tượng đã và đang có nhu cầu du lịch.
Nghiên cứu được thực hiện bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá kết hợp với hồi


quy tuyến tính. Kết quả nghiên cứu cho thấy hai nhóm nhân tố có tác động tích cực đến
nhu cầu du lịch nội địa là yếu tố ngẫu nhiên và yếu tố văn hóa - xã hội, riêng nhóm nhân
tố chi phí có hướng ảnh hưởng tiêu cực đến nhu cầu du lịch nội địa. Trên cơ sở kết quả
nghiên cứu này, một số khuyến nghị chính sách đã được đề xuất cho các doanh nghiệp du
lịch tại thành phố Cần Thơ trong việc hình thành chiến lược thúc đẩy nhu cầu du lịch nội
địa của bộ phận nhân viên văn phòng.
Năm 2016, Đồng Xuân Đàm đã thực hiện nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến điểm
đến du lịch Lựa chọn: Khảo sát quốc tế Du khách đến Hà Nội, Việt Nam”, bao gồm 160
bảng câu hỏi khảo sát có thể sử dụng (khách du lịch quốc tế) đến các điểm tham quan
khác nhau tại Hà Nội. Nhà nghiên cứu đã sử dụng câu hỏi đóng kết hợp thang điểm kiểu
Likert, dựa trên kết quả EFA, hồi quy tuyến tính được sử dụng để kiểm tra mối quan hệ
giữa giá trị thương hiệu dựa trên khách hàng và ý định hành vi của khách du lịch quốc tế.
Kết quả cho thấy nếu DMO hay chính phủ hay nhà tiếp thị nói chung tập trung vào việc
xây dựng giá trị thương hiệu của điểm đến, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ chất lượng
cao, đặc biệt là hình ảnh tích cực của thương hiệu điểm đến sẽ in sâu vào tâm trí họ, thì
nhiều khách du lịch hơn có khả năng sẽ quay lại Hà Nội hoặc giới thiệu điểm đến này cho
bạn bè, người thân của họ. Những phát hiện này phù hợp với các nghiên cứu về giá trị
thương hiệu dựa trên người tiêu dùng trước đây được thực hiện trong bối cảnh người tiêu
dùng. Tuy nhiên, kết quả của mơ hình lý thuyết rút ra từ Mơ hình phương trình cấu trúc
cho thấy rằng khơng có mối quan hệ đáng kể nào giữa nhận thức về thương hiệu điểm
đến và ý định của khách du lịch.
Năm 2016, Javid Seyidov và Roma Adomaitienė tại Đại học Vilnius, Lithuania đã thực
hiện một bài báo phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi và quyết định của khách du lịch
địa phương trong việc chọn Azerbaijan là điểm đến. Các phương pháp nghiên cứu bao gồm:
phân tích tài liệu khoa học và dữ liệu thứ cấp, khảo sát dựa trên bảng câu hỏi, xử lý dữ liệu
thống kê: phân tích thống kê mơ tả, kiểm định Cronbach’s Alfa, Mann Whitney U và Kruskal

Wallis H, phân tích nhân tố. Kết quả nghiên cứu cho thấy tuổi tác, thu nhập hàng tháng và
tình trạng hơn nhân của du khách Azerbaijan địa phương ảnh hưởng đến


hành vi du lịch của họ, đặc biệt là trong thời gian của chuyến đi. Tiện nghi của điểm đến,
cơ sở hạ tầng du lịch, đặc điểm môi trường, nguồn nhân lực và giá cả là những thuộc tính
quan trọng đối với du khách địa phương trong việc lựa chọn điểm đến du lịch.
Vào năm 2016, Roma Adomaitienė, Javid Seyidov đã thực hiện một nghiên cứu về các
yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn điểm đến của khách du lịch địa phương trong
một trường hợp của Azerbaijan. Tình hình du lịch hiện tại ở Azerbaijan được xem xét.
Việc phân tích các yếu tố xã hội, văn hóa, cá nhân và tâm lý ảnh hưởng đến việc ra quyết
định của khách du lịch Azerbaijan địa phương đến các loại điểm du lịch khác nhau với
các thuộc tính khác nhau như, điểm tham quan, tiện nghi sẵn có, khả năng tiếp cận, hình
ảnh, giá cả và nguồn nhân lực được thực hiện. Nghiên cứu bao gồm cả dữ liệu chính và
dữ liệu thứ cấp. Dữ liệu thứ cấp được sử dụng để đưa ra cái nhìn sâu sắc về chủ đề và
đánh giá kết luận. Dữ liệu chính được thu thập bằng cách khảo sát khách du lịch nội địa
của Azerbaijan. Kết quả khảo sát được phân tích bằng cách ngụ ý thống kê mô tả, kiểm
định phi tham số và phân tích nhân tố. Kết quả nghiên cứu cho thấy độ tuổi, thu nhập
hàng tháng và tình trạng hơn nhân của du khách Azerbaijan địa phương ảnh hưởng đến
hành vi du lịch của họ, đặc biệt là trong thời gian của chuyến đi. Tiện nghi điểm đến, cơ
sở hạ tầng du lịch, đặc điểm môi trường, nguồn nhân lực và giá cả là những thuộc tính
quan trọng đối với du khách địa phương trong việc lựa chọn điểm đến du lịch.
T. Hoàng và cộng sự (2016) nghiên cứu khảo sát trên 577 du khách với 38 biến quan sát
nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn của du khách nước ngoài
đến các điểm du lịch của thành phố Đà Nẵng. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 5 nhóm yếu tố
ảnh hưởng như sau: Tiêu chuẩn chủ quan, giá trị cảm nhận, chiến lược cung cấp thông tin,
chiến lược marketing và Môi trường du lịch. Sau khi phân tích dữ liệu, mục tiêu chính của
nghiên cứu này là: Thứ nhất, xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn của du
khách nước ngoài đến các điểm du lịch của thành phố Đà Nẵng. Thứ hai, xác định thứ tự ưu
tiên về mức độ tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn của du khách

nước ngoài đến các điểm du lịch của thành phố Đà Nẵng. Thứ ba, đề xuất các


giải pháp nhằm tăng cường thu hút khách du lịch nước ngoài đến các điểm du lịch của
thành phố Đà Nẵng
Nguyễn Thị Minh Nghĩa và cộng sự (2017) khảo sát 137 du khách nội địa đã từng đến
Hội An nhằm khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút của thành phố này.
Kết quả phân tích nhân tố khám phá chỉ ra rằng có 5 yếu tố đại diện cho khả năng thu hút
du khách nội địa đối với Hội An. Tuy nhiên, kết quả phân tích hồi quy lại cho thấy chỉ có
yếu tố “Thiên nhiên và khí hậu”, “ Lưu trú và ẩm thực” có ảnh hưởng đến khả năng thu
hút của Hội An đối với du khách nội địa. Ngồi ra Hội An khơng những có vị trí thuận
lợi mà cịn được thừa hưởng những di tích lịch sử, văn hóa và những danh lam thắng
cảnh tuyệt đẹp. Vì thế, việc nghiên cứu, giữ gìn, phát triển và thúc đẩy các hoạt động
quảng bá du lịch có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thu hút khách du lịch trong và ngồi
nước, làm góp phần gia tăng lượng khách đến Hội An.
Hồ Bạch Nhật và cộng sự (2018) khảo sát 400 khách du lịch về các yếu tố ảnh hưởng
đến quyết định lựa chọn điểm đến Thành Phố Châu Đốc, tỉnh An Giang của khách du
lịch. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích EFA. Nghiên cứu đã xác định được
tám yếu tố có ảnh hưởng đến lựa chọn địa điểm du lịch của du khách là lập hạ tầng tiếp
cận, lịch sử văn hóa, giải trí thư giãn, chính trị kinh tế, môi trường cảnh quan, thông tin
điểm đến, ẩm thực mua sắm, động lực du lịch
Nguyễn Hồng Đơng (2020) khảo sát 250 khách du lịch Hàn Quốc. Nghiên cứu được thực
hiện bằng phương pháp nghiên cứu lí luận, phương pháp nghiên cứu thực tiển, phương pháp
thống kê toán học để phần tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn điểm du lịch
Miền Trung. Kết quả cho thấy, các nhân tố ảnh hưởng được đề xuất trong mơ hình giải thích
được 70% sự lựa chon điểm đến miền Trung của khách du lịch Hàn Quốc. Trong đó, đặc
trưng điểm ảnh hưởng là lớn nhất, tiếp đến là lần lượt giải trí thư giản, chi phí của chuyến đi.
Các nhân tố cịn lại trong mơ hình có mức độ ảnh hưởng thấp hoặc khơng có ảnh hưởng đến
quyết định lựa chon điểm đến Miền Trung. Vì vậy, kết quả nghiên cứu có


ý nghĩ đối với cơng tác quản lí du lịch, quản lí điểm đến và các doanh nghiệp kinh doanh
du lịch liên quan đến Miền Trung của Việt Nam, xây dựng các sản phẩm du lịch da dạng


mang đặc sắc riêng dựa trên thế mạnh và tiềm năng của Miền Trung, tăng cường công tác
xúc tiến và quảng bá du lịch, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển du
lịch.
Đinh Thị Mai Hương (2021) đã thực hiện phương pháp nghiên cứu tìm hiểu những yếu tố
tác động vào quá trình hình thành quyết định khi chọn một điểm du lịch. Nghiên cứu sử dụng
2 phương pháp nghiên cứu, phương pháp định lượng và phương pháp định tính. Kết quả
nghiên cứu, với những thơng tin đầu vào thông qua khảo sát thực tế, tác giả đã sử dụng phần
mềm SPSS và các kỹ thuật có liên quan để kiểm định các giả thuyết. Quyết định lựa chọn
điểm đến du lịch Phú Quốc của khách du lịch nội địa chịu ảnh hưởng bởi 5 nhóm yếu tố:
Động cơ đi du lịch; Thái độ đối với điểm đến; Gíá tour du lịch; Truyền thơng và Hình ảnh
điểm đến. Trong đó yếu tố Động cơ đi du lịch là ảnh hưởng nhiều nhất.

Nguyễn Quốc Khánh và cộng sự (2021) đã thực hiện một cuộc nghiên cứu các yếu tố
ảnh hưởng đến sự lựa chọn điểm đến của khách du lịch Đông Nam Bộ trường hợp điểm
đến Đà Lạt, bao gồm 250 phiếu khảo sát sau khi lượt bỏ và giữ lại các phiếu phù hợp còn
205. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng phương pháp Nghiên cứu lý thuyết và thực trạng kết
hợp thang đo của Mutinda, Mayaka để đánh giá mức độ biểu hiện các động cơ đẩy và
động cơ kéo thúc đẩy họ lựa chọn điểm đến Đà Lạt. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng
khách du lịch Đông Nam Bộ lựa chọn điểm đến Đà Lạt được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố
thuộc về động cơ đẩy và động cơ kéo. Trong đó, kiến thức và khám phá, giải trí và thư
giãn, văn hóa và tơn giáo, gia đình và bạn bè, an tồn cá nhân, đặc trưng của điểm đến,
thông tin về điểm đến, lịch trình di chuyển hợp lý là những yếu tố được du khách quan
tâm ở mức độ khá cao. Tóm lại, có thế thấy, lượng khách nói chung và khách Đơng Nam
Bộ nói riêng đến Đà Lạt là rất lớn. Do vậy, việc nghiên cứu, tiếp cận, duy trì và thúc đẩy
các hoạt động quảng bá du lịch có ý nghĩa quan trọng để thu hút, làm góp phần gia tăng
lượng khách Đông Nam Bộ đến Việt Nam đến Đà Lạt hàng năm.

2.2. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
2.2.1. Điều kiện tự nhiên


a. Vị trí địa lý
Đà Lạt ở phía đơng bắc tỉnh Lâm Đồng, khơng có đường địa giới hành chính chung với
các tỉnh lân cận, phía bắc giáp huyện Lạc Dương, phía đơng và đơng nam giáp huyện
Đơn Dương, phía tây giáp huyện Lâm Hà, phía tây nam giáp huyện Đức Trọng.
b. Thời tiết và khí hậu
Do ảnh hưởng của độ cao và quần thể thực vật rừng thông bao bọc, thời tiết Đà Lạt
mang nhiều đặc tính của miền ôn đới, dịu mát quanh năm. Thành phố Đà Lạt có nền nhiệt
độ thấp. Nhiệt độ trung bình dao động từ 18 đến 21°C, nhiệt độ cao nhất chưa bao giờ
quá 30°C và thấp nhất không dưới 5°C. Đà Lạt có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô.
-

Mùa khô: từ tháng 11 đến tháng 4, trùng với mùa gió mùa đơng bắc, thời tiết nhìn
chung nắng ấm, ít mây, không mưa, ban đêm nhiệt độ thấp. Thi thoảng sẽ có mưa
vào buổi chiều, đơi khi có mưa đá.

-

Mùa mưa: từ tháng 5 đến tháng 10, trùng với mùa gió mùa tây nam, thường có
mưa lớn hoặc kéo dài. Lượng mưa trung bình năm là 1562 mm và độ ẩm
82%.

c. Các điều kiện tự nhiên
- Địa hình:
Địa hình thành phố Đà Lạt cao trung bình so với mặt biển là 1.500 m. Nơi cao nhất
trong trung tâm thành phố là Nhà Bảo Tàng (1.532 m), nơi thấp nhất là thung lũng
Nguyễn Tri Phương (1.398,2 m). Địa hình cơ bản có thể phân làm 3 dạng: núi cao, đồi

thấp và thung lũng.
- Đất đai
Đất đai ở Đà Lạt được phong hoá từ nhiều nguồn khác nhau như đá macma, đá trầm
tích, đá biến chất…


Các loại đất chủ yếu ở Đà Lạt là đất feralit đỏ vàng, đất feralit vàng đỏ, đất mùn vàng
xám,… Đất ở Đà Lạt khá phì nhiêu, chưa bị thối hóa nhiều. Tuy nhiên do có địa hình
dốc nên dễ bị rửa trơi, xói mịn vào mùa mưa
- Thực vật
Do đặc điểm về khí hậu và thổ nhưỡng nên sự phân bố thảm thực vật tự nhiên tại Đà lạt
rất phong phú và đa dạng với nhiều kiểu rừng khác nhau. Chúng vừa mang tính chất của
thảm thực vật nhiệt đới ẩm, vừa mang tính chất của vùng á nhiệt đới ẩm. Trong đó, chiếm
ưu thế là rừng lá kim với đặc trưng là rừng thông 3 lá.
Rừng ở Đà Lạt vừa là thắng cảnh, vừa có giá trị bảo vệ mơi trường và có vai trị quan
trọng trong phát triển mạng lưới du lịch của khu vực Nam Tây nguyên.
Thành phố ngàn hoa Đà Lạt hội tụ các yếu tố về khí hậu thuận lợi, vị trí địa lý quan
trọng đối với an ninh quốc phòng, thảm thực vật, động vật phong phú, nhiều cảnh đẹp.
Nơi đây hàng năm đón hàng triệu lượt khách tới tham quan, nghỉ dưỡng, thúc đẩy ngành
du lcihj phát triển mạnh mẽ.
d. Các điều kiện kinh tế xã hội
Đà Lạt có một nền kinh tế thiên về các lĩnh vực du lịch, dịch vụ và nông nghiệp. Vào năm
2007, các ngành du lịch và dịch vụ chiếm đến 70% tổng sản phẩm nội địa của thành phố. Giá
trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế của Đà Lạt năm 2011 đạt 2.047,400 tỷ đồng, tương
đương với Bảo Lộc, thành phố thứ hai của Lâm Đồng. Trong lĩnh vực công nghiệp, thu hút
nhiều lao động nhất là các ngành công nghiệp chế biến. Một số sản phẩm của Đà Lạt như
rượu vang, trà Atisô hay mứt trái cây từ lâu đã được biết đến rộng rãi. Nhờ điều kiện khí hậu
và thổ nhưỡng thích hợp, Đà Lạt còn là vùng đất trồng nhiều chè và cà phê, cũng là hai sản
phẩm quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp chế biến của thành phố. Một nghề mới phát
triển trong những năm cuối thế kỷ 20 tại Đà Lạt là nghề thêu, nổi bật hơn cả là những sản

phẩm tranh thêu của Công ty XQ Đà Lạt. Trong thành phố, cịn có thể thấy sự hiện diện của
các công ty in ấn, may mặc, dệt, chế biến tinh dầu, sản xuất lâm sản...


Năm 2011, thành phố Đà Lạt có tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 17%, tổng giá trị kim ngạch
xuất khẩu đạt 42,7 triệu đô la Mỹ và thu nhập bình quân đầu người khoảng 26,6 triệu đồng

2.3. Tổng quan về ngành du lịch
- Lịch sử phát triển của du lịch Việt Nam cũng được xem xét qua các thời kỳ nhưng
không giống như lịch sử phát triển du lịch thế giới, lịch sử phát triển du lịch Việt Nam bắt
đầu từ thời kỳ Phong kiến.
- Thời kỳ phong kiến: Ở Việt Nam hiện tượng đi du lịch đã xuất hiện rõ nét ở thời kỳ này,
đó là các chuyến du lịch của vua chúa đi thắng cảnh, lễ hội và các chuyến đi du ngoạn
của các thi sĩ.
- Thời kỳ cận đại: Du lịch vẫn chưa phổ biến trong dân chúng, chỉ một bộ phận rất nhỏ,
đó là những người có địa vị, tiền bạc biết đến du lịch. Sau khi dành được chính quyền
năm 1945, du lịch Việt Nam hầu như cũng không phát triển.
- Thời kỳ sau năm 1975: Đến sau năm 1975 khi đất nước được độc lập hoàn toàn, các
chuyến đi du lịch của cán bộ cơng nhân viên và người lao động có nhiều thành tích được
nhà nước đài thọ theo chương trình điều dưỡng đã tăng lên nhanh chóng. Sau năm 1990
khi chính sách đổi mới và thực hiện đổi mới nền kinh tế đã gặt hái được những thành
cơng thì du lịch trở thành xu hướng có tính phổ biến trong mọi tầng lớp dân cư. Các hoạt
động du lịch đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn các loại hình, chi tiêu và thời gian.
Du lịch khơng chỉ diễn ra trong nước mà cả các chuyến đi du lịch ra nước ngoài cũng dần
tăng lên.


CHƯƠNG III
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Cơ sở lí luận

3.1.1. Một số khái niệm về du lịch
a. Khái niệm về du lịch
Du lịch là một ngành “cơng nghiệp khơng khói” góp phần tăng thu nhập quốc gia và
giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận lớn lao động. Ngày nay nhiều nước trên thế
giới trong đó có Việt Nam đã ưu tiên phát triển ngành du lịch như một ngành mũi nhọn
quốc gia mình. Vì vậy trước tiên để có thể khai thác hiệu quả ngành này chúng ta cần
phải hiểu được bản chất của nó.
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu đi du lịch của con người càng cao. Ngày nay du lịch
trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến. Hiệp hội lữ hành quốc tế đã công nhận
du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới vượt lên cả ngành sản xuất ô tô, thép điện
tử và nơng nghiệp. Vì vậy, du lịch đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều
quốc gia và Việt Nam cũng khơng là ngoại lệ, góp phần tăng thu nhập quốc gia và giải
quyết công ăn việc làm cho một bộ phận lớn lao động. Thuật ngữ du lịch đã trở nên khá
thông dụng, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ với ý nghĩa là đi một vòng.
Theo Jafari (1977), du lịch là hoạt động con người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên, hoạt
động này chịu sự tác động của văn hóa-xã hội, kinh tế và mơi trường. Đồng tình với quan
điểm khi cho rằng du lịch là hoạt động của con người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên,
(Leiper, 1997) đã bổ sung thêm thời gian đi có thể là một hoặc nhiều đêm và hoạt động này
khơng nhằm mục đích kiếm tiền. Theo Liên hiệp Quốc tế Tổ chức các Cơ quan Lữ hành


(International Union of Official Travel Oragnization: IUOTO): Du lịch được hiểu là hành
động du hành đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên cuả mình nhằm mục đích
khơng phải để làm ăn, tức khơng phải để làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống...

Theo Tổ chức du lịch thế giới (World Tourism Organization): Du lịch bao gồm tất cả mọi
hoạt động của những người du hành tạm trú với mục đích tham quan, khám phá và tìm
hiểu, trải nghiệm hoặc với mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn cũng như mục đích hành
nghề và những mục đích khác nữa trong thời gian liên tục nhưng khơng q một năm ở
bên ngồi mơi trường sống định cư nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là

kiếm tiền. Luật Du lịch Việt Nam 2017 đã đưa ra khái niệm như sau: “Du lịch là các hoạt
động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời
gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí,
tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”.
Qua thời gian, khái niệm về du lịch được bổ sung và hoàn thiện về nội hàm. Tuy nhiên,
nội dung của khái niệm này có thể khái quát qua 03 nhân tố cơ bản là: (1) du lịch là sự di
chuyển một cách tạm thời trong một thời gian nhất định, có điểm xuất phát và quay trở về
điểm bắt đầu; (2) du lịch là hành trình tới điểm đến, sử dụng các dịch vụ như dịch vụ lưu
trú, ăn uống… và tham gia các hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của du khách ở các
điểm đến. (3) chuyến đi có thể có nhiều mục đích riêng hoặc kết hợp, loại trừ mục đích
định cư và làm việc tại điểm đến.
b. Khái niệm khách du lịch
Cũng như khái niệm du lịch, có rất nhiều quan niệm khác nhau về khách du lịch. Định
nghĩa đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII tại Pháp, theo đó khách du lịch là người thực
hiện một cuộc hành trình lớn “Faire le grand tour”. Cuộc hành trình lớn là cuộc hành trình từ
Paris đến Đơng nam nước Pháp. Căn cứ vào nội hàm của khái niệm du lịch, khách du lịch có
thể được xác định dựa vào các hoạt động của họ, du khách là những người có các các hoạt
động liên quan đến một kỳ nghỉ xa và rời khỏi nơi cư trú thường xuyên ít nhất một đêm
(Leiper, 1979). Theo một cách hiểu khác, khách du lịch là người tiêu dùng tại các điểm đến
du lịch bằng các hoạt động sử dụng các tài nguyên nơi mà họ đến tham quan. Tất


cả các hoạt động của du khách đều loại trừ hoạt động kiếm tiền tại nơi đến. Luật Du lịch
Việt Nam 2017 có quy định về khái niệm và phân loại của khách du lịch như sau: “Khách
du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc để
nhận thu nhập ở nơi đến”. Theo đó, khách du lịch bao gồm: khách du lịch nội địa, khách
du lịch quốc tế đến Việt Nam và khách du lịch ra nước ngoài. Cụ thể, các loại khách du
lịch này được định nghĩa như sau: (1) Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người
nước ngoài cư trú ở Việt Nam đi du lịch trong lãnh thổ Việt Nam; (2) Khách du lịch quốc
tế đến Việt Nam là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt

Nam du lịch.; (3) Khách du lịch ra nước ngồi là cơng dân Việt Nam và người nước
ngoài cư trú ở Việt Nam đi du lịch nước ngoài.
c. Khái niệm điểm đến du lịch
Du lịch là hoạt động đặc thù, có hướng đích khơng gian. Người đi du lịch rời khỏi nơi
cư trú thường xuyên để đến một địa điểm cụ thể nhằm thỏa mãn nhu cầu theo mục đích
chuyến đi. Nhiều nghiên cứu về sự điểm đến du lịch ở những góc độ khác nhau nên cũng
đưa ra các khái niệm về điểm đến du lịch chưa có sự thống nhất.
Trong tiếng Anh, từ “Tourism Destination” được dịch ra tiếng Việt là điểm đến du lịch.
Tổ chức Du lịch Thế giới (UN-WTO), đã đưa ra quan niệm về điểm đến du lịch (Tourism
Destination) như sau: “Điểm đến du lịch là vùng khơng gian địa lý mà khách du lịch ở lại
ít nhất một đêm, bao gồm các sản phẩm du lịch, các dịch vụ cung cấp, các tài nguyên du
lịch thu hút khách, có ranh giới hành chính để quản lý và có sự nhận diện về hình ảnh để
xác định khả năng cạnh tranh trên thị trường”.
Tourist attraction là một điểm thu hút khách du lịch, nơi khách du lịch tham quan,
thường có các giá trị vốn có của nó hoặc trưng bày các giá trị văn hóa, ý nghĩa lịch sử
hoặc được xây dựng, cung cấp các dịch vụ về phiêu lưu, mạo hiểm, vui chơi giải trí hoặc
khám phá, trải nghiệm những điều mới lạ (University, 2007).
Điểm tham quan du lịch về cơ bản có những điểm giống như định nghĩa về điểm đến du
lịch, nhưng khác cơ bản với điểm đến du lịch đó là khách chỉ đến tham quan sử dụng các


dịch vụ tại đây, nhưng không ngủ lại 1 đêm. Mặt khác, điểm tham quan du lịch thường
nằm trong một điểm đến du lịch và điểm tham quan du lịch rất đa dạng, phụ thuộc vào sự
sáng tạo của những người làm du lịch.
Như vậy, điểm đến du lịch (Tourism destination) là một trong những khái niệm rất rộng và
đa dạng. Điểm đến du lịch là nơi diễn ra quản trị cầu đối với du lịch, và quản trị sự tác động
của nó tới điểm đến. Hay điểm đến du lịch là nơi có các nhân tố hấp dẫn, các nhân tố bổ sung
và các sản phẩm kết hợp những nhân tố này để đáp ứng các nhu cầu và mong muốn của du
khách. Theo cách tiếp cận truyền thống, điểm đến du lịch như một nơi được xác định đơn
thuần bởi nhân tố địa lý hay phạm vi không gian lãnh thổ. Theo cách hiểu này, điểm đến

dùng để chỉ một địa điểm có sức hút du khách bởi tính đa dạng của tài nguyên, chất lượng và
một loạt các tiện nghi và các dịch vụ khác cung cấp cho khách. Điểm đến có thể là một Châu
lục, một đất nước, một hòn đảo hay một thị trấn, nơi mà khách du lịch đến tham quan, nơi có
thể chế chính trị và khn khổ pháp lý riêng biệt, và được áp dụng các kế hoạch Marketing
cũng như cung cấp các sản phẩm, dịch vụ du lịch cho khách, đặc biệt là nơi đó phải được đặt
tên hiệu cụ thể. Điểm đến cũng được xem là một vùng địa lý được xác định bởi khách du
lịch, nơi có các cơ sở vật chất kỹ thuật và các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của du khách
(Cooper, Fletcher, Gilbert, Shepherd, & Wanhill, 2004). Đồng quan điểm đó, (Nguyễn Văn
Mạnh, 2007) cho rằng điểm đến du lịch là một địa điểm mà chúng ta có thể cảm nhận được
bằng đường biên giới về địa lý, đường biên giới về chính trị hay đường biên giới về kinh tế
có tài nguyên du lịch hấp dẫn, có khả năng thu hút và đáp ứng được nhu cầu của khách du
lịch. Trên cơ sở khái niệm về điểm đến du lịch và xét theo tiêu chí về địa lý, tác giả phân chia
điểm đến du lịch theo các mức độ hay qui mô cơ bản sau đây:

(1) các điểm đến có qui mơ lớn là điểm đến của một vùng lãnh thổ hay ở cấp độ Châu lục
như khu vực Đông Nam Á, Nam Mỹ, Châu Âu, Châu Á, Châu Phi…; (2) điểm đến vĩ mô là
các điểm đến ở cấp độ của một quốc gia; (3) điểm đến vi mô gồm các vùng, tỉnh, thành phố,
quận huyện thậm chí là 1 xã, thị trấn… Có nhiều căn cứ để phân loại điểm đến, cụ thể như:
(1) căn cứ vào hình thức sở hữu: có thể phân loại đó là điểm đến thuộc sở hữu nhà nước hay
tư nhân; (2) căn cứ vào vị trí: có thể phân loại điểm đến là ở vùng biển hay vùng


núi, là thành phố hay nông thôn; (3) căn cứ vào giá trị tài nguyên du lịch: có thể phân loại
đó là điểm đến có giá trị tài nguyên tự nhiên hay nhân văn; (4) căn cứ vào đất nước: có
thể phân loại điểm đến là điểm đến du lịch là một đất nước hay một nhóm đất nước, hay
có thể là một hay một nhóm đất nước, hay có thể là một khu vực; (5) căn cứ vào mục
đích: có thể phân loại điểm đến sử dụng với mục đích khác nhau; (6) căn cứ vào vị trí quy
hoạch: đó là điểm đến thuộc trung tâm du lịch của vùng hay là những điểm đến phụ cận.
Sự cung cấp và mức độ thỏa mãn của 6 thành tố này sẽ ảnh hưởng đến quyết định lựa
chọn điểm đến cũng như sự hài lòng của du khách sau khi tham quan điểm đến, bao gồm:

(1) Các điểm thu hút khách (attractions) là các điểm tham quan, một điểm đến thường có
nhiều điểm thu hút; (2) Trang thiết bị tiện nghi công và tư (Public and Private Amenities)
như các tiện nghi như đường sá, điện, nước và các dịch vụ trực tiếp như hệ thống cơ sở
lưu trú, cơ sở ăn uống, trung tâm mua sắm, trung tâm thông tin, dịch vụ hướng dẫn…; (3)
Khả năng tiếp cận (Accessibility) thể hiện ở tính dễ dàng và thuận tiện trong việc di
chuyển tới điểm đến và di chuyển tại điểm đến hay các yêu cầu về thị thực, hải quan và
các điều kiện xuất nhập cảnh khác; (4) Nguồn nhân lực (Human resources) gồm có nguồn
lao động trong ngành và người dân địa phương tại điểm đến; (5) Hình ảnh và nét đặc
trưng của điểm đến (image và character) là nét đặc trưng cho điểm đến là một nhân tố rất
quan trọng để thu hút khách đến với một điểm đến bất kỳ, nó nhấn mạnh ở các khía cạnh
như: tính đặc trưng, phong cảnh, văn hóa, mơi trường, mức độ an tồn, mức độ tiện nghi,
tính thân thiện của người dân địa phương hoặc là sự kết hợp của các nhân tố này; (6) giá
(Price) là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến mức độ cạnh tranh của điểm đến cũng
như quyết định lựa chọn điểm đến của khách du lịch, giá gồm tất cả các chi phí đối với
khách du lịch, bắt đầu từ chi phí để di chuyển tới điểm đến, chi phí sử dụng sản
phẩm/dịch vụ tại điểm đến và cuối cùng là rời khỏi điểm đến.
Trong 6 thành tố đó, điểm thu hút khách du lịch là thành tố trung tâm, đóng vai trị quan
trọng trong việc tạo ra động cơ thúc đẩy khách lựa chọn điểm đến. Các điểm thu hút khách
bao gồm điểm thu hút chính bởi giá trị tài nguyên thiên nhiên, giá trị tài nguyên nhân tạo và
giá trị tài nguyên lịch sử - văn hóa. Ngồi ra, tính đặc trưng hay những trải nghiệm riêng


biệt ở điểm đến cũng có thể coi là những nhân tố vơ hình để thu hút khách. Một trong
những lý do khiến điểm đến được nhiều du khách lựa chọn đó chính là sức hấp dẫn hay
sức hút của nó. Khả năng thu hút của điểm đến “phản ánh cảm nhận, niềm tin, và ý kiến
mà mỗi cá nhân có được về khả năng làm hài lịng khách hàng của điểm đến trong mối
liên hệ với nhu cầu chuyến đi cụ thể của họ” (Hu & Ritchie, 1993). Sự phát triển của khu
du lịch gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của điểm đến du lịch, các điểm du lịch cũng trải
qua chu kỳ phát triển tương tự chu kỳ sống của sản phẩm đồng thời trong mỗi giai đoạn
của chu kỳ sống sức chứa của khu du lịch là nhân tố quyết định sự tồn tại cũng như kéo

dài của giai đoạn và là vấn đề trung tâm của phát triển du lịch bền vững ở khu vực.
Tóm lại, từ góc độ khoa học về du lịch, khái niệm điểm đến du lịch trở thành đối tượng
nghiên cứu gắn với sự chuyển động của dòng du khách cũng như ý nghĩa và sự tác động
của dòng du khách đối với điểm đến. Nghiên cứu này tiếp cận khái niệm điểm đến du lịch
như là một sản phẩm du lịch gồm cả nhân tố hữu hình như biên giới địa lý, điểm thu hút,
cơ sở hạ tầng... lẫn vơ hình như thương hiệu, danh tiếng của điểm đến.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
a. Dự liệu sơ cấp
Dữ liệu của nghiên cứu được thu thập theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện trong thời
gian từ tháng 6 đến tháng 7/2022. Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng với
bảng khảo sát, lấy mẫu thuận tiện và cỡ mẫu 70. Thang đo sử dụng trong nghiên cứu là
thang đo Likert 05 mức độ. Qua quá trình khảo sát, 70 phiếu được gửi đi và thu về 50
phiếu thu thập thông tin về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn Đà Lạt của
khách du lịch nội địa đã kiểm tra, sàng lọc và loại bỏ những bảng khảo sát bị lỗi hoặc
nghi ngờ về tính chính xác (những bảng khảo sát chỉ trả lời 1 đáp án cho tất cả các câu
hỏi). Những phiếu khảo sát hợp lệ, có thể sử dụng để phân tích trong nghiên cứu là 40
phiếu khảo sát, chiếm tỷ lệ hoàn thành là trên 80% trên tổng danh sách thu về là 40 phiếu.
b. Dữ liệu thứ cấp


Thu thập dữ liệu thứ cấp từ sách, báo, tạp chí, Internet và giáo trình về marketing, hành
vi người tiêu dùng hỗ trợ cho cơ sở lý thuyết của đề tài. Thu thập báo cáo liên quan đến
yếu tố nguồn nhân lực, tình hình hoạt động kinh doanh, lượt khách, doanh thu chọn tour
nội địa và nguồn khách khai thác của Công ty du lịch Đà Lạt Trip giai đoạn 2015-2017.
3.2.2. Phương pháp phân tích số liệu
Sau khi thu lại các phiếu điều tra, chúng em tiến hành lọc phiếu và làm sạch dữ liệu
bằng cách lập bảng tần số cho tất cả các biến, rồi chỉnh sửa các biến thiếu sót hoặc có lỗi.
Với những phiếu thiếu sót thơng tin hoặc không hợp lệ sẽ bị loại bỏ nhằm đảm bảo cho
tính chính xác của kết quả nghiên cứu.

Để thực hiện việc xử lý số liệu đảm bảo tính chính xác, chúng em sử dụng phần mềm
SPSS20.0. Các chỉ số cần được phân tích như sau:
a. Phương pháp thống kê mô tả
Thống kê mô tả là phương pháp được dùng để mơ tả những đặc tính cơ bản của dữ liệu thu
nhập được từ nghiên cứu thực nghiệm qua các hình thức khác nhau. Phương pháp này giúp
có những tóm tắt cơ bản về mẫu và các thước đo. Cùng với phân tích đồ họa đơn giản, thống
kê mơ tả tạo ra được nền tảng của mọi phân tích định lượng về số liệu. Trong phạm

vi đề tài, phương pháp này được dùng để tóm tắt đơn giản về mẫu và các thước đo trong
các đặc điểm của khách du lịch nội địa.
Trong phần này, chúng em sử dụng các chỉ số sau:
- Kiểm tra phân phối chuẩn của mẫu
Phân tích phân phối chuẩn của mẫu để kiểm tra sự phân bố dữ liệu có thể tuân theo quy
luật phân phối chuẩn hay khơng, từ đó biết được có thể áp dụng các kỹ thuật định lượng
bằng phân tích phương sai để ước lượng các tham số trong quá trình kiểm định thang đo,
mơ hình nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu.
Hai tham số được sử dụng để kiểm tra tính phân phối chuẩn của mẫu là các chỉ số Skewness
(độ lệch) và Kurtosis (độ nhọn). Với phân phối bình thường, giá trị của độ lệch và độ nhọn


bằng 0. Căn cứu trên tỷ số giữa giá trị Skewness và Kurtosis và sai số chuẩn của nó, ta có
thể đánh giá phân phối có bình thường hay khơng. Nếu dữ liệu tn theo phân phối chuẩn
thì hai thơng số bằng 0, khi tỷ số này nhỏ hơn – 2 và lớn hơn 2 thì phân phối là khơng
bình thường.
- Lập bảng tần suất để xem xét sự phân bố của các giá trị
- Điểm trung bình: để tính điểm đạt được của từng nhân tố cũng như của từng nhóm nhân
tố.
- Độ lệch chuẩn: để đánh giá mức độ phân tán hoặc thay đổi của điếm số xung quanh
giá trị trung bình.
b. Phương pháp so sánh

Phương pháp so sánh được dùng để áp dụng phân tích các dữ liệu nhằm để đối chiếu các
chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế khi được lượng hóa có cùng nội dung, có tính tương đồng
để từ đó chỉ ra được các mức biến động của chỉ tiêu xem xét và xác định xu hướng của
nó. Dùng phương pháp này để tìm ra những điểm chung và tách ra những điểm riêng của
sự vật, hiện tượng so sánh, trên cơ sở đó đánh giá được mặt tốt xấu, hiệu quả hay kém
hiệu quả. Trong phạm vi đề tài, phương pháp này được dùng để so sánh các chỉ tiêu thu
nhập và chi phí của khách du lịch nội địa tại Đà Lạt.
3.3. Xây dựng thang đo
Phương pháp chính để thể đạt được mục tiêu của nghiên cứu là phương pháp định lượng
để có thể hiểu được giá trị đạt được mà điểm đến mang lại và mối quan hệ của giá trị đó
với ý định hành vi của khách du lịch. Tất cả các bước trong quá trình tiến hành đo lường
là cực kỳ quan trọng bởi vì nó ảnh hưởng rất lớn đến kết quả nghiên cứu.
Đối với mỗi đơn vị liên quan và các biến có liên quan từ các nghiên cứu trước đây đã được
sử dụng. Với đề xuất của các nhà nghiên cứu, đặc biệt là khi thực hiện xác định các biến về
hình ảnh điểm đến , mức độ nhận biết điểm đến, chất lượng điểm đến, lịng trung thành với
điểm đến và các khía cạnh liên quan của nó. Các biến được sử dụng phổ biến nhất được


tìm thấy trong các nghiên cứu trước đây được điều chỉnh và sử dụng cho điều tra của
trường hợp điểm đến Đà Lạt.
Câu hỏi được thiết kế bao gồm câu hỏi đóng và mở. Sử dụng thang đo kiểu Likert 5 điểm
cung cấp năm tùy chọn khác nhau để người trả lời khảo sát lựa chọn các lựa chọn bao
gồm hai thái cực, hai ý kiến trung gian và một ý kiến trung lập, trong đó 1 là hồn tồn
khơng đồng ý và 5 là hoàn toàn đồng ý. Việc sử dụng thang đo định danh trong nghiên
cứu giúp quy ước các cá nhân trả lời câu hỏi này thành các biểu hiện của biến, chúng ta
có thể quy ước đặt biến bằng các con số và những con số này mang tính định danh từ đó
có thể được áp dụng các kỹ thuật phân tích bậc cao hơn.



×